Văn 11 Đây thôn vĩ dạ

minhthu2k5

Học sinh tiến bộ
Thành viên
31 Tháng năm 2018
1,070
1,095
201
Quảng Nam
Hogwarts
Đây thôn Vĩ Dạ” là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.“Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ tuyệt bút này đã từng gây ra biết bao tranh luận bởi cái hay của nó không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật từ âm điệu, câu chữ, hình ảnh đến cả nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được vận dụng một cách thành thạo và khéo léo, nhưng cảnh thì ít mà tình thì nhiều cho nên cả bài thơ là một âm điệu du dương được gảy lên từ tiếng lòng của chính nhà thơ. Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc – người yêu đơn phương mà ông đã thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa – một người con gái dịu dàng thướt tha của thôn Vĩ xứ Huế. Nhưng bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Cúc gửi cho tác giả chỉ là cái cớ trực tiếp để nảy sinh thơ, còn động lực và cội nguồn sâu xa làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn lâu rồi, chỉ chờ đến cơ hội là nó sẽ bộc phát. Đó là vẻ đẹp của một dáng Huế yêu kiều – nơi đã khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con gái và cũng là nơi để lại một mối tình đơn phương trong lòng tác giả:“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cho bao văn nghệ sĩ, không ít người đã có những sáng tác xúc động về xứ Huế mộng mơ này: “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay là “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông…”, Huế có trong câu hát, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Không phải của Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết vối Huế của thi nhân mà vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải này. Thật sự ở thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà tác giả đã giục giã mọi người đến đấy? Ba câu thơ tiếp theo sẽ vẽ ra một hình tượng chung – một mảnh vườn thông Vĩ:“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền”Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả:“Trong làn nắng ửng khói mơ tan.Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”.Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” đã tỏa sức nóng cho bức tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong và sáng đang trải dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, gắn liền với cái “nắng mới lên” trong trẻo, tinh khôi, thật cụ thể và đầy gợi cảm trong buổi sớm mai.Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê, chiếu thẳng vào những vườn cây tươi mát, sum sê làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mượt:“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”Câu thơ sử dụng đại từ phím chỉ “ai” để nói đến con người xứ Huế. Câu thơ có vẻ đẹp thật long lanh, vì có sắc “mướt” chăng? Hay vì được sánh với “ngọc” chăng? Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc lấp lánh đang tỏa vào không gian cái sác xanh của mình. Khung cảnh đơn sơ nhưng vô cùng lộng lẫy, chỉ bằng một vài từ gợi tả “mướt quá” và so sánh “xanh như ngọc” Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh quê rực rỡ, chan hòa sự sống. Qua đó chứng tỏ, nhà thơ là một ngòi bút có tài quan sát tinh tế và trí tượng phong phú. Và cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi có sự hiện diện của con người, nhưng người ở đây không phải toàn diện từ đầu đến chân mà chỉ là khuôn mặt “chữ điền” kín đáo, dịu dàng và phúc hậu:“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”Ở đây có hơi hướng Á Đông cổ điển, mặt chữ “điền” là khuôn mặt đượm nét phúc hậu đoan trang, nếu nói “lá trúc che ngang” thì chỉ có thể nói về một cô gái có vẻ đẹp rất Huế. Cô gái e lệ đứng thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau đã tạo nên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ – một Vĩ Dạ vốn thơ mộng. Và đối với tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, đó là thôn Vĩ của tình yêu và hoài niệm.Thôn Vĩ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm nên ắt hẳn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm ả của sông Hương: “Dòng sông Hương vẫn êm ả lững lờ trôi” – nhẹ nhàng mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử:“Gió theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay”Thực tại phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập: “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình và người yêu và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất:“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày của người dân nơi đây: một lối sống êm đếm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ đất, gió, mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng.Trên cái xu thế đang trôi đi, chảy đi, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dòng “về” với mình, ấy là “trăng”:“Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay? ”Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng…Không gian “bến sông trăng” nghe sao mà quen thuộc đến thế: “Bến sông trăng ôi nỗi nhớ đã đi qua mong tìm đến, biết khi nào được gặp lại em yêu hỡi. Trong cái lãnh cung của sự chia lìa, vốn không có “niềm trăng và ý nhạc” nên nhà thơ ao ước có trăng về như một niềm khao khát, một tri âm, một vị cứu tinh. Không biết thuyền có chở trăng về kịp cho người trên bến đợi hay không ? – đó là một câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Tác giả hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời mình. Giờ đây đối với ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đau đớn, gây nên nỗi xót thương cho người đọc. Bằng câu hỏi tu từ “có chở trăng về kịp tối nay ?” cùng với hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi vọng nhớ về thôn Vĩ Dạ.Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh mông, bao la của trời đất. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Mặc dù lời thơ thấm đẫm cái buồn của tâm trạng nhưng tác giả vẫn không quên gợi cho ta về cảnh đẹp của Huế cũng như con người ở đây:“Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà ?”Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ là đến hình bóng đẹp của người “khách đường xa”. Điệp từ “khách đường xa” kết hợp với nhịp thơ 4/3 thể hiện nỗi niềm trông ngóng đến da diết của tác giả. Đây còn là cách nói về nỗi cách xa nhưng không chỉ có không gian mà còn có sự xa cách về tâm hồn và tình cảm. Có thể “đường xa” là xa về không gian, về thời gian nhưng cũng có thể là “đường đến trái tim xa”, cho nên tất cả chỉ gói gọn trong một chữ “mơ” duy nhất. Hình ảnh “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Mà tại sao lại “nhìn không ra” ? Có lẽ là do màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá hòa lẫn vào làn sương mờ ảo. Thật ra “nhìn không ra” không phải là không nhìn ra, đây chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng – trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Và hình như giữa giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:“Ở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà ?”“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mờ mờ, ảo ảo lại còn có cả sương và khói khiến cho ta thấy con người này đang ở ranh giới giữa hai thế giới thực và mộng . Trong màn sương khói ấy, con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhạt nhoà theo năm tháng . Tác giả không dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ nói “ai”– điệp từ “ai” dường như xuyên suốt cả bài thơ, khổ thơ nào cũng có sự hiện diện của “ai”, từ “vườn ai”, “thuyền ai” và bây giờ thì “ai biết tình ai có đậm đà”. Câu thơ ngân xa như một tiếng than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời thơ dường như nhắc nhở nhưng không bộc lộ tuyệt vọng hay hi vọng mà là toát lên một sự thất vọng, một nỗi băn khoăn về mối tình đơn phương vô vọng. Sự thất vọng của một thi nhân , của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Lời thơ như một lời thanh minh khiến cho ta cảm thấy cảm thông và xót xa cho tác giả nhiều hơn.Bài thơ bắt đầu là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” và kết thúc bài thơ cũng là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” khiến cho nỗi niềm của tác giả được đẩy thêm tầm vóc. Những câu hỏi tu từ trong bài dường như cứ xoáy lên mỗi lúc một cao hơn ? Cảnh vật thì đẹp nhưng những hình ảnh về mảnh vườn xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền và cả mối tình của tác giả dường như vô tình làm nhòe đi để tạo nét mênh mang, phù hợp với tâm trạng của nhà thơ – một con người đang ở giữa hai bờ của sự sống và cái chết. Cảnh thật lung linh, huyền ảo, đầy thơ mộng nhưng lồng vào đấy là tâm trạng của chủ thể trữ tình thì cũng trở nên buồn, buồn nhưng mà có hồn. Thật vậy, âm hưởng của bài thơ chỉ cô đúc trong một chữ “buồn” nhưng không làm cho người ta bi lụy, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân ta thấy được một tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng cháy và một khát vọng về cuộc sống ấm tình hơn. Những chi tiết, những thủ pháp nghệ thuật, cách cấu tứ đã được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình. Đọc cả bài thơ, ta không thấy có cái gì gượng ép, ngược lại ta như đang cùng sống với nhà thơ trong cái thế giới huyền ảo của ông. Bài thơ là sự kết hợp, giao hòa giữa tình và cảnh bộc lộ những nét đẹp, những nét trong sáng gắn với quê hương Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là “Đây thôn Vĩ Dạ”
Nguồn:sưu tầm
 
  • Like
Reactions: dotnatbet

Timeless time

Cựu Phụ trách nhóm Toán
Thành viên
19 Tháng tám 2018
2,749
6,038
596
23
Thái Bình
Đại học Y Dược Thái Bình
Phong trào Thơ Mới là sự bùng nổ của những cái tôi cá nhân. Mỗi người một phong cách, một dáng vẻ làm phong phú thêm khu vườn thơ ca hiện đại. Trong khu vườn đấy ta không thể không nhắc đến Hàn Mặc Tử một cái tôi đầy cô đơn, u uất, hoài niệm, một cái tôi đau đớn khắc khoải và tha thiết yêu cuộc sống. Cái tôi ấy đã được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
Trước hết, về cái tôi trong phong trào Thơ Mới. Thơ Mới là một cuộc cách tân lớn của thơ ca Việt Nam, từ cái tôi dấu kín, rụt rè đã xuất hiện những cái tôi bung phá mạnh mẽ, họ - những lớp nhà thơ trẻ tuổi thể hiện một cách mạnh mẽ cái tôi của chính mình, làm nên những diện mạo riêng biệt. Đúng như hoài thanh đã nhận xét: "Tôi quyết rằng chưa có thời đại nào phong phú như thời đại này trong lịch sử thi ca Việt Nam. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu". Họ dám lên tiếng, dám thể hiện cá tính của mình, họ dám nổi loạn và không sợ những sự trì triết của đám đông. Có ai như Xuân Diệu dám bày tỏ: "Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta" hay "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở/ Đời mất vui khi đã vẹn câu thề" (Hồ Zếnh). Cái tôi có cơ hội được bộc lộ khiến cho màu sắc văn học trở nên đa dạng, phong phú hơn. Hàn Mặc Tử cũng là một cái tôi đầy cá tính, khác lạ trong phong trào Thơ Mới, vừa tha thiết, vừa u uất, sầu muộn.
Đây thôn Vĩ Dạ trước hết thể hiện một cái tôi say đắm trước thiên nhiên, vẻ đẹp cuộc sống. Bài thơ mở đầu bằng câu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ, vừa mời gọi mà cũng vô cùng tha thiết, giọng điệu đâu đó còn ẩn chứa sự trách cứ nhẹ nhàng. Bằng con mắt của hiện tại, ngược về quá khứ, nhưng Hàn Mặc Tử đã khắc họa lại bức tranh thôn Vĩ hay thiên nhiên xứ Huế vô cùng đẹp đẽ:
Nhìn nắng hang cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Bức tranh thôn quê hiện lên rực rỡ, lung linh, tràn đầy nhựa sống. Mọi thứ đều ở trạng thái nguyên sơ, tinh khôi nhất. Nắng là thứ nắng mới, khi nắng vừa xuất hiện, không quá gay gắt, nắng như mật non, tưới xuống hàng cau thẳng tắp, khiến mọi vật trở nên ngọt ngào khi được tắm mình trong thứ nắng mới. Trong không gian tràn đầy ánh sáng, khu vườn như viên ngọc khổng lồ xuất hiện. Những giọt sương long lanh, nhỏ bé, khi được ánh nắng chiếu vào tựa như một viên ngọc xanh, lung linh, huyền ảo. Để làm rõ hơn vẻ đẹp của khu vườn tác giả sử dụng từ "mướt" kết hợp với từ "quá" nhấn mạnh vào cái tươi non, mỡ màng của cảnh vật. Điểm vào bức tranh đó là khuôn mặt chữ điền đậm chất Huế. Gương mặt ấy hài hòa với khung cảnh xung quanh đến kì lạ, làm cho cảnh đã đẹp lại càng trở nên thân mật, gần gũi hơn. Khung cảnh tươi đẹp đó là biểu tượng của cuộc sống trần gian rực rỡ, tràn đầy nhựa sống. Mặc dù chỉ là cái nhìn từ hiện tại ngược về quá khứ nhưng lại chân thực vô cùng, nó cho thấy niềm say mê, thích thú của Hàn Mặc Tử với không gian sống nơi đây. Ông thiết tha, say đắm, một tình yêu sâu nặng với con người, với cuộc đời.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bài thơ còn cho ta thấy một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tuyệt vọng:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến song trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Mọi sự vật trong bức tranh đều chia lìa đôi ngả: gió đi theo một hưởng, mây đi theo một hướng. Hai sự vật này trong thiên nhiên vốn luôn gắn bó với nhau, vậy mà dưới con mắt của Mặc Tử mọi sự vật đều bị chia lìa, tan tác. Ông đã dùng đôi mắt tâm trạng để nhìn ngắm cuộc đời. Bởi vậy mà khung cảnh cũng tắm trong nỗi buồn "dòng nước buồn thiu", nhịp điệu tẻ nhạt, nhàm chán "hoa bắp lay". Nỗi cô đơn, tuyệt vọng đẩy lên thêm một mức độ mới. Những hình ảnh đó cũng chính là biểu tượng cho cuộc đời ông. Tuổi đời con trẻ, trong lòng hừng hực khát vọng sống nhưng lại mắc phải căn bệnh tai ác, khiến ông phải chia lìa mọi người, chia xa cuộc sống đầy háo hức, vui tươi. Đây chẳng phải là bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời con người đó sao. Vì cô đơn, vì bất hạnh ông tìm đến trăng như một cách để trải lòng, để vơi bớt nỗi buồn, trăng trở thành tri kỉ. Nhưng lòng ông lại đầy lo lắng liệu trăng có kịp về tối nay. Tối nay là tối nào, không ai có thể xác định, nhưng đó quả là khoảng thời gian ngắn ngủi trong một đời người, qua tối nay cơ hội với cuộc sống ngoài kia sẽ vuột tầm tay ông mãi mãi. Bởi vậy mà ông rơi vào trạng thái cô đơn, tuyệt vọng tuyệt đối.
Cuối cùng đó là một cái tôi hoài nghi. Từ đầu đến cuối bài thơ, ở mỗi khổ ta đều thấy xuất hiện một câu hỏi tu từ:
"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"
"Có chở trăng về kịp tối nay"
"Ai biết tình ai có đậm đà"
Nó không chỉ cho thấy sự cô đơn, mà còn là cả sự hoài nghi với cuộc đời. Nỗi hoài nghi ấy xuất phát từ chính thế giới mà ông đang sống, tất cả mọi thứ đều trở nên nhạt nhòa, hư ảo: "Mơ khách đường xa, khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh". Lằn ranh giữa thực và hư, giữa hữu và vô dường như không thể phân biệt rõ được nữa, mọi thứ như nhòe mờ, nhập vào nhau, thật khó để xác định nắm bắt. Cũng bởi vậy mà trong lòng ông dâng lên nỗi hoài nghi về tình người, liệu trong một thế giới mà mọi vật đề hư ảo, có mà như không như vậy liệu tình người có đậm đà, liệu người còn nhớ ta, còn thương ta sau một khoảng thời gian cách biệt. Qua đó, bộc lộ rõ khao khát, tình yêu cuộc sống tha thiết, mãnh liệt của ông.
Đây thôn Vĩ Dạ thể hiện một cái tôi đầy phức tạp và bí ẩn. Hàn Mặc Tử vừa khao khát, tin yêu cuộc sống, vừa hoài nghi băn khoăn về tình người, tình đời. Nó cho thấy sự cô đơn, u uất đến cùng cực trong lòng một kẻ khao khát yêu, khao khát sống nhưng vấp phải bi kịch cuộc đời.
Nguồn : internet
 
Top Bottom