Sử 12 Chiến dịch mùa xuân 1975 --> Việt Nam độc lập....

R

rayno

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Chiến dịch mùa xuân 1975 --> Việt Nam độc lậ

Chiến dịch mùa xuân năm 1975 là tên gọi của những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của các lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch bắt đầu từ ngày 4 tháng 3 và kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc tấn công cuối cùng này chia thành ba chiến dịch liên tiếp nhau gọi là Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 tháng 3 đến 24 tháng 3), Chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng (từ 21 tháng 3 đến 29 tháng 3) và cuối cùng là Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26 tháng 4 đến 30 tháng 4). Những trận đánh này được thực hiện sau khi Hoa Kỳ rút hẳn khỏi cuộc chiến, cán cân lực lượng đã nghiêng hẳn sang phía lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Kết quả thắng lợi quân sự của quân giải phóng trong chiến dịch này đã dẫn đến sự kiện 30 tháng 4, 1975 kết thúc Chiến tranh Việt Nam.

(*) Lực lượng
Quân đội Nhân dân Việt Nam tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 (kể cả các sư đoàn phòng thủ miền Bắc, không tham gia chiến đấu trực tiếp) gồm 23 sư đoàn bộ binh và các lực lượng khác. Tổng quân số gần 1 triệu ( hiện giờ thông tin này đang đc các nhà Sử học tranh luân để đưa ra số lượng chính xác )
Bộ binh:

* Quân đoàn 1 Quyết Thắng gồm: các sư đoàn 308, 312, 320b.
* Quân đoàn 2 Hương Giang gồm: các sư đoàn 304, 324, 325.
* Quân đoàn 3 Tây Nguyên gồm: các sư đoàn 10, 316, 320a
* Quân đoàn 4 Cửu Long gồm: các sư đoàn 6, 7, 341
* Đoàn 232 gồm: các sư đoàn 5, 8, 9
* Các sư đoàn độc lập:
o Sư đoàn 2 đặc công
o Sư đoàn 3 (Sao Vàng)
o Sư đoàn 711 chủ lực QK5,
o Sư đoàn 4 QK9
* Các đơn vị khác :
* Lữ đoan 52 chủ lực QK5, các trung đoàn 95a, 24, 88, 866, trung đoàn 25 Tây Nguyên, trung đoàn 335 quân tình nguyện Lào
* Đoàn 559 (binh đoàn Trường Sơn) gồm :
o 4 sư đoàn công binh 470, 472, 473, 565
o 2 sư đoàn ô tô vận tải 471, 571
o Sư đoàn phòng không 377,
o Sư đoàn bộ binh 968
* Lực lượng trực thuộc gồm 6 trung đoàn cao xạ, 1 trung đoan bộ binh, 4 trung đoàn đường ống xăng dầu, 2 trung đoàn cầu, 1 trung đoàn vận tải song, 1 trung đoàn giao liên cơ giới, 1 trung đoàn kho, 1 trung đoàn huấn luyện an dưỡng va 4 đoàn TNXP.

Xe tăng thiết giáp:

* Trung đoàn 202 thuộc quân đoàn 1.
* Lữ đoàn 203 thuộc quân đoàn 2.
* Trung đoàn 273 thuộc quân đoàn 3.
* Trung đoàn 206 thuộc quân đoan 4.
* Trung đoàn 574 trực thuộc QK5.

Lực lượng tăng thiết giáp của QĐNDVN được trang bị cac loại xe tăng T-34, T-54/55, T-62, tăng lội nước PT-76, thiết giap BTR-40/50/60/152, phao tự hanh SU-76 của LX; T-59, tăng nhẹ Type-62, tăng lội nước PT-85 (Type-63), thiết giap K-63 (Type-63) của TQ.

Quân lực Việt Nam Cộng Hoà Có 10 sư đoàn bộ binh tham chiến trên tổng số 13 sư đoàn gồm:

* Sư đoàn 1 Bộ binh
* Sư đoàn 2 Bộ binh
* Sư đoàn 3 Bộ binh
* Sư đoàn 5 Bộ binh
* Sư đoàn 18 Bộ binh
* Sư đoàn 22 Bộ binh
* Sư đoàn 23 Bộ binh
* Sư đoàn 25 Bộ binh

2 sư đoàn tổng trừ bị là sư đoàn Dù và sư đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến.

* Liên đoàn 81 biệt kích dù.
* 18 liên đoàn biệt động quân.
* 65 tiểu đoàn pháo binh (1.500 khẩu).
* 22 thiết đoàn va 57 chi đội xe tăng thiết giáp.

Sư đoàn 7, 9 và 21 trấn đóng tại Vùng IV Chiến thuật cùng 200.000 binh sĩ Địa phương quân tại đây không tham chiến trận nào. Sau khi Tổng thống Minh đầu hàng ngày 30 tháng 4 thì các đơn vị này cũng tan rã.

(*) Diễn biến
* Chiến dịch Tây Nguyên
Chiến dịch Tây Nguyên đã được lãnh đạo quân sự của Bắc Việt Nam trù tính và chuẩn bị kỹ theo kế hoạch ban đầu là giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Kế hoạch 2 năm đó hoạch định trong năm 1975 chiếm hoàn toàn cao nguyên Trung phần và phát triển từ đó xuống dải đồng bằng ven biển miền Trung của Quân khu 2, tiêu diệt Quân khu 2 Nam Việt Nam, cắt Nam Việt nam thành hai phần: Quân khu 1 (với Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế và Đà Nẵng) bị cô lập ở phía bắc và Quân khu 3, 4 ở phía nam. Còn trong năm 1976 sẽ tổng tấn công kết thúc chiến tranh. Như vậy chiến dịch Tây Nguyên có vai trò trọng tâm trong kế hoạch tấn công của quân Cộng sản năm 1975.
+ So sánh lực lượng trên chiến trường Tây Nguyên
Phương án tiến công chiến dịch Tây Nguyên của Bộ tổng tư lệnh quân Bắc Việt Nam chỉ rõ lấy nam Tây Nguyên làm trận đột phá mà thị xã Buôn Ma Thuột là trận then chốt. Để thực hiện chiến dịch phía Cộng sản đã đưa thêm 2 sư đoàn (316 và 968) lên Tây Nguyên nâng lực lượng của họ tại đây lên 4 sư đoàn (10, 320, 316 và 968) và các lữ đoàn, trung đoàn độc lập của bộ binh, pháo binh, thiết giáp, đặc công, phòng không, công binh... Và chưa kể Sư đoàn 3 của Quân khu 5 tại Bình Định đánh chia cắt đường 19 và tấn công Sư đoàn 22 Nam Việt Nam không cho ứng cứu để phục vụ trực tiếp chiến dịch này.

Tại Tây Nguyên, lực lượng phòng thủ của Nam Việt Nam chỉ có Sư đoàn 23 bộ binh (gồm 3 trung đoàn số 44, 45 và 53), Sư đoàn 6 không quân và 7 liên đoàn biệt động quân. Ngoài ra còn các tiểu đoàn bảo an đồn trú. Ưu thế lực lượng của quân Cộng sản tại Tây Nguyên đã là 6:1. Sự bố trí quân lực của quân đội Nam Việt Nam tại Tây Nguyên cũng rất sơ hở: hầu hết lực lượng của họ bố trí tại phía bắc Tây Nguyên để bảo vệ các thị xã Pleiku và Kon Tum trong khi phía nam Tây Nguyên có thị xã Buôn Ma Thuột đóng vai trò trụ cột phòng thủ lại chỉ có Trung đoàn 53 và Liên đoàn 21 biệt động quân. Các hành động nghi binh của Cộng sản đã củng cố thế nguy hiểm của Buôn Mê Thuột khi họ pháo kích và hư trương thanh thế tại phía bắc cao nguyên và bí mật điều 2 sư đoàn (320 và 10) xuống khu vực Buôn Ma Thuột. Lúc khởi đầu chiến dịch, tại điểm quyết chiến Ban Ma Thuột, tỷ lệ áp đảo của phía Cộng sản đã là 3 sư đoàn (320, 10 và 316) chống lại 1 trung đoàn bộ binh và 1 liên đoàn biệt động đồn trú. Tỷ lệ áp đảo 25.000 có xe tăng và pháo lớn yểm trợ đánh 4.000 quân trang bị nhẹ cho họ khả năng thắng lợi chớp nhoáng và không cho phép địch cầm cự lâu dài chờ quân phản kích ứng cứu. Và thực tế đã diễn ra như vậy.
+ Tiến công Buôn Mê Thuột
Trước khi tiến công Buôn Ma Thuột, các động tác chia cắt chiến trường của quân Cộng sản đồng thời có hai tác dụng: thứ nhất, việc cắt các đường 19, 21, 14 trong thời gian từ ngày 4 đến ngày 10 tháng 3 là hành động nghi binh tạo cảm giác là họ chuẩn bị đánh Pleiku hoặc Kon Tum; thứ hai, hành động này đã cách ly Ban Ma Thuột với phần còn lại của các lực lượng Nam Việt Nam, không cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ứng cứu nhanh chóng và ồ ạt trong trường hợp Buôn Mê Thuột bị thất thủ.2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, quân đội Bắc Việt Nam tiến công Buôn Ma Thuột với lực lượng chủ công là Sư đoàn 316, một đơn vị có truyền thống tác chiến rừng núi của phía Cộng sản. Cuộc tiến công có pháo binh yểm hộ mãnh liệt và xe tăng xung phong. Quân phòng ngự Buôn Ma Thuột đã kháng cự quyết liệt và co cụm phòng thủ nhưng dưới áp lực quá mạnh của đối phương họ chỉ cầm cự được trong hơn một ngày. Quân Cộng sản đã hoàn thành nhanh gọn bước 1 của chiến dịch.

Sư đoàn 10 của phía Cộng sản, sau khi tiến công chật vật quận lỵ Đức Lập phía nam Buôn Ma Thuột trong 2 ngày, đến ngày 10 tháng 3 đã đánh chiếm xong mục tiêu liền nhanh chóng cơ động đến phía Đông Bắc thị xã Buôn Ma Thuột đứng chân chờ đánh quân phản kích.

Sau khi mất Buôn Ma Thuột, Tư lệnh Quân đoàn 2 và Quân khu 2 Việt Nam Cộng hòa liền đưa 2 trung đoàn (44 và 45) còn lại của Sư đoàn 23 về tái chiếm lại hậu cứ của mình. Do Sư đoàn 320 quân Bắc Việt đã cắt đường 14 không cho phép quân phản kích đi đường bộ với số lượng lớn và vũ khí nặng nên quân đội Việt Nam Cộng hòa phải trực thăng vận trong 2 ngày (12 và 13 tháng 3) xuống khu vực Phước An. Sư đoàn 10 của Bắc Việt Nam đã chờ sẵn và tiến công các lực lượng ứng cứu chưa kịp đứng chân. Các lực lượng này chưa hề có hành động phản kích nào mà phải lo bảo vệ mình, bị đẩy lùi xa dần khỏi Buôn Ma Thuột và cuối cùng bị đánh tan tại Chư Cúc ngày 18 tháng 3. Buôn Mê Thuột đã mất hẳn vào tay quân Bắc Việt.

[sửa] Bước ngoặt của chiến cuộc 1975

Mất căn cứ phòng thủ cao nguyên và trong tay không còn lực lượng dự bị cơ động khả dĩ nào để có thể xoay chuyển tình thế (2 sư đoàn dự bị chiến lược là Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thuỷ quân lục chiến là quá ít và chính họ cũng đang bị uy hiếp, dính chặt ở Quân khu 1 như các đơn vị đồn trú). Đến ngay như việc mất tỉnh Phước Long cách Sài Gòn chỉ khoảng 100 km trước đó khoảng hai tháng mà quân Nam Việt Nam cũng không còn lực lượng để tái chiếm). Điều đó cho thấy tình thế rất bị bó buộc của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Thêm nữa các lực lượng tại bắc Tây Nguyên đang chịu nguy cơ bị tấn công tiêu diệt, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu quyết định bỏ Tây Nguyên, rút các lực lượng còn lại về cố thủ dải đồng bằng ven biển miền Trung. Tuyến hành quân sẽ là theo đường 14 từ Pleiku đi xuống phía nam sau đó rẽ vào đường 7 (đã bỏ từ lâu) và xuôi về thị xã Tuy Hoà thuộc tỉnh Phú Yên. Mệnh lệnh này được ban ra bằng lời sau cuộc họp của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Nha Trang với Tổng Tham mưu trưởng và Tư lệnh Quân khu 2. Đây là quyết định chết người dành cho quân đội Việt Nam Cộng hòa. Quyết định này có lẽ là hệ quả tất nhiên của tình trạng suy kiệt lực lượng của Nam Việt Nam lúc đó.

Quân phòng thủ Bắc Tây Nguyên chỉ có 2-3 ngày để chuẩn bị cuộc hành quân. Thực tế cuộc hành quân này không có kế hoạch, không có yểm trợ và phó mặc tất cả vào sự may rủi của số phận. Một lực lượng quân hàng vạn người chuẩn bị trong 2-3 ngày, đi hàng trăm kilômét không có yểm trợ với tinh thần chiến đấu xuống rất thấp sau khi Ban Ma Thuột thất thủ, và đặc biệt họ đi cùng gia đình và dân chạy nạn. Tất cả đã làm cho cuộc hành quân thành đoàn xe cộ khổng lồ ùn tắc không đội hình, không tổ chức, không thể chỉ huy và chiến đấu được.

Khi được tin quân Nam Việt Nam bỏ Tây Nguyên, Bộ chỉ huy Quân Giải phóng Miền Nam tại Tây Nguyên ra lệnh cho Sư đoàn 320 đang phong toả đường 14 đuổi theo. Bộ phận đi đầu của đơn vị này chạy đua, tắt núi đón đầu và kịp chặn đường tại bên ngoài thị xã Cheo Reo tỉnh Phú Bổn. Chỉ một lực lượng rất nhỏ quân Nam Việt Nam đi thoát còn toàn bộ đoàn quân và dân chạy nạn đã bị tan rã không tổ chức lại được nữa.

Kế hoạch di tản của Nam Việt Nam đã không cứu được lực lượng quân bố phòng Tây Nguyên. Tây Nguyên mất vào tay phia Cộng sản gây ra làn sóng hoảng loạn lan khắp mọi nơi và làm tan rã tinh thần toàn bộ binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng hòa. Quân đội Nam Việt Nam bắt đầu tan rã nhanh chóng và sụp đổ.
* Chiến dịch Huế-Đà Nẵng
Chiến dịch này bắt đầu từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 3 năm 1975 trong khi chiến dịch Tây Nguyên còn chưa kết thúc. Chiến dịch này đã xoá bỏ Quân khu 1 Quân đoàn 1 của Việt Nam Cộng hoà.
Khi nhận được tin quân Nam Việt Nam ở Tây Nguyên di tản tan vỡ, lãnh đạo phía Cộng sản tại Hà Nội đã nhận định rằng đối phương đang tan vỡ, không còn chiến đấu có tổ chức chặt chẽ nữa. Họ liền chuyển ngay sang phương án thời cơ cho Quân đoàn 2 (hay còn gọi là Binh đoàn Hương Giang, được thành lập từ các đơn vị chiến đấu trên mặt trận Trị - Thiên và Khu 5, gồm 3 sư đoàn 304, 324, 325 và các trung đoàn, lữ đoàn độc lập các binh chủng phối thuộc) tiến công chiếm cố đô Huế và Đà Nẵng - thành phố lớn thứ hai của miền Nam và là trung tâm quân sự, chính trị, kinh tế lớn nhất của Quân khu 1. Chiến dịch này mang tính ứng tác, ngẫu hứng của quân Bắc Việt: gần như tiến hành theo chỉ thị từ xa trực tiếp của Bộ Tổng Tư lệnh tại Hà Nội. Tư lệnh và Chính uỷ của chiến dịch thậm chí chưa gặp mặt nhau, không có Bộ Tư lệnh chiến dịch, mọi thông tin mệnh lệnh truyền đạt đều trên vô tuyến. Quân Bắc Việt Nam tiến đánh không cần chuẩn bị chiến trường, không trinh sát, thậm chí đánh tràn lan không cần pháo binh yểm hộ.

Tinh thần quân đội Nam Việt Nam đã hoàn toàn tan vỡ sau cuộc di tản ở cao nguyên Trung phần và họ không còn kháng cự có tổ chức nữa. Trước tình hình nguy ngập, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút các sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến ra khỏi Quân khu 1 về bảo vệ các mục tiêu quan trọng hơn. Việc này lại càng làm Quân khu 1 thêm hoang mang hoảng loạn. Quân khu 1 ra lệnh cho rút bỏ Quảng Trị để kéo hết binh lực ở đó về phòng thủ Huế. Nhưng khi quân Cộng sản đến gần Huế, quân Nam Việt Nam lại quyết định bỏ Huế kéo về Đà Nẵng tử thủ. Nhưng quân Bắc Việt Nam đã cắt đường trên đèo Hải Vân do đó quân Nam Việt Nam tại Huế chỉ còn cách chạy ra cửa biển Thuận An và Tư Hiền để chờ tàu hải quân đến cứu. Cuộc tháo chạy đã diễn ra hoảng loạn vô tổ chức. Quân Bắc Việt Nam đã pháo kích cửa biển. Những lực lượng Nam Việt Nam đã được lên tàu chạy vào đến Đà Nẵng lên bờ cũng không còn là đơn vị chiến đấu nữa mà còn làm cho rối loạn thêm tình hình tại Đà Nẵng. Các lực lượng còn lại bỏ vũ khí hoặc đầu hàng hoặc tan rã. Ngày 26 tháng 3, Huế thất thủ.

Ngay sau Huế, Quân Giải phóng Miền Nam liền kéo đến Đà Nẵng từ phía Nam và phía Bắc. Với mức độ rối loạn như thế thì quân Nam Việt Nam có quyết tâm tử thủ cũng chẳng được. Thành phố hỗn loạn, quân lính đang cướp bóc, quân lính và dân đang cố gắng thoát khỏi thành phố bằng tàu hải quân. Các đơn vị phòng thủ phía ngoài cũng đang tan rã. Quân Cộng sản bỏ qua vòng ngoài nhanh chóng thọc sâu vào thành phố mà không gặp kháng cự nào đáng kể. Ngày 29 tháng 3, Đà Nẵng thất thủ. Tại đây khoảng 10 vạn sĩ quan, binh lính Nam Việt Nam đã ra hàng. Chiến dịch Huế-Đà Nẵng kết thúc.

Trong nửa đầu tháng 4, lần lượt các tỉnh thành phố ven biển miền trung gồm Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hoà rơi vào tay quân Bắc Việt. Quân Bắc Việt từ phía Bắc tràn vào (Quân đoàn 2) và từ trên cao nguyên đổ xuống (Quân đoàn 3: ngày 26 tháng 3 năm 1975, phía Cộng sản thành lập quân đoàn này từ các đơn vị mặt trận Tây Nguyên nên đặt tên là binh đoàn Tây Nguyên gồm 3 sư đoàn 10, 316, 320 và các trung đoàn, lữ đoàn độc lập).

Quân đội Nam Việt Nam gom tất cả các đơn vị còn lại của các các quân đoàn, quân khu 1 và 2, lập phòng tuyến ngăn chặn tại Phan Rang và giao cho Quân đoàn 3 Nam Việt Nam chỉ huy. Nhưng phòng tuyến này cũng nhanh chóng bị đập tan, Tư lệnh chiến trường bị bắt sống. Quân Bắc Việt tràn xuống đồng bằng Nam Bộ và chỉ còn cách Sài Gòn khoảng 100 km, các cánh quân của họ đang rầm rập hướng vào phía Sài Gòn.
* Trận Xuân Lộc
Mọi cố gắng cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trông vào tuyến phòng thủ Xuân Lộc của Sư đoàn 18 Việt Nam Cộng hòa đang chống lại đối phương là Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long - bao gồm các đơn vị từ mặt trận Đông Nam Bộ của quân Cộng sản gồm 3 sư đoàn 6, 7, 341 và các lữ đoàn, trung đoàn độc lập). Ngày 9 tháng 4, Quân đoàn 4 Cộng sản định đánh chiếm thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh trên hành tiến, nhưng Sư đoàn 18 đã kháng cự dũng cảm, ác liệt, có tổ chức và đã giữ vững được thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Quân Việt Nam Cộng hòa tiếp viện cho Xuân Lộc bằng Lữ đoàn 1 Dù và Lữ đoàn 3 Thiết giáp - những lực lượng dự bị cuối cùng - với hy vọng bằng tấm gương Xuân Lộc sẽ cổ vũ toàn thể lực lượng còn lại vững tin chống lại quân địch đang xốc tới và gây tiếng vang để Hoa Kỳ tin tưởng tiếp tục viện trợ. Quân đoàn 4 Quân giải phóng không lấy được thị xã trong hành tiến buộc phải dừng lại xây dựng trận địa tiến công, họ không đánh trực diện vào quân phòng thủ mà triệt ứng cứu từ phía Biên Hoà. Đồng thời họ không mất thì giờ với Xuân Lộc mà đi vòng để tiến đến Biên Hoà. Biên Hoà bị uy hiếp, phòng tuyến Xuân Lộc không còn ý nghĩa phòng thủ nữa. Ngày 21 tháng 4, quân phòng thủ Việt Nam Cộng hòa bỏ Xuân Lộc rút lui có trật tự sang bên kia sông Đồng Nai cố thủ. Tại mặt trận Xuân Lộc, Không lực Việt Nam Cộng hòa đã ném bom cháy CBU-55 xuống ngã ba Dầu Giây gây thương vong lớn cho phía Cộng sản (mỗi quả có bán kính sát thương 50 m và được cho là đã giết khoảng 250 người. Liên Xô và Trung Quốc đã phản đối mạnh mẽ với việc sử dụng loại bom sát thương cao này[3]). Với việc bỏ Xuân Lộc, Sài Gòn không còn được phòng thủ từ xa nữa, Quân Giải phóng Miền Nam đang áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi.

Ngày Xuân Lộc thất thủ, không còn gì để cứu vãn nữa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức để người khác đàm phán với phía Cộng sản. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía Cộng sản không chấp nhận nói chuyện với ông. Các lực lượng chính trị thứ ba đã dàn xếp để đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống ngày 28 tháng 4 năm 1975.
* Chiến dịch Hồ Chí Minh
Để đảm bảo chắc thắng với quân số áp đảo, quân đội Bắc Việt đưa thêm cả Quân đoàn 1 (hay còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng, thành lập từ các sư đoàn đứng chân trên miền Bắc gồm các sư đoàn 308, 312 và 320B) bằng tầu biển và máy bay vào chiến trường cho trận cuối cùng. Quân đoàn này chỉ để lại một sư đoàn là Sư đoàn 308 - đây là đơn vị mạnh nhất của Quân đội Nhân Dân Việt Nam - ở lại giữ miền Bắc.

Lúc đó tại khu vực xung quanh Sài Gòn, quân Bắc Việt Nam có 15 sư đoàn và rất nhiều lữ đoàn, trung đoàn độc lập của các binh chủng bộ binh, pháo binh, thiết giáp, phòng không, đặc công, công binh... Tất cả lực lượng này tương đương 20 sư đoàn - số quân phía Cộng sản lớn nhất được huy động trong cuộc chiến tranh này. Quân Cộng sản bố trí theo bốn quân đoàn: Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232 (tương đương một quân đoàn) sẽ đánh theo 5 mũi vào Sài Gòn. Để kích thích khí thế và nhấn mạnh ý nghĩa cuối cùng của trận đánh, Hà Nội đã đặt tên chiến dịch này là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Chiến dịch này kéo dài 4 ngày từ ngày 26 tháng 4 đến khi Tổng thống Việt Nam Cộng hoà đầu hàng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Ngày 26 tháng 4, sau loạt trận bắn pháo mãnh liệt nhiều giờ đồng hồ, quân Bắc Việt dùng bộ binh kèm thiết giáp xung phong ồ ạt đánh đồng loạt trên hướng đông bắc - hướng xa Sài Gòn nhất. Đến ngày 27 tháng 4 tất cả các lực lượng còn lại đồng loạt tiến công. Tuy ở một số hướng, quân phòng thủ đã kháng cự ác liệt đặc biệt các trận đánh rất ác liệt của quân phòng thủ đánh nhau với đặc công Cộng sản tiềm nhập chiếm các cầu dẫn vào thành phố. Nhưng sức áp đảo của quân Cộng sản quá lớn và quân Nam Việt Nam đã thế cùng lực kiệt không thể chống cự lâu dài được nữa. Đến cuối ngày 28 tháng 4 tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng tại tất cả các hướng, quân Cộng sản có thể đi ngay vào thành phố. Trong ngày 28 tháng 4 ngay khi nhậm chức để tiến hành đàm phán Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.

Trong các ngày 28, 29 tháng 4, từ các tàu sân bay ngoài biển, lính thuỷ đánh bộ Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác sâu sắc với họ. Cuộc di tản đã diễn ra trong lộn xộn, có rất nhiều người muốn ra đi nhưng không thể đáp ứng hết được. Các điểm đỗ của trực thăng trở nên hỗn loạn. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã rất vất vả mới duy trì được trật tự, họ dùng sức mạnh thô bạo gạt phăng các bạn đồng minh cũ đang trong cơn hoạn nạn. Người Mỹ đã phải bỏ lại nhiều người bạn lâu năm của mình. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc nhiều người Mỹ và người Việt như một kỷ niệm rất buồn. Đại sứ Graham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng ra đi.

Để không gây các rắc rối với Hoa Kỳ, tránh động chạm đến tự ái dân tộc của họ, quân Bắc Việt Nam dừng lại bên ngoài thành phố một ngày để cho người Mỹ di tản hết thì mới vào. 8 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Tổng thống Dương Văn Minh hạ lệnh đơn phương ngừng chiến, sẵn sàng đón quân đối phương vào Sài Gòn để bàn giao chính quyền. Bộ tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ra lệnh ngừng kháng cự để đàm phán bàn giao chính quyền. Quân Cộng sản tiến nhanh vào Sài Gòn không gặp kháng cự có tổ chức. 11 giờ 30 phút 30 tháng 4 1975 các sĩ quan Cộng sản đưa Tổng thống Dương Văn Minh ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến tranh Việt Nam kéo dài 21 năm đã chấm dứt. Chiến dịch mùa xuân của phía Cộng sản hoàn toàn thắng lợi.

Dù không có tắm máu trong ngày phe Cộng sản đánh chiếm Sài Gòn nhưng sau đó tác giả Jean Louis Margolin xác nhận là 200 ngàn người bị giam giữ theo xác nhận của Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên "Những ước tính nghiêm chỉnh nói từ 500 ngàn đến một triệu tù nhân trong tổng số dân là 20 triệu"
 
Last edited by a moderator:
F

faustvn01

Nếu dành cho một bài thi thì quả là quá dài, quá chi tiết mà lại không thể hiện được sự rõ ràng mạch lạc theo yêu cầu chung (nêu nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa lịch sử :D ), hơn nữa, giọng tường thuật, phân tích trong bài viết mà Rayno trích dẫn không phải là của các sử gia Việt Nam. Sẽ thật dại dột nếu bạn dùng nó để đi thi.

Tuy thế, đọc bài viết này, mình thấy rất hay và thú vị. cảm giác hoàn toàn khác so với đọc các bài học trong sách giáo khoa lịch sử. Cách tường thuật, phân tích rất tập trung, chi tiết, mạch lạc khiến người đọc dễ dàng có được một hình dung chung cũng như những dễ dàng theo dõi mạch diễn biến các sự kiện. Các sự kiện được miêu tả, phân tích trong mối quan hệ khăng khít với nhau, sự kiến này là nguyên nhân, cơ sở dẫn tới sự kiện kia chứ không phải là những sự kiện lịch sử rời rạc. Nói chung là một bài viết thú vị. Một lần nữa cám ơn Rayno.

p/s: à này, nhưng lần sau post bài trích dẫn lên thì ghi rõ nguồn trích dẫn nhé.
 
A

amokachi

hihi bài viết rất hay , chi tiết, cô đọng, súc tích :-B Nhưng bạn chép ở đâu ra thế :)) Sưu tầm tư liệu sâu sắc như thế này cũng hiếm đấy:D Tuy bài viết chỉ có tính tham khảo , không áp dụng được khi thi nhung mình thấy rất hay và bổ ích ! Very good ! B-)
 
E

emtienhocmai

1,trong những năm đầu sau Hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam ,cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam chống âm mưu ,hành động với Mĩ và chính quyền Sài Gòn đã diễn ra như thế nào?Nêu ý nghĩa của chiến thắng Phước Long (6-1-1975)?
2,những thành tựu chủ yếu của miền Bắc trong sản xuất,chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mĩ và trong việc thực hiện nghĩa vụ hậu phương kháng chiến chống Mĩ,cứu nước (1954-1975)?
3,trình bày tóm tắt diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975?
chị lam giup em cai để em thi em cam ơn
 
H

hovanchuc

bài viết wa1 chi tiết nếu đi thi mà bạn viết chi tiết vậy điểm của bạn sẻ ko cao
nhưng mà mình muốn góp ý cho bạn tí
cần phải nhấn mạnh một số vấn đề quan trọng
chúc bạn học tốt
 
T

thanh1178

Bài viết của Rayno tuy rất cụ thể về số liệu nhưng theo mình thấy bài viết này cứ như bài viết của một đứng về phiá chính quyền Cộng Hoà vậy! Trong các chiến dịch bạn nói rằng quân đội của chúng ta đông hơn đich gấp nhiều lần nên mới giành thắng lợi mà không hề thấy đè cập tới thắng lợi ta giành được trong mùa xuân 1975 còn là do 1 phần rất là nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Trung uwong Đảng, bộ chỉ huy chiến dịch với các chiến lược tác chiến đúng đắn sáng tạo. Còn nữa bạn nói đã có khoảng 500 ngàn đến 1 triệu người bị giam giữ cải tạo vậy khi đưa ra số liệu đó bạn có thử tự nghĩ xem với điều kiện cơ sở vật chất lúc bấy giờ chắc toàn miền Nam sẽ là một nhà ngục mỗi nhà dân là một nhà tù??? Một bài viết.....:(:(:(
 
G

greenlight911

Phải công nhận bạn rất siêng. Thanks 1 miếng
Còn về bài viết thì quá dài, đọc xong rối hết các mốc lịch sử, không biết quân nào ta, quân nào địch ( có vài chỗ thì biết), đọc xong là muốn vong luôn
 
Top Bottom