Đáp án đề thi thứ nhất. :M38:
<Cái này là đáp án trong barem điểm (có chỉnh sửa tí), các em có thể đóng góp ý kiến của mình thêm để làm đầy thêm cho cái đáp án, xem như đóng góp ý kiến thêm cho người đưa ra cái đáp án này. :M058:>
[FONT="]Câu 1:
1.1 Phân loại thành ngữ và tục ngữ trong các tổ hợp từ; giải thích ngắn gọn nghĩa của mỗi thành ngữ, tục ngữ:
[/FONT][FONT="]+ Thành ngữ: b - c
+ Tục ngữ: a - d[/FONT]
[FONT="] - Giải thích:
a. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn: Đi đây đi đó thì có thể học hỏi, mở rộng hiểu biết.
b. Đánh trống lảng: Lảng ra, né tránh, không muốn đề cập đến một chuyện, một việc nào đó.
c. Hứa hươu hứa vượn: Hứa để được lòng nhưng không thực hiện lời đã hứa.
d. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng: Gần người xấu thì nhiễm thói xấu, gần người tốt thì học tính tốt.
1.2 Đặt câu hoàn chỉnh <cái này tùy vào khả năng của mỗi học sinh>
Câu 2:
Đọc đoạn trích :
“ Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương... Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi.(...)Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.”
(Nam Cao, Lão Hạc - Theo Ngữ văn 9, Tập 1, Tr.137)
2.1 Trong đoạn văn tự sự trên, để tạo tính triết lí, tác giả đã sử dụng kết hợp yếu tố nghị luận.
2.2 Trình bày ngắn gọn hàm ý của câu văn: “Đối với... không bao giờ ta thương...”:
- Do chưa có thành ý, thành tâm, ta thường không thấy được những điều tốt của những người xung quanh ta, có lúc ta còn đối xử tàn tệ với họ.
- Sống trong cuộc đời, ta cần biết thông cảm, thấu hiểu, giàu lòng nhân ái, vị tha… để con người có cơ hội hiểu nhau, sống tốt đẹp, thân ái với nhau hơn.
[/FONT]
[FONT="]
[/FONT]
[FONT="]Câu 3:
* Yêu cầu về kỹ năng:
- Học sinh viết văn bản có kết cấu 3 phần: Mở - Thân - Kết.
- Đây là đề bài mở, học sinh có thể có nhiều hướng trình bày, đặc biệt có thể kết hợp nhiều phương thức biểu đạt.
- Bài làm có văn phong phù hợp (nghị luận xã hội).
- Bố cục chặt chẽ, diễn đạt trôi chảy, bài sạch, chữ rõ.
*Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể trình bày vấn đề bằng nhiều cách. Sau đây là định hướng :
- Học sinh cần nắm bắt vấn đề: con người giữa cuộc đời là con người bình dị trong cuộc sống, có thể là người thân, có thể là người quen biết, cũng có thể là người chỉ được nghe kể lại.
- Học sinh viết (bằng phương thức nghị luận kết hợp với thuyết minh, tự sự, biểu cảm) về một con người giữa cuộc đời đã để lại ấn tượng sâu đậm, khiến em ngưỡng mộ, yêu quý :
+ Giới thiệu con người gắn với hoàn cảnh, hành động, phẩm chất... cụ thể dẫn đến ấn tượng.
+ Lí giải về ấn tượng sâu đậm.
+ Bài học rút ra được từ con người ấy.
Câu 4:
4.1 Ghi lại theo trí nhớ khổ đầu và khổ cuối bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên :
<tự làm >
4.2 Phân tích hai khổ thơ vừa chép:
*Yêu cầu về kỹ năng:
- Học sinh viết bài văn có kết cấu 3 phần: Mở - Thân - Kết.
- Bài thể hiện kỹ năng nghị luận về đoạn thơ.
- Văn phong phù hợp, bố cục hợp lý, diễn đạt trôi chảy, bài sạch, chữ rõ.
*Yêu cầu về kiến thức:
- Học sinh chỉ phân tích hai khổ thơ ở vị trí đặc biệt đầu và cuối trong số năm khổ thơ của bài, nhưng phải biết gắn hai khổ thơ trong kết cấu, ý nghĩa toàn bài.
- Học sinh có thể phân tích lần lượt hay sóng đôi hai khổ thơ. Sau đây là một một số gợi ý:
+ Giữa hai khổ thơ vừa có sự tương ứng, vừa có sự biến đổi về thời gian, không gian, hình tượng nhân vật trữ tình (mỗi năm - năm nay; hoa đào nở - đào lại nở; lại thấy - không thấy; ông đồ già - ông đồ xưa - hồn).
+ Trên cái nền tuần hoàn, vô hạn của thiên nhiên và sự sống, ý thơ làm nổi bật sự hiện hữu hữu hạn; sự ra đi không trở lại của một con người, một thế hệ, một thời đại, đồng thời thể hiện tâm sự của nhà thơ.
+ Ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, sâu sắc; câu hỏi tu từ kết bài (Hồn ở đâu bây giờ?) như một sự băn khoăn, trăn trở đầy ngậm ngùi, xót xa, tiếc nhớ đối với cảnh cũ, người xưa.
* Từ phần phân tích trên, bài làm cần hướng tới cảm nhận chung về bài thơ :
▪ Bài thơ thể hiện sâu sắc và ấn tượng về chân dung ông đồ - biểu tượng của một lớp người, cũng là của một thời đại.
▪ Bài thơ trĩu nặng niềm cảm thương chân thành, xúc động và nỗi hoài cổ sâu lắng, thiết tha của nhà thơ.
▪ Thể thơ năm chữ và ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị mà đầy sức gợi.
Lưu ý:
- Học sinh có thể trình bày cảm nhận chung trước khi phân tích, nhưng chỉ nên dừng ở mức khái quát.
- Sau khi phân tích, người viết mới thực sự có cơ sở để cảm nhận một cách đầy đủ, sâu sắc.[/FONT]
Sẽ post đề thi tiếp theo, hãy chờ nhé! :M037: