Bạn rainbow9xvt@yahoo.com.vn có gửi tới Hocmai.vn một số bài viết trả lời một số câu hỏi trong đề thi trên Hocmai.vn. Chúng tôi post lên đây để các em tham khảo và nhận xét về cách làm bài văn học sử, cách phân tích một vài đặc điểm của nhân vật trong tác phẩm tự sự, cách làm bài so sánh văn học.
1. Những nét chính trong sự nghiệp văn học của Nam Cao
Nam Cao được đánh giá là một cây bút hiện thực xuất sắc của Văn học Việt Nam hiệnđại. Là một nhà văn với vẻ ngoài lạnh lùng, vụng về nhưng sâu thẳm bên trong tâm hồn lại sục sôi những mâu thuẫn, những chiêm nghiệm về đời sống, về con người. Ông đã đóng góp cho văn chương Việt Nam một sự nghiệp sáng tác vô cùng lớn lao với những tác phẩm mang nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc.
Tìm hiểu sự nghiệp văn học của Nam Cao, chúng ta có thể khẳng định một điều: ông đã để lại một sự nghiệp văn học nhất quán về đề tài với những quan điểm nghệ thuật vô cùng đúng đắn. Ông hướng ngòi bút của mình vào hai đề tài chính: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo.
Nam Cao được đánh giá là một nhà nhân đạo lớn với những yêu cầu khắt khe về con người. Theo tác gia này, để đạt được danh hiệu "Con Người" cao quý cần đáp ứng được ba điều kiện: Phải có lý tưởng sống cao đẹp, phải biết yêu thương đồng loại và đặc biệt, phải có vốn kiến thức văn học để cảm nhận và hưởng thụ những cái hay, cái đẹp của văn chương. Nhìn vào thực trạng xã hội lúc bấy giờ, Nam Cao đau đớn nhận ra rằng, dường như không có ai có thể đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn ấy để vươn lên xứng tầm với bản chất Người cao đẹp. Chính vì vậy mà các nhân vật trí thức trong sáng tác của Nam Cao thường rơi vào những tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dằn vặt, giằng xé lương tri con người.
Về đề tài người nông dân nghèo, Nam Cao đặc biệt chú ý đến ba loại người. Đó là những con người càng hiền lành càng bị chà đạp phũ phàng hay những con người bị xúc phạm nặng nề về danh dự, nhân phẩm ("Lang Rận") hay những kẻ rơi vào bi kịch tha hoá (Chí Phèo, Binh Chức)
Tuy nhiên, dù đối tượng hướng tới là gì, Nam Cao vẫn đánh giá họ trên cơ sở của tinh thần nhân đạo, được thể hiện rõ rệt qua quan điểm nghệ thuật của ông. Những quan điểm ấy không được phát biểu dưới dạng chính luận mà được biểu hiện gián tiếp qua các sáng tác của ông.
Ông đặc biệt phê phán văn học lãng mạn, thứ mà ông coi là "ánh trăng xanh lừa dối", chuyên thi vị hoá đời sống đen tối, bất công, phục vụ thị hiếu của bọn trưởng giả no nê, nhàn rỗi. Theo ông, văn học đích thực phải phản ánh chân thực đầy đủ đời sống với tất cả tính chất của nó, dẫu rằng hiện thực đời sống ấy là không tốt đẹp
.
Hơn thế, ông khẳng định: Văn học chân chính không thể chỉ phán ánh hiện thực đời sống mà còn phải phân tích, lý giải, đi sâu cắt nghĩa cuộc sống. Tác gia này đã tâm sự trong tác phẩm "Đường vô Nam":"... sống đã rồi hãy viết,[...],những thứ không nghệ thuật tôi làm hôm này là để chuẩn bị cho một nghệ thuật cao hơn...". Vậy, thứ 'nghệ thuật cao hơn" ấy bao gồm những gì? Còn gì khác nếu không phải là những giá trị nghệ thuật cao đẹp hơn, những kinh nghiệm quý báu được đúc kết sau khi 'sống"?
Và, khi nhắc đến Nam Cao, người ta không thể không nhắc đến quan niệm văn chương hết sức tiến bộ của ông. Theo ông, "văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo những mẫu sẵn có..". Văn chương chỉ dung nạp những con người biết "đào sâu tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có" ("Đời thừa")
Điều làm nên sự đặc biệt hơn cả cho sự nghiệp văn học của Nam Cao chính là vấn đề 'Đôi mắt". Ông quan niệm, trước Cách mạng, phải nhìn người đọc với con mắt của tình thương để nhận ra những bản chất tốt đẹp. Sau cách mạng, người nghệ sĩ bắt buộc phải đặt họ trong một ''thế nhìn kép", đôi mắt của tình thương đi liền với ánh nhìn của sự cảm phục. Họ không phải là những nạn nhân bất lực của hoàn cảnh mà chinh là những người biết đấu tranh cải tạo hoàn cảnh.
Như vậy, Nam Cao quả thực đã để lại cho nền văn xuôi Việt Nam một sự nghiệp văn học vô cùng giá trị, với những nét tư tưởng và ý nghĩa vô cùng độc đáo, tiến bộ. Sự nghiệp văn học quý giá này chính là bằng chứng chứng tỏ chỗ đứng vững chắc của Nam Cao trong nền văn học nước nhà.
2. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời để thấy rõ bi kịch của nhân vật này.
Nam Cao được đánh giá là một cây bút hiện thực xuất sắc của Văn học Việt Nam hiện đại. Đến với các sáng tác của ông, ta sẽ có cơ hội gặp gỡ với những con người vô cùng gần gũi, quen thuộc trong đời sống hàng ngày: người trí thức nghèo và nông dân nghèo. Viết về những con người ấy, ông không chỉ chứng tỏ được tài năng nghệ thuật xuất chúng của mình mà còn hé mở cho người đọc thấy được một phần sâu thẳm trong trái tim một "nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ": tinh thần nhân đạo sâu sắc. "Chí Phèo" là tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao, một tác phẩm với những giá trị nghệ thuật và nội dung vô cùng đáng ghi nhận. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh số phận bi kịch của Chí Phèo, một người nông dân chất phác, hiền lành nhưng đã bị xoáy vào những bi kịch nghiệt ngã của số phận: bi kịch bị tha hoá và bi kịch bị từ chối quyền làm người. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở được đánh giá là một dạng ''tình huống nhận thức'', đã giúp cho Chí nhận ra số phận hẩm hiu của mình. Diễn biến tâm trạng của Chí từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời đóng vai trò rất quan trọng, là hạt nhân cơ bản giúp người đọc thấy rõ được tấn bi kịch của nhân vật này.
Trước hết, tác phẩm dẫn dắt người đọc đến với khái niệm "bi kịch". Vậy bi kịch là gì? Bi kịch là tình trạng mâu thuẫn gay gắt giữa ước mơ và thực tại. Nhân vật nhận thức được điều ấy, muốn thoát ra nhưng không thể nên rơi vào tình trạng bi kịch. Có thể nói, cuộc đời của Chí là một "tấn đại kịch", nhưng dường như bi kịch thực sự chỉ diễn ra vào buổi sáng sau hôm Chí Phèo gặp Thị Nở.
Tìm hiểu và suy xét tác phẩm, không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được điều đó. Bởi nếu không có buổi sáng hôm ấy, Chí Phèo sẽ không bao giờ tỉnh táo để tìm lại chính mình. Sáng hôm ấy, Chí thức dậy. Và, dường như lần đầu tiên trong đời, hắn tỉnh và cảm thấy sợ rượu. Trước kia, hắn đã chìm trong những cơn say miên man, những cơn say triền miên không dứt đã làm hắn quên rằng còn một Chí tồn tại trên đời. Buổi sáng hôm ấy, hắn tỉnh giấc và nghe thấy những âm thanh của đời sống thường ngày: tiếng chim hót, tiếng người đi chợ về, những tiếng vọng thân thương của cuộc sống...Và hắn chợt thảng thốt nhớ ra rằng mình đã già...Tuổi già đến từ bao giờ mà hắn không hề hay biết. Cô đơn, lẻ loi, đau ốm... như rình rập xung quanh hắn, đã rất gần.. Hắn lạc trong dòng suy nghĩ miên man và đặt mình vào trong nỗi sợ hãi, ám ảnh to lớn...
Đúng lúc Chí Phèo đang yếu đuối, cần sự sẻ chia, chăm sóc như vậy thì Thị Nở bước vào cùng bát cháo hành trên tay. Những con chữ của tác giả đã lột tả chân xác sự ngạc nhiên và xúc động của nhân vật. Lời văn bán trực tiếp đã cho ta thấy tâm trạng chứa chan những cảm xúc hỗn độn của nhân vật: "...cả đời hắn chỉ quen thói giật cướp,.. chứ chưa được ai cho cái gì bao giờ...". Nếu không có bát cháo hành hôm ấy thì có lẽ hắn sẽ không một lần biết đến hương vị của tình thương, của sự quan tâm chăm sóc. Chúng ta làm sao quên được hình ảnh một Chí Phèo- mắt rưng rưng bưng bát cháo hành trên tay. Còn biết khóc, biết cảm đông trước tình người tức là vẫn còn tính người. và ngay lúc ấy, phần người trong hắn chợt bừng tỉnh và bật lên tiếng nói: "Trời ơi hắn thèm lương thiện!'. Hai chữ "lương thiện" quả thưc đã trả lại cho Chí lương tri một con người.
Dòng suy nghĩ miên man của Chí khi ấy tiếp tục dẫn người đọc đến với thế giới tâm hồn sâu thẳm của nhân vật. Hắn nghĩ, thị Nở không hề xấu thậm chí còn rất duyên, thị không dở hơi mà sẽ là người dẫn đường cho hắn bước vào thế giới bằng phẳng của những con người lương thiện...Những ước mơ nhỏ nhoi, thầm lặng khi xưa được đánh thức bởi hơi cháo hành bao trùm không gian. "Hắn nghĩ tới một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê, làm muớn, vợ dệt vải...". Dòng suy nghĩ của nhân vật báo hiệu cho người đọc về sự trở lại của Con Người Chí…
Khoảng thời gian năm ngày sau đó là quãng thời gian Chí được sống hoàn toàn với tư cách một con người. Với một sự sắp xếp khéo léo, ngòi bút Nam Cao đã cho người đọc thấy được một sự trùng hợp vô cùng đặc biệt. Thời gian Chí Phèo bắt đầu nhận thức để có thể trở lại là mình, bắt đầu một cuộc sống mới là vào buổi sáng đẹp trời; và cái ngày định mệnh, cái ngày kết thúc số phận bi kịch của hắn cũng là một buổi sáng. Hôm ấy, tâm trạng hắn nóng như lửa đốt bởi thấy thị Nở "đi đãu mãi chẳng về". Đúng lúc ấy, thị Nở bước vào..Đây chính là thời khắc mâu thuẫn được nâng lên mức đỉnh điểm. Thị trút xuống đầu Chí những lời lẽ cay nghiệt của bà cô thị: "...cái thằng không cha không mẹ, lại chỉ có cái nghề rạch mặt ăn vạ...". Thị nói một cách điềm nhiên, cứ như Chí Phèo là một người không quen biết, và cũng chưa từng có giữa thị và Chí những phút giây hạnh phúc...Chí Phèo sững người, ngơ ngác. Và trong một chốc, hắn hiểu ra tất cả...Hắn nhoài người kéo thị Nở lại nhưng không được. Cú ngã sóng soài là mâu thuẫn cuối cùng của truyện ngắn, là sự kết thúc cho những chịu đựng của hắn. Dòng suy nghĩ bị chặn lại...Hắn bưng mặt khóc....
Khoảng thời gian còn lại của buổi sáng hôm đó cũng là những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời Chí. Dòng suy nghĩ của hắn đã dừng lại, hắn quay về với những hành động của kiếp sống bản năng. Hắn uống rượu, rồi vác dao với ý định đi tìm thị Nở. Nhưng, dường như đã thành quy luật, những kẻ say và những thằng điên không bao giờ làm những việc mà chúng định làm khi tỉnh táo. Theo thói quen, Chí Phèo đi đến nhà Bá Kiến, giết chết tên cường hào độc ác, nguyên nhân chính cho những bi kịch của hắn hôm nay. Và cũng bằng con dao vấy máu đó, hắn tự kết liễu đời mình, kết thúc một số phận bi kịch...
Như vậy, bằng tài nghệ của mình, Nam Cao đã cho ra đời những trang viết miêu tả, phân tích tâm trạng chân thực và vô cùng sâu sắc. Qua những con chữ chắt lọc ấy, Nam Cao gửi gắm tấm lòng của mình đối với những người nông dân nghèo, ngày ngày bị đày đoạ bởi xã hội phong kiến với những định kiến chết người, những tên cường hào, địa chủ với quyền năng lớn lao, thứ sức mạnh có khả năng tha hoá con người...
Đoạn văn miêu tả và phân tích tâm trang nhân vật Chí Phèo từ buổi sáng gặp thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời quả là một đoạn văn đặc sắc, đã thâu tóm được những ý chính trong nội dung tác phẩm. Qua đoạn văn này, đằng sau một cuộc đời cay đắng, một số phận bi kịch, chúng ta còn thấy ẩn hiện đâu đó cái nhìn nhân đạo của Nam Cao, ông nhìn người nông dân với con mắt của tình thương để nhận ra những phẩm chất tốt đẹp của họ.