Hừm cái này là do mình lục tung mọi xó xỉnh của mạng mới thấy
tự hào ,thấy nghi là hồi kí Nguyễn đăng mạnh .Mình làm thế này chắc chắn là vi phạm bản quyền rồi nhưng thôi kệ ai biết đấy là đâu ,viết ra đây cho mọi người cùng biết .Đâu là thật đâu là giả mình cũng ko dám nói ,độ tin cậy là ? % mình cũng không biết , ai biết chỉ dùm
Chương XVIII: Nguyễn Đình Thi
Tôi đã viết hai bài thuộc dạng chân dung văn học về Nguyễn Đình Thi:
bài Nguyễn Đình Thi như tôi biết và bài Từ lần gặp ấy, tôi đã hiểu thêm Nguyễn
Đình Thi.
Nay tôi kể thêm mấy mẩu chuyện khác về anh.
1. Nguyễn Đình Thi từ thời thơ ấu đến bài thơ Đất nước.
Người ta thường nói Nguyễn Đình Thi sinh ở Luang Prabang (Lào).
Nhưng chính Nguyễn Đình Thi lại nói với tôi, anh sinh ở Phongxalỳ. Anh nói
rất cụ thể, hồi ở với tôi tại Đà Nẵng (tháng 7.2000)
Bố anh là một nhân viên bưu điện sơ cấp bị điều sang Lào, phụ trách
một trạm bưu điện ở Phong xa lỳ. ở đây ông lấy con gái một Việt kiều vốn là
một đầu bếp, người Đông Thái, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ông này trốn sang Lào vì có
dính vào vụ Hà Thành đầu độc. Dân ở đây rất lạc hậu, một dân tộc thiểu số của
Lào gọi là Phù Nọi. Dân Phù Nọi ăn cả đất. Thi từng bắt chước họ ăn đất.
Phong xa lỳ là một khu vực quân sự (territoire militaire). Toàn lính là
lính, lính Tây, lính ta, khố xanh, khố đỏ, và tù chính trị. Xa nước, nên từ nhỏ
Nguyễn Đình Thi hay nghĩ về đất nước, hay tưởng tượng về đất nước. Nhưng
đất nước trong tâm trí cậu bé là thế: một đám tù chân xiềng tay xích, lính giải đi
làm cỏ vê hàng ngày.
Thi lên 6 tuổi, bố thấy con sắp thành dân Phù Nọi đến nơi, muốn đưa
anh về nước. Rất may, năm 1930, bố anh được điều về Việt Nam. Mẹ anh
thường cưỡi ngựa. Bà cưỡi ngựa, đi hàng trăm cây số. Bóng bà đi ngựa leo dốc
còn in mãi trong trí nhớ anh sau này – anh nói đó l à một hình ảnh rất thơ.
Gia đình anh về nước, đi từ Phong xa lỳ, qua Luang Prabang, Tà Khẹt,
về Hà Nội. Lần đầu nhìn cái ôtô, anh gọi là cái nhà biết đi. Lúc đầu gia đình ở
Hà Nội, phố Bạch Mai. Sau đi Hải Phòng, rồi lại trở về Hà Nội. Anh tự thấy là
một chú nhãi Hà Nội, thuộc đủ ngõ ngách, phố xá của Hà Nội.
Gia đình Nguyễn Đình Thi không phải trí thức. Không biết chữ Hán.
Coi như ngoại đạo đối với văn học. Trong đám sách vở nghèo nàn của bố, anh
chỉ được đọc và nhớ có một câu thơ của Bà huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió
cuốn chim bay mỏi”. Sau này ngẫm lại cuộc đời mình, anh thấy đời anh cũng
chỉ là “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Ngoài ra có được đọc bản dịch
Những người khốn khổ của V. Hugo. Cảm động nhất là đoạn Jean Valjean tìm
Cosette. Cosette trong đêm tối mù mịt, xách xô nước, tự nhiên thấy nhẹ bỗng đi.
Té ra Jean Valjean xách hộ. Anh nghĩ, suốt đời chỉ mong xách hộ xô nước cho
một đứa bé nhà nghèo.
Anh biết rất ít văn học Việt Nam. Mãi sau này mới đọc Đoạn tuyệt,
Nửa chừng xuân. Đến ba mươi tuổi mới đọc Tam quốc, Thuỷ hử.
Không biết chữ Hán, không biết Thơ mới, không biết Tự lực văn đoàn.
Không cảm được cái hay của ngôn từ chữ Hán. Không thích “Viễn phố” bằng
“bến xa”, nghe gợi nhiều hơn, không thích “lâm tuyền”, thích nói “suối xa”.
Cho nên làm thơ ngoài luồng Thơ mới, ngoài luồng Tự lực văn đoàn, cảm thấy
thế nào cứ làm như thế, điếc không sợ súng.
(Nghe tôi nói lại lời Nguyễn Đình Thi như thế, Nguyên Ngọc không
tin, cho là Thi nói dối. Nguyên Ngọc dứt khoát không tin ở sự thật thà của
Nguyễn Đình Thi).
Nguyễn Đình Thi rất thích cảnh rừng núi – anh nói thế – vì anh đã ở
Phong xa lỳ, nên về sau lên Việt Bắc thấy quen thuộc như đã biết từ bao giờ rồi.
Mẹ Nguyễn Đình Thi là một người đàn bà rất đảm. Khi gia đình ở Hải
Phòng, bố anh lại bị điều vào Sài Gòn (Chợ Lớn). Bà không theo vào. Bà mở
một xưởng làm kẹo bột. Về Hà Nội cũng làm kẹo.Đi kháng chiến , bà trồng hẳn
một quả đồi sắn. Nguyễn Đình Thi nói “ Bà ghê lắm, giỏi lắm!” (Thế mà hình
như bà mù chữ ).
ở Hải Phòng, anh chứng kiến Nhật đổ bộ. Anh nói: “Nhục lắm! Nó đi
đâu cũng ra hiệu hỏi nơi có đĩ”. Anh lớn lên vào lúc cuộc đại chiến thứ hai.
Nhật vào. Phong trào Việt Minh. Thời thế đặt ra những câu hỏi lớn. Nguyên
Hồng gọi là “thời kỳ đen tối” (1940- 1945). Theo Nguyễn Đình Thi, đây là thời
kỳ trắng đen, thật giả lẫn lộn. Vì thế dễ lầm lẫn (Nguyễn Công Hoan, Nguyễn
Tuân đã lầm lẫn), phải suy nghĩ tợn. Suy nghĩ về đời, về đất nước, về sự sống,
về chân lý, về đường đi... Cho nên Nguyễn Đình Thi thích đọc và viết triết học.
Anh viết Kant năm 1942, lúc 18 tuổi. Tiếp đó là nhạc. Mãi sau mới làm thơ và
viết văn.
Như thế là Nguyễn Đình Thi đi từ triết đến nhạc rồi mới đến thơ văn.
Thơ văn có cấu trúc nhạc. Ông bố Nguyễn Đình Thi ngày xưa có chơi đàn
nguyệt, đàn bầu. Còn anh thì tự học nhạc chỉ bằng một cái đàn mandoline và
một cuốn nhạc phổ thông. Có một buổi học nhạc một mục sư. Nói chung là tự
học.
Từng chứng kiến cảnh mất nước từ ở Lào, rồi cảnh Nhật vào Hải
Phòng, đến hiệp định 6/3 lại chứng kiến Pháp kéo vào từ Hải Phòng, theo
đường số 5 (Trường Chinh giao nhiệm vụ cho Nguyễn Đình Thi đi đả thông
đồng bào hai bên đường số 5: không đón tiếp, mặc nó, nhưng không gây sự).
Vì thế, được làm chủ đất nước, sướng lắm – “Trời xanh đây là của
chúng ta! Núi rừng đây là của chúng ta!”.
Hồi học trường Bưởi, Nguyễn Đình Thi thích nằm ngửa ở sân trường
nhìn trời xanh không biết chán. Sau này nhớ lại: “Trời xanh đây là của chúng
ta!”.
Kháng chiến, Nguyễn Đình Thi có chuyện buồn: hai người thân mất
(vợ và cô em vợ - định gả cho Thi), cộng thêm nỗi đau đất nước bị dày xéo:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Giây thép gai đâm nát trời chiều”
Anh nói, tám năm kháng chiến mới viết được hai câu ấy. Khắp nơi giặc
chăng giây thép gai: Hành quân ở Bắc Giang, nhìn lên đồi cao thấy giây thép
gai in trên nền trời đỏ như máu.
Hành quân liên miên, đi ngày, đi đêm. Toàn đi bộ, một ngày có khi 50
cây số, từng qua vùng thượng Lào: “Ngày nắng cháy, đêm mưa dội”, cứ thế đi
dưới trời mưa.
Vì thường hành quân đêm nên có hai hình ảnh rất ấn tượng đối với
anh: lửa và sao. Lửa đốt sưởi lúc nghỉ chân. Không phải đèn mà lửa:
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây.
(Nhớ)
Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, lính đi trong chién hào ngập nước có
khi tới ngực. Mặt mũi đen nhẻm vì chỉ có bùn và khói súng, cười răng trắng
xoá, từ bùn vụt lên: “Rũ bùn đứng dậy sáng loà”. Nguyễn Đình Thi nói:
“Nguyễn Tuân rất thích hình ảnh này. Còn chị Mộng Tuyết gặp anh lần đầu,
kêu lên: “A, anh rũ bùn đứng dậy sáng loà đấy à!”
Bài thơ Đất nước làm ở Việt Bắc từ 1948. Ghép hai bài thơ kháng
chiến với nhau. Sau bẵng đi đến 1955 mới làm tiếp ở Thái Nguyên – xã Phú
Minh, bên sông Cầu (làm tiếp bài thơ Đất nước và bắt đầu viết tiểu thuyết Vỡ
bờ)
Anh nói, bài Đất nước kết cấu theo âm nhạc. Chủ âm a từ mở bài, thân
bài đến kết bài:
Tôi nhớ những ngày thu đã xa...
(...)Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
(...) Nước Việt Nam từ máu lửa,
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
1. Nguyễn Đình Thi tập viết tiểu thuyết.
Năm 1968(20.11.1968), Nguyễn Đình Thi có một cuộc nói chuyện với
cán bộ và sinh viên khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Lúc ấy tôi còn dạy ở
Đại học Sư phạm Vinh. Nhân ra Hà Nội, tôi đến nghe ghé.
Nguyễn Đình Thi nói về những ngày đầu anh tập viết truyện, viết tiểu
thuyết. Anh nói, con đường vào nghề văn của anh là đi từ ngọn xuống gốc – con
đường không thuận. Bắt đầu viết từ năm 1942. Viết sách khảo cứu trước. Vào
Việt Minh, bắt đầu biết chủ nghĩa Mác, học được gì viết nấy: viết tiểu luận, viết
về ca dao..., vẫn làm lý luận trước. Khác với con đường của Nguyên Hồng, Tô
Hoài, từ vốn sống thực tế mà sáng tác. Thực ra, anh nói, nếu không có cách
mạng thì cũng có thể đi từ gốc đến ngọn, viết theo vốn sống tự nhiên của mình.
Song vừa vào nghề đã gặp cách mạng, cách mạng yêu cầu phải có vốn sống về
quần chúng cơ bản, về nông thôn. Do xuất thân gia đình viên chức tiểu tư sản,
toàn ở thành thị, lúc bé lại ở Lào, về nước chỉ đi học, vốn sống về quần chúng
công nông không có gì. Thành ra phải có cả một quá trình đi theo cách mạng, về
nông thôn, vào bộ đội, vốn sống phải thu nhặt dần dần, từ 1942 đến 1955, chín
năm phấn đấu mới viết được cuốn tiểu thuyết đầu tay: cuốn Xung kích