- 29 Tháng mười 2018
- 3,304
- 4,365
- 561
- TP Hồ Chí Minh
- THCS Nguyễn Hiền


1. Địa lý và kinh tế
Lưỡng Hà nằm giữa hai sông Euphrates và Tigris, có hai vùng là Thượng Lưỡng Hà với địa hình chủ yếu là cao nguyên, Hạ Lưỡng Hà là đồng bằng châu thổ
Về kinh tế, cư dân Lưỡng Hà trồng hai loại cây lương thực chính là lúa mì và lúa mạch là hai loại chính có năng suất cao, đào nhiều con kênh ở Hạ Lưỡng Hà. Họ dùng đồng thau làm công cụ lao động và vũ khí, phát minh ra bàn xoay đồ gồm vào năm 6000 TCN; du nhập bánh xe từ Trung Á vào sử dụng.
Về văn hóa, người Lưỡng Hà sáng tạo ra chữ viết hình nêm vào khoảng năm 3500 TCN, viết trên phiến đất sét rồi nung khô. Nhiều công trình chủ yếu xây bằng gạch nung - nổi bật là các ziggurat. Cư dân Lưỡng Hà biết khai căn bậc 3, hàm mũ và định lý Pythagore, dùng hệ đếm 60
Lưỡng Hà được chia thành nhiều thị quốc, đứng đầu mỗi thị quốc ban đầu là các giáo sĩ (về sau mới bầu vua). Họ thờ đa thần.
2. Sự thành lập và phát triển của các vương triều
+ Năm 3.500 - 3.100 TCN, cư dân nói ngôn ngữ Semites xuất hiện đầu tiên ở Lưỡng Hà. Họ lập ra nền văn hóa Uruk. Họ lập ra nhiều thị quốc, để lại các bản văn (đầu tiên là bản văn ở Kish có niên đại 3.500 TCN)
+ Năm 3.100 - 2.900 TCN, văn hóa Jemdet Nasr. Thời kỳ này cư dân dùng công cụ bằng đồng thau, mậu dịch hải ngoại rất phát triển và cư dân buôn bán nhiều nhất với Ai Cập láng giềng.
+ Năm 2900 - 2700 TCN, Vương triều Cổ thứ nhất. Vương triều này có 8 vua, nổi bật là vua Meskalamdug và Akalamdug là có lăng mộ khá kiên cố
+ Năm 2700 - 2600 TCN, Vương triều Cổ thứ hai - còn gọi là vương triều Kish. Không rõ vương triều này có bao nhiêu vua, chỉ biết hai vua cuối cùng là Enmebaragesi và Agga đã truyền ngôi cho ba vua kế tiếp của vương triều Uruk thứ nhất khá ngắn ngủi với ba vua là Enmerkar, Lugabalda và Gilgamesh.
+ Năm 2600 - 2370 TCN, Vương triều Cổ thứ ba - còn gọi là vương triều Lagash. Bảng kê các triều vua ghi nhận vua mở đầu triều đại này là Mesilim (khoảng 2600 TCN), nhưng chính Eannatum (khoảng 2500 TCN) đã chinh phục hầu hết xứ Sumer, mở rộng vương quyền tới tận Elam và Mari. Vua Uru-inim-gina (2378 - 2371 TCN) tiến hành cải cách xã hội đầu tiên, dùng thuật ngữ "tự do" cho xứ sở. Năm 2371 TCN, tổng trấn xứ Umma là Lugal-zagesi đánh bại vua Lagash cuối cùng rồi lập ra Vương triều III Uruk do bản thân ông ta thống trị (2371 - 2347 TCN). Thời Lugal-zagesi trị vì, lãnh thổ kéo dài từ Ba Tư đến Địa Trung Hải, dân số Lưỡng Hà là nửa triệu người và người Akkad bắt đầu chiếm những vị trí cao của triều đình Uruk.
+ Năm 2371 - 2190 TCN, Vương triều Akkad. Mở đầu vương triều là Sargon, một người hầu rượu của vua xứ Kish là Urzabanda. Sargon sau đó đã khởi nghĩa và nhanh chóng đánh bại quân Uruk của Lugal-zagesi rồi chính thức lên làm vua toàn cõi Lưỡng Hà (2371 - 2316 TCN). Thời Sargon, quân Akkad chinh phục Thượng Lưỡng Hà, bộ tộc Amorites ở Syria, vương quốc Elam và Subartu (Assyria). Hai người con kế vị ông là Rimush (2315 - 2307 TCN) và Manishtushu (2306 - 2292 TCN) nhiều lần đấu tranh chống phản loạn. Naramsin (2291 - 2255 TCN) đưa vương quyền Akkad lên tới cực thịnh nhất. Ông nắm giữ thần quyền, xưng là "Vua toàn cõi thiên hạ", đánh bại Ebla mở rộng đến tận Anatolia. Đến thời vua vĩ đại áp chót là Shar-kali-sharri (2254 - 2230 TCN), quân Guti liên tục quấy phá Lưỡng Hà, và đến năm 2154 TCN thì đánh bại vua cuối cùng là Shu-turul rồi chiếm đóng Lưỡng Hà.
+ Năm 2230 - 2112 TCN, vương triều Guti được xác lập với vua đầu tiên là Inkishush. Bảng kê các triều vua ghi được 21 vua Guti, nhưng quyền lực của họ rất hạn chế. Một vài thị quốc như Uruk và Lagash độc lập một cách tương đối - đặc biệt vua Gudea của Lagash phá hủy phần lớn các văn bản của người Sumer cổ. Năm 2120 TCN, vua Utu-hegal (2120 - 2114 TCN) của Uruk đánh bại vua Guti cuối cùng là Tirigan ra khỏi bờ cõi Sumer, nhưng ông băng hà sau đó ít lâu.
+ Năm 2112 - 2004 TCN, vương triều III Ur được thành lập. Ur-nammu (2112 - 2096 TCN) sau khi xưng vương đã đánh chiếm Sumer và Akkad. Ông cho xây dựng nhiều công trình lớn, nổi bật nhất là zinggurat thờ thần Nanna vẫn còn tồn tại đến hiện nay. Với chủ trương "tái lập công lý cho toàn xứ sở", Ur-nammu cho soạn thảo bộ luật đầu tiên nhằm tập trung quyền lực vào tay vua. Cuối thiên niên kỷ II TCN, dân số Lưỡng Hà là chừng 1 triệu người. Shulgi (2095 - 2048 TCN) chinh phục Thượng Lưỡng Hà và xưng là "vua của toàn cõi thiên hạ" - uy quyền của vương triều III Ur lên đỉnh cao nhất. Shu-sin (2038 - 2030 TCN) xây bức thành dài 150 dặm để chống người Amorites quấy phá. Nhưng đến thời Ibbisin (2029 - 2004 TCN), quân Amorites đánh bại nhà vua ở nhiều nơi, lập các vương quốc độc lập như Larsa, Isin, Eshnunna, Elam. Năm 2004 TCN, quân Elam tấn công và hủy diệt thành Ur.
+ Năm 2004 - 1894 TCN, thời kỳ hình thành các tiểu quốc độc lập nhau, kéo dài đến đầu thời nước Cổ Babylon:
- Vương triều Isin: vua đầu tiên là Ishbi-Erra (2017 - 1985 TCN) đánh đuổi quân Elam ra khởi thành Ur. Ishme-Dagan (1953 - 1935 TCN) tiến hành cải cách xã hội. Vua kế là Lipit-Ishtar (1934 - 1924) ra bộ luật quan trọng. Qua 9 đời vua, vua cuối cùng Damiq-ilishu (1818 - 1794 TCN).
- Vương triều Larsa: sau khi Naplanum (2025 - 2005 TCN) thành lập vương triều ít lâu, vua Saminum (1976 - 1942 TCN) đưa Larsa đến cực thịnh. Qua 10 đời vua, đến thời Rimsin (1822 - 1763 TCN) đã diệt được Isin thống nhất Hạ Lưỡng Hà
- Vương quốc Assyria thứ nhất: Puzur-Ashur I (1950 TCN) thành lập nước Assyria, đóng đô ở thành Ashur và lập hàng chục khu mậu dịch ở vùng Anatolia. Năm 1813 TCN, hoàng thân của người Amorites là Shamshi-Adad I soán ngôi Erishum II rồi cầm quyền. Thời Shamshi-Adad I (1813 - 1781 TCN), người Assyria bành trướng về phía tây. Con trai ông là Ishme-Dagan (1780 - 1741 TCN) lãnh đạo liên minh đánh Babylon, nhưng thất bại. Sau khi Ishme-Dagan qua đời, Assyria suy yếu một thời gian.
+ Năm 1894 - 1595 TCN, vương triều Cổ Babylon được thành lập. Sáng lập là Sumuabun (1894 - 1881 TCN). Vua kế tiếp là Sinmuballit (1812 - 1793 TCN) mở rộng ảnh hưởng đến tận vùng Euphrates. Vua thứ 6 của vương triều là Hammurabi (1792 - 1750 TCN) chiếm Uruk, Isin và đánh tan liên minh 3 nước rồi sát nhập Elam, Eshnunna vào Babylon, lấy Larsa làm kinh đô phương Nam. Năm 1759 TCN, ông diệt Mari. Năm 1757 - 1755 TCN, ông đánh bại quân Assyria và quân khởi nghĩa Eshnunna. Cư dân Babylon lúc này dùng tiếng Sumer để viết, dùng tiếng Amorites và Babylon để giao lưu văn hóa, nói chuyện. Thời Hammurabi, vua ban hành bộ luật Hammurabi, lập triều đình tập quyền và đào nhiều kênh mương, tôn Marduk làm vị thần của cả nước. Nhưng sau khi Hamurabi vừa băng hà, Cổ Babylon suy yếu. Vua Samsriluna (1749 - 1712 TCN) liên tục chống đỡ các cuộc xâm nhập của người Kassites và người Sealand. Các vua Abieshu (1711 - 1684 TCN) và Ammiditana (1683 - 1647 TCN) nhiều lần đẩy lui được quân Kassites xâm lấn. Vua áp chót là Ammisaduqa (1646 - 1626 TCN) cải cách hành chính, xóa nợ và cho nô lệ tự do, nhưng quá muộn. Vua cuối cùng là Samsuditana (1625 - 1595 TCN), cai trị thái bình được 30 năm, rồi bị quân của vua Hittites là Mursilis cướp phá vào năm 1595 TCN. Sau khi quân Hittites rút lui, người Kassites tràn vào chiếm đóng một thời gian.
+ Thời kỳ chiếm đóng của Kassites và các vương quốc khác:
- Vương triều Kassites (1595 - 1139 TCN). Thời vua Bunaburiash, ông này ký hiệp ước với Puzur-Ashur III (1521 - 1498 TCN) của Assyria phân chia lãnh thổ: Thượng Lưỡng Hà là Assyria, Hạ Lưỡng Hà là Kassites. Vua kế tiếp là Ulamburiash (1450 TCN) chiếm Sealand, Kurigalzu I (1400 TCN) chinh phục Elam và liên minh với Ai Cập cổ đại. Đến triều Kashtiliash III (1242 - 1235 TCN), quân Kassites đánh bại cuộc xâm lăng của Assyria. Năm 1160 TCN, quân Elam và Assyria chiếm Babylon. Quân Kassites còn kháng cự đến đời vua Enlilnadin-ahhi (1159 - 1139 TCN) thì bại trận hoàn toàn.
- Vương triều II Isin: sau khi đánh bại quân Kassites, vua Marduk-kabit-ahhesu (1156 - 1139 TCN) khôi phục lại vương triều. Vua hùng mạnh nhất là Nebuchadnezzar I (1124 - 1103 TCN) đánh chiếm Elam. Năm 1081 TCN, Tighlath-Pileser I của Assyria đánh bại quân Isin. Cuối thiên niên kỷ II TCN, dân số Lưỡng Hà có 1,25 triệu người.
- Vương quốc Mitanni: Sudarna I (1550 TCN) thành lập vương quốc. Vua Saustatar (1500 TCN) thống trị toàn bộ Thượng Lưỡng Hà, nhưng bị quân Ai Cập dưới triều Pharaoh Thutmose III đánh tan khiến ông không thể với tới Euphrates. Vua Artadama I và Sudarna II (1400 TCN) liên minh với Ai Cập thông qua hôn nhân. Sau khi Sudarna II vừa băng hà, nội chiến giữa con và cháu của ông khiến Mitanni tan rã dần. Cuối cùng, quân Mitanni bị quân Assyria do Salmaneser I đánh bại, vua Mitanni cuối cùng là Shattuara II bị lật đổ.
- Vương quốc Assyria thứ hai: vào thời Ashuruballit I (1365 - 1330 TCN), đế quốc được mở mang về phía tây và bắc, ngang hàng với đế quốc Ai Cập thời Amenhotep IV. Adadnirari I (1307 - 1275 TCN) đánh tan Babylon và chinh phục các tiểu quốc của người Mitanni cũ. Salmaneser I (1275 - 1245 TCN) chinh phạt Urartu, quân Mittani và kéo dài đến tận Carchemish - nhưng hòa ước Hitties với Ai Cập năm 1275 TCN khiến cuộc tây tiến của Assyria bị ngăn lại. Vua Tukulti-Ninurta I (1244 - 1208 TCN) chiếm đóng Babylon trong thời gian ngắn, soạn luật và lập kinh đô mới, về sau ông bị con trai soán ngôi. Sau khi quân Ai Cập rời khỏi châu Á, Tighlath-Pileser I (1115 - 1077 TCN) mở rộng lãnh thổ Assyria chạy dài từ Địa Trung Hải đến sông Zagros. Năm 934 TCN, Ashudan II (934 - 912 TCN) lập ra đế quốc Tân Assyria. Đến thời Adadnirari II (911 - 890 TCN), Tukulti-Ninurta II (890 - 884 TCN) và Ashurnasirapli II (883 - 859 TCN), quân Assyria chinh chiến nhiều nơi. Ashurnasirapli II lập chính quyền tập quyền, kinh đô Nimrud. Vua Salmaneser III (858 - 824 TCN) tiến quân vào vùng của người Aramean thuộc Syria, nhưng bị chặn đứng ở trận Qarqar (853 TCN). Nhưng đến năm 842 TCN, Salmaneser III hạ được thành Damas và nước Urartu. Sau khi ông vừa băng hà, con trai là Shamshi-adad III đánh bại người em rồi lên ngôi (823 - 811 TCN), nhưng quyền lực suy yếu dần, về sau bị Urartu bắt làm chư hầu một thời gian. Năm 744 TCN, con út của Adadnirari III là Tighlath-Pileser III (744 - 727 TCN) lên ngôi - ông sau đó đánh tan liên minh của Urartu, khuất phục Damas và Israel, xưng là Hoàng đế Babylon (731 TCN). Vua Salmaneser V (726 - 722 TCN) đau đầu đối phó với cuộc khởi nghĩa của nhân dân Israel; kế tiếp là Sargon II (722 - 705 TCN) đánh tan tành quân Israel, Ai Cập và dẹp tan khởi nghĩa Babylon, lập kinh đô mới ở Khorsabad. Thế nhưng, tàn quân khởi nghĩa Babylon vẫn tiếp tục kháng cự đạo quân Assyria của Sennacherib (704 - 681 TCN) rồi bị đánh bại hoàn toàn vào năm 689 TCN. Thời Esarhaddon (680 - 669 TCN), quân Assyria hai lần đánh bại Ai Cập, tái thiết Babylon. Vua vĩ đại nhất là Ashurbanipal (668 - 627 TCN) đánh bại Ai Cập để mở rộng lãnh thổ đến tận Thebes; lập thư viện nổi tiếng mang tên mình. Sau khi ông băng hà, Assyria suy yếu. Lợi dụng nội loạn giữa hai con trai của cựu vương Assyria vừa băng hà, tổng đốc Chaldea là Nabopolassar xưng vương ở Babylon. Ông này hợp quân với Cyxares của Medes đánh bại vua áp chót của Assyria là Sin-sharinkun (626 - 612 TCN) ở kinh đô Niniveh. Tàn quân Assyria tập hợp dưới quyền vua cuối cùng là Ashuruballit II (611 - 609 TCN) kháng cự, nhưng bị Babylon đánh bại hoàn toàn. Đế quốc Assyria diệt vong.
+ Năm 626 - 539 TCN, vương quốc Tân Babylon. Vua khai quốc của vương triều là Nabopolassar (626 - 605 TCN) liên minh với Medes diệt đế quốc Assyria, đánh tan tàn quân Assyria và cuộc xâm nhập của quân Ai Cập. Con trai ông là Nebuchadnezzar II (604 - 562 TCN) chinh phạt Judah và Jerusalem, rồi trục xuất những người Do Thái ra khỏi đây; xây dựng vườn treo Babylon huyền thoại. Sau khi Nebuchadnezzar II băng hà, Evil-Merodach (562 - 560 TCN) bị anh rể là Neriglissar (559 - 556 TCN) sát hại rồi cướp ngôi. Năm 555 TCN, Nabonidus (555 - 539 TCN) soán ngôi, tôn thờ nữ thần Isin cao hơn Marduk khiến giới tăng lữ bất bình. Năm 539 TCN, quân Ba Tư của Cyrus II đánh bại, Nabonidus bị bắt và thái tử Belshazzar bị giết sau đó. Vương quốc Tân Babylon diệt vong
Nguồn: tổng hợp từ nhiều tài liệu
Lưỡng Hà nằm giữa hai sông Euphrates và Tigris, có hai vùng là Thượng Lưỡng Hà với địa hình chủ yếu là cao nguyên, Hạ Lưỡng Hà là đồng bằng châu thổ
Về kinh tế, cư dân Lưỡng Hà trồng hai loại cây lương thực chính là lúa mì và lúa mạch là hai loại chính có năng suất cao, đào nhiều con kênh ở Hạ Lưỡng Hà. Họ dùng đồng thau làm công cụ lao động và vũ khí, phát minh ra bàn xoay đồ gồm vào năm 6000 TCN; du nhập bánh xe từ Trung Á vào sử dụng.
Về văn hóa, người Lưỡng Hà sáng tạo ra chữ viết hình nêm vào khoảng năm 3500 TCN, viết trên phiến đất sét rồi nung khô. Nhiều công trình chủ yếu xây bằng gạch nung - nổi bật là các ziggurat. Cư dân Lưỡng Hà biết khai căn bậc 3, hàm mũ và định lý Pythagore, dùng hệ đếm 60
Lưỡng Hà được chia thành nhiều thị quốc, đứng đầu mỗi thị quốc ban đầu là các giáo sĩ (về sau mới bầu vua). Họ thờ đa thần.
2. Sự thành lập và phát triển của các vương triều
+ Năm 3.500 - 3.100 TCN, cư dân nói ngôn ngữ Semites xuất hiện đầu tiên ở Lưỡng Hà. Họ lập ra nền văn hóa Uruk. Họ lập ra nhiều thị quốc, để lại các bản văn (đầu tiên là bản văn ở Kish có niên đại 3.500 TCN)
+ Năm 3.100 - 2.900 TCN, văn hóa Jemdet Nasr. Thời kỳ này cư dân dùng công cụ bằng đồng thau, mậu dịch hải ngoại rất phát triển và cư dân buôn bán nhiều nhất với Ai Cập láng giềng.
+ Năm 2900 - 2700 TCN, Vương triều Cổ thứ nhất. Vương triều này có 8 vua, nổi bật là vua Meskalamdug và Akalamdug là có lăng mộ khá kiên cố
+ Năm 2700 - 2600 TCN, Vương triều Cổ thứ hai - còn gọi là vương triều Kish. Không rõ vương triều này có bao nhiêu vua, chỉ biết hai vua cuối cùng là Enmebaragesi và Agga đã truyền ngôi cho ba vua kế tiếp của vương triều Uruk thứ nhất khá ngắn ngủi với ba vua là Enmerkar, Lugabalda và Gilgamesh.
+ Năm 2600 - 2370 TCN, Vương triều Cổ thứ ba - còn gọi là vương triều Lagash. Bảng kê các triều vua ghi nhận vua mở đầu triều đại này là Mesilim (khoảng 2600 TCN), nhưng chính Eannatum (khoảng 2500 TCN) đã chinh phục hầu hết xứ Sumer, mở rộng vương quyền tới tận Elam và Mari. Vua Uru-inim-gina (2378 - 2371 TCN) tiến hành cải cách xã hội đầu tiên, dùng thuật ngữ "tự do" cho xứ sở. Năm 2371 TCN, tổng trấn xứ Umma là Lugal-zagesi đánh bại vua Lagash cuối cùng rồi lập ra Vương triều III Uruk do bản thân ông ta thống trị (2371 - 2347 TCN). Thời Lugal-zagesi trị vì, lãnh thổ kéo dài từ Ba Tư đến Địa Trung Hải, dân số Lưỡng Hà là nửa triệu người và người Akkad bắt đầu chiếm những vị trí cao của triều đình Uruk.
+ Năm 2371 - 2190 TCN, Vương triều Akkad. Mở đầu vương triều là Sargon, một người hầu rượu của vua xứ Kish là Urzabanda. Sargon sau đó đã khởi nghĩa và nhanh chóng đánh bại quân Uruk của Lugal-zagesi rồi chính thức lên làm vua toàn cõi Lưỡng Hà (2371 - 2316 TCN). Thời Sargon, quân Akkad chinh phục Thượng Lưỡng Hà, bộ tộc Amorites ở Syria, vương quốc Elam và Subartu (Assyria). Hai người con kế vị ông là Rimush (2315 - 2307 TCN) và Manishtushu (2306 - 2292 TCN) nhiều lần đấu tranh chống phản loạn. Naramsin (2291 - 2255 TCN) đưa vương quyền Akkad lên tới cực thịnh nhất. Ông nắm giữ thần quyền, xưng là "Vua toàn cõi thiên hạ", đánh bại Ebla mở rộng đến tận Anatolia. Đến thời vua vĩ đại áp chót là Shar-kali-sharri (2254 - 2230 TCN), quân Guti liên tục quấy phá Lưỡng Hà, và đến năm 2154 TCN thì đánh bại vua cuối cùng là Shu-turul rồi chiếm đóng Lưỡng Hà.
+ Năm 2230 - 2112 TCN, vương triều Guti được xác lập với vua đầu tiên là Inkishush. Bảng kê các triều vua ghi được 21 vua Guti, nhưng quyền lực của họ rất hạn chế. Một vài thị quốc như Uruk và Lagash độc lập một cách tương đối - đặc biệt vua Gudea của Lagash phá hủy phần lớn các văn bản của người Sumer cổ. Năm 2120 TCN, vua Utu-hegal (2120 - 2114 TCN) của Uruk đánh bại vua Guti cuối cùng là Tirigan ra khỏi bờ cõi Sumer, nhưng ông băng hà sau đó ít lâu.
+ Năm 2112 - 2004 TCN, vương triều III Ur được thành lập. Ur-nammu (2112 - 2096 TCN) sau khi xưng vương đã đánh chiếm Sumer và Akkad. Ông cho xây dựng nhiều công trình lớn, nổi bật nhất là zinggurat thờ thần Nanna vẫn còn tồn tại đến hiện nay. Với chủ trương "tái lập công lý cho toàn xứ sở", Ur-nammu cho soạn thảo bộ luật đầu tiên nhằm tập trung quyền lực vào tay vua. Cuối thiên niên kỷ II TCN, dân số Lưỡng Hà là chừng 1 triệu người. Shulgi (2095 - 2048 TCN) chinh phục Thượng Lưỡng Hà và xưng là "vua của toàn cõi thiên hạ" - uy quyền của vương triều III Ur lên đỉnh cao nhất. Shu-sin (2038 - 2030 TCN) xây bức thành dài 150 dặm để chống người Amorites quấy phá. Nhưng đến thời Ibbisin (2029 - 2004 TCN), quân Amorites đánh bại nhà vua ở nhiều nơi, lập các vương quốc độc lập như Larsa, Isin, Eshnunna, Elam. Năm 2004 TCN, quân Elam tấn công và hủy diệt thành Ur.
+ Năm 2004 - 1894 TCN, thời kỳ hình thành các tiểu quốc độc lập nhau, kéo dài đến đầu thời nước Cổ Babylon:
- Vương triều Isin: vua đầu tiên là Ishbi-Erra (2017 - 1985 TCN) đánh đuổi quân Elam ra khởi thành Ur. Ishme-Dagan (1953 - 1935 TCN) tiến hành cải cách xã hội. Vua kế là Lipit-Ishtar (1934 - 1924) ra bộ luật quan trọng. Qua 9 đời vua, vua cuối cùng Damiq-ilishu (1818 - 1794 TCN).
- Vương triều Larsa: sau khi Naplanum (2025 - 2005 TCN) thành lập vương triều ít lâu, vua Saminum (1976 - 1942 TCN) đưa Larsa đến cực thịnh. Qua 10 đời vua, đến thời Rimsin (1822 - 1763 TCN) đã diệt được Isin thống nhất Hạ Lưỡng Hà
- Vương quốc Assyria thứ nhất: Puzur-Ashur I (1950 TCN) thành lập nước Assyria, đóng đô ở thành Ashur và lập hàng chục khu mậu dịch ở vùng Anatolia. Năm 1813 TCN, hoàng thân của người Amorites là Shamshi-Adad I soán ngôi Erishum II rồi cầm quyền. Thời Shamshi-Adad I (1813 - 1781 TCN), người Assyria bành trướng về phía tây. Con trai ông là Ishme-Dagan (1780 - 1741 TCN) lãnh đạo liên minh đánh Babylon, nhưng thất bại. Sau khi Ishme-Dagan qua đời, Assyria suy yếu một thời gian.
+ Năm 1894 - 1595 TCN, vương triều Cổ Babylon được thành lập. Sáng lập là Sumuabun (1894 - 1881 TCN). Vua kế tiếp là Sinmuballit (1812 - 1793 TCN) mở rộng ảnh hưởng đến tận vùng Euphrates. Vua thứ 6 của vương triều là Hammurabi (1792 - 1750 TCN) chiếm Uruk, Isin và đánh tan liên minh 3 nước rồi sát nhập Elam, Eshnunna vào Babylon, lấy Larsa làm kinh đô phương Nam. Năm 1759 TCN, ông diệt Mari. Năm 1757 - 1755 TCN, ông đánh bại quân Assyria và quân khởi nghĩa Eshnunna. Cư dân Babylon lúc này dùng tiếng Sumer để viết, dùng tiếng Amorites và Babylon để giao lưu văn hóa, nói chuyện. Thời Hammurabi, vua ban hành bộ luật Hammurabi, lập triều đình tập quyền và đào nhiều kênh mương, tôn Marduk làm vị thần của cả nước. Nhưng sau khi Hamurabi vừa băng hà, Cổ Babylon suy yếu. Vua Samsriluna (1749 - 1712 TCN) liên tục chống đỡ các cuộc xâm nhập của người Kassites và người Sealand. Các vua Abieshu (1711 - 1684 TCN) và Ammiditana (1683 - 1647 TCN) nhiều lần đẩy lui được quân Kassites xâm lấn. Vua áp chót là Ammisaduqa (1646 - 1626 TCN) cải cách hành chính, xóa nợ và cho nô lệ tự do, nhưng quá muộn. Vua cuối cùng là Samsuditana (1625 - 1595 TCN), cai trị thái bình được 30 năm, rồi bị quân của vua Hittites là Mursilis cướp phá vào năm 1595 TCN. Sau khi quân Hittites rút lui, người Kassites tràn vào chiếm đóng một thời gian.
+ Thời kỳ chiếm đóng của Kassites và các vương quốc khác:
- Vương triều Kassites (1595 - 1139 TCN). Thời vua Bunaburiash, ông này ký hiệp ước với Puzur-Ashur III (1521 - 1498 TCN) của Assyria phân chia lãnh thổ: Thượng Lưỡng Hà là Assyria, Hạ Lưỡng Hà là Kassites. Vua kế tiếp là Ulamburiash (1450 TCN) chiếm Sealand, Kurigalzu I (1400 TCN) chinh phục Elam và liên minh với Ai Cập cổ đại. Đến triều Kashtiliash III (1242 - 1235 TCN), quân Kassites đánh bại cuộc xâm lăng của Assyria. Năm 1160 TCN, quân Elam và Assyria chiếm Babylon. Quân Kassites còn kháng cự đến đời vua Enlilnadin-ahhi (1159 - 1139 TCN) thì bại trận hoàn toàn.
- Vương triều II Isin: sau khi đánh bại quân Kassites, vua Marduk-kabit-ahhesu (1156 - 1139 TCN) khôi phục lại vương triều. Vua hùng mạnh nhất là Nebuchadnezzar I (1124 - 1103 TCN) đánh chiếm Elam. Năm 1081 TCN, Tighlath-Pileser I của Assyria đánh bại quân Isin. Cuối thiên niên kỷ II TCN, dân số Lưỡng Hà có 1,25 triệu người.
- Vương quốc Mitanni: Sudarna I (1550 TCN) thành lập vương quốc. Vua Saustatar (1500 TCN) thống trị toàn bộ Thượng Lưỡng Hà, nhưng bị quân Ai Cập dưới triều Pharaoh Thutmose III đánh tan khiến ông không thể với tới Euphrates. Vua Artadama I và Sudarna II (1400 TCN) liên minh với Ai Cập thông qua hôn nhân. Sau khi Sudarna II vừa băng hà, nội chiến giữa con và cháu của ông khiến Mitanni tan rã dần. Cuối cùng, quân Mitanni bị quân Assyria do Salmaneser I đánh bại, vua Mitanni cuối cùng là Shattuara II bị lật đổ.
- Vương quốc Assyria thứ hai: vào thời Ashuruballit I (1365 - 1330 TCN), đế quốc được mở mang về phía tây và bắc, ngang hàng với đế quốc Ai Cập thời Amenhotep IV. Adadnirari I (1307 - 1275 TCN) đánh tan Babylon và chinh phục các tiểu quốc của người Mitanni cũ. Salmaneser I (1275 - 1245 TCN) chinh phạt Urartu, quân Mittani và kéo dài đến tận Carchemish - nhưng hòa ước Hitties với Ai Cập năm 1275 TCN khiến cuộc tây tiến của Assyria bị ngăn lại. Vua Tukulti-Ninurta I (1244 - 1208 TCN) chiếm đóng Babylon trong thời gian ngắn, soạn luật và lập kinh đô mới, về sau ông bị con trai soán ngôi. Sau khi quân Ai Cập rời khỏi châu Á, Tighlath-Pileser I (1115 - 1077 TCN) mở rộng lãnh thổ Assyria chạy dài từ Địa Trung Hải đến sông Zagros. Năm 934 TCN, Ashudan II (934 - 912 TCN) lập ra đế quốc Tân Assyria. Đến thời Adadnirari II (911 - 890 TCN), Tukulti-Ninurta II (890 - 884 TCN) và Ashurnasirapli II (883 - 859 TCN), quân Assyria chinh chiến nhiều nơi. Ashurnasirapli II lập chính quyền tập quyền, kinh đô Nimrud. Vua Salmaneser III (858 - 824 TCN) tiến quân vào vùng của người Aramean thuộc Syria, nhưng bị chặn đứng ở trận Qarqar (853 TCN). Nhưng đến năm 842 TCN, Salmaneser III hạ được thành Damas và nước Urartu. Sau khi ông vừa băng hà, con trai là Shamshi-adad III đánh bại người em rồi lên ngôi (823 - 811 TCN), nhưng quyền lực suy yếu dần, về sau bị Urartu bắt làm chư hầu một thời gian. Năm 744 TCN, con út của Adadnirari III là Tighlath-Pileser III (744 - 727 TCN) lên ngôi - ông sau đó đánh tan liên minh của Urartu, khuất phục Damas và Israel, xưng là Hoàng đế Babylon (731 TCN). Vua Salmaneser V (726 - 722 TCN) đau đầu đối phó với cuộc khởi nghĩa của nhân dân Israel; kế tiếp là Sargon II (722 - 705 TCN) đánh tan tành quân Israel, Ai Cập và dẹp tan khởi nghĩa Babylon, lập kinh đô mới ở Khorsabad. Thế nhưng, tàn quân khởi nghĩa Babylon vẫn tiếp tục kháng cự đạo quân Assyria của Sennacherib (704 - 681 TCN) rồi bị đánh bại hoàn toàn vào năm 689 TCN. Thời Esarhaddon (680 - 669 TCN), quân Assyria hai lần đánh bại Ai Cập, tái thiết Babylon. Vua vĩ đại nhất là Ashurbanipal (668 - 627 TCN) đánh bại Ai Cập để mở rộng lãnh thổ đến tận Thebes; lập thư viện nổi tiếng mang tên mình. Sau khi ông băng hà, Assyria suy yếu. Lợi dụng nội loạn giữa hai con trai của cựu vương Assyria vừa băng hà, tổng đốc Chaldea là Nabopolassar xưng vương ở Babylon. Ông này hợp quân với Cyxares của Medes đánh bại vua áp chót của Assyria là Sin-sharinkun (626 - 612 TCN) ở kinh đô Niniveh. Tàn quân Assyria tập hợp dưới quyền vua cuối cùng là Ashuruballit II (611 - 609 TCN) kháng cự, nhưng bị Babylon đánh bại hoàn toàn. Đế quốc Assyria diệt vong.
+ Năm 626 - 539 TCN, vương quốc Tân Babylon. Vua khai quốc của vương triều là Nabopolassar (626 - 605 TCN) liên minh với Medes diệt đế quốc Assyria, đánh tan tàn quân Assyria và cuộc xâm nhập của quân Ai Cập. Con trai ông là Nebuchadnezzar II (604 - 562 TCN) chinh phạt Judah và Jerusalem, rồi trục xuất những người Do Thái ra khỏi đây; xây dựng vườn treo Babylon huyền thoại. Sau khi Nebuchadnezzar II băng hà, Evil-Merodach (562 - 560 TCN) bị anh rể là Neriglissar (559 - 556 TCN) sát hại rồi cướp ngôi. Năm 555 TCN, Nabonidus (555 - 539 TCN) soán ngôi, tôn thờ nữ thần Isin cao hơn Marduk khiến giới tăng lữ bất bình. Năm 539 TCN, quân Ba Tư của Cyrus II đánh bại, Nabonidus bị bắt và thái tử Belshazzar bị giết sau đó. Vương quốc Tân Babylon diệt vong
Nguồn: tổng hợp từ nhiều tài liệu