- 29 Tháng mười 2018
- 3,304
- 4,365
- 561
- TP Hồ Chí Minh
- THCS Nguyễn Hiền


1/.Có phải Ải Chi Lăng xuất hiện khoảng từ năm 722 tới năm 981?
Ải Chi Lăng là một hẻm núi trên con đường đầu tiên đi từ Trung Quốc qua Lạng Sơn vào Việt Nam.Vì vậy sự tồn tại của Ải Chi Lăng được coi là mốc thời gian việc Phương Bắc sử dụng bộ binh đánh phá Việt Nam.
Nay Ải Chi Lăng được xác định là hẻm núi phía Đông là dãy núi đất Bảo Đài_Thái Họa và phía Tây là núi đá Kai Kinh dựng đứng.Nó nằm trên con đường nay là quốc lộ 1A chạy ngoằn ngoèo dọc theo bờ sông Thương.
Ải Chi Lăng là phần cuối của đoạn đường núi này.Vượt qua được ải quân xâm lược dễ dàng chia thành nhiều toán theo nhiều hướng đánh xuống Thái Nguyên,Bắc Ninh,Bắc Giang,Chí Linh,Vĩnh Yên,Phúc Yên,Từ Sơn... tức là toàn bộ vùng phía Bắc sông Hồng.
2/.Di ấn lịch sử Ải Chi Lăng
"Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" do Quốc Sử Quán Triều Nguyễn biên soạn năm 1856_1881, viết:”Năm Nhâm Tuất 722. Tháng 7, mùa thu.Theo "Đường Thư", khoảng năm Khai Nguyên (713_741),An Nam có Mai Thúc Loan làm phản,tự xưng là Hắc đế,chiêu tập quân 32 châu,ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp,Chân Lạp và Kim Lân,giữ vùng biển Nam,quân số có đến 40 vạn.Tư Húc xin đi đánh,chiêu mộ 10 vạn quân,cùng với Quang Sở Khách tiến quân "theo đường cũ của Mã Viện",nhân lúc bất ý,sập đến đánh.Thúc Loan hoang mang nao núng, không kịp mưu tính cách đối phó,bị thua to.Tư Húc mới chôn những xác chết chung vào một nơi,đắp thành cái gò cao (Kình quán),để ghi chiến công của mình,rồi rút quân về.
"Đường cũ của Mã Viện": Theo sách Khâm Châu chí của Chu Xuân Niên, núi Ô Lội liên tiếp chạy ra biển lớn, (đứng đó) nhìn về phía tây thấy Hải Đông phủ thuộc Giao Chỉ. Mã Phục Ba khi vào An Nam đi theo đường này. Ở đấy có miếu thờ Mã Phục Ba.Theo sách Quận quốc lợi bệnh thư của Cố Viêm Vũ, triều Minh: từ Mã Phục Ba về sau,thủy quân (Trung Quốc) đều đi từ phía nam Khâm Châu (Qinzhou 钦州市) ra biển lớn,giương buồm đi một ngày tới trấn Triều Dương thuộc Giao Châu.Nơi đường cũ Mã Viện,tức là đường này.
=> Như vậy Mã Viện chỉ đi theo đường biển từ phía nam Khâm Châu tới Triều Dương thuộc Giao Châu và cho tới tận năm 722 đường qua Ải Chi Lăng vẫn chưa có.
_Tháng 3/981,thời vua Lê Đại Hành,nhà Tống sang xâm lược.Bấy giờ quân Tống chia đường sang xâm lấn: Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng kéo đến Lạng Sơn; Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến sông Bạch Đằng. Vua Lê Đại Hành sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch. Quan quân Tống đông lắm. Quan quân ta đánh bất lợi: hai trăm thuyền chiến đều bị địch lấy mất cả. Hầu Nhân Bảo đem tiền quân tiến lên trước. Tôn Toàn Hưng đóng quân lại, không đi; Nhân Bảo thường phải thúc giục. Khi quân Tống kéo đến sông Chi Lăng, nhà vua sai người trá hàng, dụ bắt được Nhân Bảo, đem chém. Bọn Lưu Trừng rút lui. Khâm Tộ nghe tin, trút quân quay về. Nhà vua lại đem các tướng truy kích: quân Khâm Tộ thua to, chết mất quá nửa. Bên ta bắt được bộ tướng của địch là bọn Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân, điệu về kinh đô. Chuyển vận sứ nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem tình hình thua trận tâu bày về triều, vua Tống xuống chiếu rút quân về.
Ghi chú
* Lạng Sơn: Xưa là bộ Lục Hải; đời Hán thuộc về Giao Chỉ; đời Đường thuộc về Giao Châu; Đinh chia làm Lạng Sơn đạo, lại gọi là Lạng Châu; Lê, Lý đặt làm lộ; Trần gọi là Lạng Giang lộ; Lê gọi là Lạng Sơn thừa tuyên. Bây giờ là tỉnh Lạng Sơn.
* Chi Lăng: Tên xã, thuộc châu Ôn, phủ Trường Khánh, ở đầu địa giới Lạng Sơn. Sông Chi Lăng: Con sông ở xã Chi Lăng.
_Năm 1077,Lý Thường Kiệt về Chi Lăng gặp Thân Cảnh Phúc bàn bạc việc binh. Với chiến tuyến Quyết Lý và Giáp Khẩu (dựng tại Chi Lăng), Thân Cảnh Phúc và quân dân xứ Lạng đã góp sức đánh tan quân xâm lược Tống lần thứ hai.
_Năm 1285, quân Nguyên qua Ải Chi Lăng đã bị quân nhà Trần chặn đánh kịch liệt và tướng Nguyên là Nghê Nhuận bị giết chết tại chỗ. Chính Hưng Ðạo Ðại vương Trần Quốc Tuấn đã thể hiện thiên tài quân sự của ông ở đây: bằng hố bẫy ngựa, phục binh của ta từ dưới hố dùng mã tấu phạt đứt chân ngựa, tách bọn Nguyên Mông thiện chiến ra khỏi ngựa mà tiêu diệt.
_Cuối năm 1427, Ải Chi Lăng trở thành nơi ghi công một trong những trận đánh nổi tiếng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam. Đạo quân chủ lực của nhà Minh do An Viễn hầu Liễu Thăng chỉ huy gồm gần 10 vạn người kéo sang để dẹp khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Lê Lợi đã phái Lê Sát dẫn các tướng lên đón đường, đặt quân mai phục. Tướng Trần Lựu giả cách thua vài trận để dụ Liễu Thăng lọt vào ổ phục kích tại núi Mã Yên. Quân Lam Sơn đổ ra chém chết Liễu Thăng khiến đạo quân cứu viện hùng hậu bị hoang mang, suy sụp, mất sức chiến đấu và tới đầu tháng 11 năm 1427 thì bị vây đánh, tiêu diệt bắt sống toàn bộ ở Xương Giang.
Theo Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Thành cổ tại Ải Chi Lăng do quân Minh đắp trong thời gian xâm lược Việt nam có chu vi 154 trượng và cao 5 thước, nay chỉ còn nền cũ. Ở gần cửa Nam của thành còn phiến đá khắc 5 chữ Hoàng tráng nhị thập đội (nơi trú đóng của đội quân Hoàng tráng thứ 20).
Như vậy Ải Chi Lăng phải có từ trước 981. Nhưng liệu Mã Viện đã biết đến đường tiến quân qua Ải Chi Lăng hay chưa?
Theo dõi toàn bộ những gì Sử Ký Tư Mã Thiên viết về cuộc chiến về phía Nam dãy Ngũ Lĩnh để tìm dấu vết liên hệ với Việt Nam ta, chúng ta thấy Sử Ký Tư Mã Thiên không đề cập tới cuộc chiến của Mã Viện đánh Hai Bà Trưng mà chỉ nói tới Lộ Bác Đức đánh hậu duệ Triệu Đà tại Phiên Ngung (Phiên Ngung 蕃隅 Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc), nhiều địa danh cổ có Sử Ký Tư Mã Thiên vẫn còn đến ngày nay và đều phù hợp về địa lý chúng ta thấy nước Âu Lạc chỉ liên quan đến khu vực Phiên Ngung tỉnh Quảng Đông Trung Quốc.
Để dễ theo dõi các chi tiết nhân vật Lộ Bác Đức diệt dòng họ nhà Triệu Đà chúng ta di ngược lại lịch sử tìm hiểu sự hình thành triều đại Triệu Đà.
3/.Sử Ký Tư Mã Thiên viết:
---- bắt đầu trích Sử Ký Tư Mã Thiên
"Năm thứ 33, Tần Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ."
---- hết đoạn trích Sử Ký Tư Mã Thiên.
Như vậy "Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải" là các quận do Tần Thủy Hoàng lập ra và ở phía nam dãy Ngũ Lĩnh.
---- bắt đầu trích Sử Ký Tư Mã Thiên
"Ngao liền làm chiếu giả cho Đà làm công việc của quan úy quận Nam Hải. Ngao chết, Đà lập tức truyền hịch bảo các cửa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàn Khê rằng: 'Quân giặc sắp đến, phải chặn ngay đường, tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ'.
Rồi dần dần ông dùng hình pháp giết các trưởng lại do nhà Tần đặt ra, dùng những người đồng đảng để thay thế. Khi nhà Tần đã bị tiêu diệt, Đà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương."
---- hết đoạn trích Sử Ký Tư Mã Thiên.
Như vậy Nam Việt của Triệu Đà bao gồm tất cả 3 quận "Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải" mà Tần Thủy Hoàng lập ra. Từ Việt Nam ta ngày nay qua Trung Quốc chỉ có 1 cửa quan Lạng Sơn đi qua Ải Chi Lăng, vậy 3 cửa quan "Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàn Khê" là các cửa đi qua dãy Ngũ Lĩnh mà Tần Thủy Hoàng cho làm để tiến đánh xuống "Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải" nay thuộc Quảng Đông Quảng Tây.
Để xác định rõ hơn vị trí nhà nước Nam Việt của Triệu Đà chúng ta theo dõi tiếp Sử Ký Tư Mã Thiên. Thời đại của Tần Thủy Hoàng đặc trưng là sự lên ngôi của thời đại đồ sắt. Không có sắt chẳng những không chế được ra vũ khí mà còn không làm được trục xe kéo và nhiều dụng cụ lao động khác khiến cho nền kinh tế không phát triển. Như vậy sắt là yếu tố sông còn. Khi ấy sắt mỏ và công nghệ luyện kim sắt xuất hiện ở vùng phía Bắc dãy Ngũ Lĩnh, nơi phát tích nhà Tần và nhà Hán.
---- bắt đầu trích Sử Ký Tư Mã Thiên
Nam Việt giáp giới với quận Trường Sa. Thời Cao Hậu, quan đương sự xin cấm không cho người Nam Việt vào mua đồ sắt.
Đà nói:
- Cao Đế lập ta làm vương, cho sứ giả cùng hàng hóa được đi lại. Nay Cao Hậu (Hán Cao Tổ 256TCN đến 195TCN) nghe lời bọn bầy tôi gièm pha, cách biệt man di, cấm đứt khí vật,. Đó chắc là mưu kế của Trường Sa Vương. Ông ta muốn tìm cách dựa vào Trung Quốc, tiêu diệt Nam Việt để làm vua cả đất của ta.
Đà bèn tự tôn là "Nam Việt Vũ Đế", đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa, đánh bại mấy huyện rồi đi.
Cao Hậu sai tướng quân Lâm Hi Hầu tên là Táo đến đánh. Gặp lúc trời nắng khí ẩm, quân lính bị bệnh dịch rất nhiều, nên quân Hán không qua được núi Dương Sơn. Được hơn một năm, Cao Hậu mất, liền bãi binh.
Đà nhân đó dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn dặm. Đà bèn đi xe mui lụa mầu vàng cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là "chế", chẳng kém gì Trung Quốc.
---- hết đoạn trích Sử Ký Tư Mã Thiên.
Như thế quận Hoàng Sa là nằm ở giáp với dãy Ngũ Lĩnh và phải đi qua Dương Sơn mới tới được Nam Việt của Triệu Đà. Vậy Nam Việt của Triệu Đà là sát với phía Nam dãy Ngũ Lĩnh. Sau sự kiện đòi mua sắt thì Triệu Đà đã uy hiếp và vào năm 195TCN, năm Hán Cao Tổ chết, đã thu phục được Mân Việt, Tây Âu Lạc .
Theo dõi đoạn trích Sử Ký sau chúng ta sẽ thấy Mân Việt ở về phía Đông và Âu Lạc ở về phía Tây là hai quốc gia ở hai phía của "Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải" là đất của Triệu Đà. Và sau đó Triệu Đà đã uy hiếp mà thu phục được.
---- bắt đầu trích Sử Ký Tư Mã Thiên
"Thần tên là Đà, là một kẻ già ở man di. Ngày trước Cao Hậu gạt bỏ Nam Việt, thần trộm ngờ Trường Sa Vương đã gièm pha thần. Lại nghe đồn Cao Hậu giết hết họ hàng Đà, đào mồ mả, đốt hài cốt cha ông Đà. Vì thế nên liều mạng xâm phạm biên cảnh quận Trường Sa. Vả lại phương Nam đất thấp, ẩm, dân man di ở vào giữa. Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là "vương", ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là "vương". Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu "đế" chỉ để tự vui, chứ đâu dám để nói đến tai bệ hạ?".
---- hết đoạn trích Sử Ký Tư Mã Thiên.
Để xác định chính xác vị trí Nam Việt của Triệu Đà chúng ta theo dõi
---- bắt đầu trích Sử Ký Tư Mã Thiên
Năm thứ năm niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 112 trước Công nguyên), mùa thu, vệ úy là Lộ Bác Đức đem quân từ quận Quế Dương (桂阳县) xuống đường sông Hối Thủy, chủ tước đô úy là Dương Bộc làm Lâu thuyền tướng quân đem quân từ quận Dự Chương xuống đường Hoành Phố,Quy Nghĩa. Kiệt Hầu là người Việt trước đã hàng làm qua thuyền,Hạ Lê tướng quân, đem quân từ huyện Linh Lăng (零陵区) xuống đường sông Ly Thủy (Lijiang River 漓江) hoặc đế quân Thương Ngô,sai Trì Nghĩa Hầu, đem thêm tội nhân nước Ba Thục (Ba Thục 巴蜀, còn gọi Tứ Xuyên),đưa quân từ đất Dạ Lang xuống đường sông Tường Kha.Các quân ấy đều gặp nhau ở Phiên Ngung (Phiên Ngung 蕃隅 Quảng Châu,tỉnh Quảng Đông,Trung Quốc).
Năm thứ sáu niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 111 TCN),mùa đông,Lâu Thuyền tướng quân đem quân tinh nhuệ đến trước đánh hãm Tâm Hiệp, phá được Thạch Môn, lấy được thuyền thóc của người Việt. Nhân đấy, ông ta tiến lên, đánh gãy quân tiên phong của Việt, và đem vài vạn người đợi Lộ Bác Đức.Lộ Bác Đức đem theo tội nhân (từ Ba Thục nay là Tứ Xuyên),đi đường xa đến sau kỳ hội.Lộ Bác Đức cùng quân của Lâu thuyền họp lại mới có được hơn nghìn người, bèn cùng tiến. Quân của Lâu Thuyền đi trước đến Phiên Ngung 蕃隅, Kiến Đức cùng Lữ Gia đều giữ thành. Lâu Thuyền tự chọn nơi tiện lợi đóng ở mặt Đông Nam,Lộ Bác Đức đóng ở mặt Tây Bắc.Gặp lúc chiều tối, Lâu Thuyền đánh bại người Việt, tung lửa đốt thành.Người Việt vẫn nghe biết tiếng Lộ Bác Đức, nhưng trời tối quân không biết số quân nhiều ít thế nào. Lộ Bác Đức bèn lập doanh trại, sai sứ chiêu hàng, cho họ lấy ấn quan, lại thả cho về để chiêu dụ nhau.Lâu Thuyền ra sức đánh và đốt,quân địch lại chạy vào trong trại của Lộ Bác Đức. Đến mờ sáng, người trong thành đều hàng Lộ Bác Đức.Lữ Gia và Kiến Đức từ đêm đã cùng gia thuộc vài trăm người,chạy trốn ra biển, lấy thuyền đi về phía Tây.
Lộ Bác Đức nhân tiện hỏi những người chức vị cao đã hàng để biết lối Lữ Gia chạy và cho người đuổi theo.Hiệu úy Tư Mã Tô Hoàng là người Việt hàng Hán bắt được Kiến Đức, được phong làm Hải Thường Hầu, quan lang người Việt là Đô Kê bắt được Lữ Gia,được phong làm Lâm Thái Hầu.Thương Ngô Vương là Triệu Quang là người cùng họ với Việt Vương, nghe quân nhà Hán đến,cùng quan huyện lệnh Kê Dương của Việt tên là Định tự quyết định đi theo nhà Hán,quan giám quận Quế Lâm của Việt tên là Cư Ông dụ dân Âu Lạc đi theo nhà Hán. Những người này đều được phong tước hầu.
---- kết thúc trích
Như thế về phía Nam dãy Ngũ Lĩnh,lấy sông Ly Thủy (Lijiang River 漓江) làm chuẩn chúng ta xác định được các địa danh cổ Phiên Ngung,Ba Thục,Linh Lăng.Đến nay các địa danh này vẫn còn. Dòng sông Li Giang chảy đúng về hướng chiến sự.Sự kiện Lộ Bác Đức tiêu diệt họ tộc của Triệu Đà được Sử Ký Tư Mã Thiên miêu tả chi tiết và kết thúc tại khu vực Phiên Ngung 蕃隅 Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông,Trung Quốc.Từ Phiên Ngung tới Ải Chi Lăng xa 750km,núi cao rừng rậm, không có đường để tiến quân.
Sử Ký Tư Mã Thiên là chính sử được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN.Như thế nó phản ánh tương dối chính xác các sự kiện thời Triệu Đà và Mã Viện.Việc tiến đánh một quốc gia như Việt Nam chúng ta ngay nay chắc chắn không phải là một sự kiện nhỏ.Cho tới năm 111 trước Công Nguyên trong Sử Ký Tư Mã Thiên không để lại bất kể dấu vết nào khẳng định Âu Lạc liên quan Việt Nam ta ngày nay và cũng không một dấu vết nào cho thấy Triệu Đà đã từng tiến đánh Việt Nam ta.
Cổ sử Việt Nam dựa trên Hậu Hán Thư đã ghi nhận triều đại Hai Bà Trưng và cuộc chiến Mã Viện tiến đánh Việt Nam.Tuy nhiên đường tiến quân của Mã Viện thế nào?
Hoàn vũ ký tức là sách Thái-bình hoàn vũ ký gồm có 193 quyển,do Nhạc Sử đời Tống soạn, là bộ sách địa lý xưa. Sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn (1726_1784) dẫn sách Hoàn Vũ Ký của Trung Quốc cho biết Quỷ Môn Quan nằm ở phía Nam huyện Bắc Lưu (Bắc Lưu thuộc châu Uất Lâm tỉnh Quảng Tây Trung Quốc), cách huyện lỵ Bắc Lưu khoảng 30 dặm. Tại cửa quan này có hai khối núi đối nhau và ở giữa có độ rộng 30 bước, tục gọi Quỷ Môn Quan.Mã Viện đánh Việt Nam (Tháng 1 âm lịch năm 42) qua đấy dựng bia và tạc rùa đá. Đời nhà Tấn (265_420) binh lính Trung Hoa qua đó bị giết nhiều nên có câu:
“Quỷ Môn Quan,Quỷ Môn Quan!
Thập nhân khứ,nhất nhân hoàn”
Dịch nghĩa
“Cửa Quỷ môn,
Mười người đi,chín chẳng về”
Lê Quý Đôn lập luận "Nay xét huyện Bắc Lưu gần châu Tân An thuộc tỉnh An Quảng của nước ta,cửa Quỷ Môn phải ở chỗ này. Nay tục truyền nói cửa Quỷ Môn ở xã Binh Lang thuộc châu Ôn,tỉnh Lạng Sơn là sai. Sách Sử Ký chép 'Phục Ba tướng quân (Mã Viện) đi ven biển mà tiến,noi theo núi mà đốn cây đi hơn ngàn dặm mà dấu chân cũng chưa đặt đến Lạng Sơn'".
Như vậy chúng ta có thể hiểu là Quỷ Môn Quan không phải là Ải Chi Lăng và ở một nơi khá xa biên giới Việt Nam ta hiện nay.Đó là một địa danh xưa thuộc tỉnh An Quảng của "Nước Ta" theo như chú dẫn địa danh của Lê Quý Đôn (1726_1784),nhưng vào một thời điểm nào đấy nó đã bị thuộc vào Trung Quốc, và rằng con đường Mã Viện tiến quân là đi ven biển.Đó có thể chính là con đường ven biển phía bắc vịnh Hạ Long thuộc khu vực vịnh Qinzhou Khâm Châu, và sau khi vượt qua Quỷ Môn Quan thì rất có thể Mã Viện đã đi vào Việt Nam qua Ải Chi Lăng.Vậy phải chăng đường qua Ải Chi Lăng đã được hình thành vào thời kỳ đầu Công Nguyên?. Tuy nhiên chưa tìm thấy trong Sử Ký tư Mã Thiên dòng chữ nào nói về Mã Viện!
Quốc Sử Quán Triều Nguyễn viết vào năm 1856_1881, như vậy hẳn đã có biết Sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn (1726_1784). "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" nói rõ đường tiến quân của Mã Viện là đường biển đi trong 1 ngày, như thế có lẽ vào thời Mã Viện chưa có đường qua Ải Chi Lăng.
4/.Kết luận
"Ải Chi Lăng xuất hiện khoảng từ năm 722 tới năm 981".
Hậu Hán Thư viết
Tân Sửu,41.Mùa xuân,tháng 2,ngày 30,nhật thực. Nhà Hán thấy họ Trưng xưng vương, dấy quân đánh lấy các thành ấp, các quận biên thùy bị khổ, mới hạ lệnh cho Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu ta sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó sang xâm lược.
Nhâm Dần,năm 42.Mùa xuân, tháng giêng, Mã Viện theo ven biển mà tiến,san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành,gọi là Lãng Bạc) đánh nhau với Hai Bà Trưng.Hai Bà Trưng thấy thế giặc mạnh,tự nghĩ quân mình ô hợp,sợ không chống nổi,lui quân về giữ Cấm Khê (Cấm Khê, sử chép là Kim Khê).
"Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục"
"Vân Đài Loại Ngữ" của Lê Quý Đôn.
Nguồn: Võ Văn Trường
Ải Chi Lăng là một hẻm núi trên con đường đầu tiên đi từ Trung Quốc qua Lạng Sơn vào Việt Nam.Vì vậy sự tồn tại của Ải Chi Lăng được coi là mốc thời gian việc Phương Bắc sử dụng bộ binh đánh phá Việt Nam.
Nay Ải Chi Lăng được xác định là hẻm núi phía Đông là dãy núi đất Bảo Đài_Thái Họa và phía Tây là núi đá Kai Kinh dựng đứng.Nó nằm trên con đường nay là quốc lộ 1A chạy ngoằn ngoèo dọc theo bờ sông Thương.
Ải Chi Lăng là phần cuối của đoạn đường núi này.Vượt qua được ải quân xâm lược dễ dàng chia thành nhiều toán theo nhiều hướng đánh xuống Thái Nguyên,Bắc Ninh,Bắc Giang,Chí Linh,Vĩnh Yên,Phúc Yên,Từ Sơn... tức là toàn bộ vùng phía Bắc sông Hồng.
2/.Di ấn lịch sử Ải Chi Lăng
"Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" do Quốc Sử Quán Triều Nguyễn biên soạn năm 1856_1881, viết:”Năm Nhâm Tuất 722. Tháng 7, mùa thu.Theo "Đường Thư", khoảng năm Khai Nguyên (713_741),An Nam có Mai Thúc Loan làm phản,tự xưng là Hắc đế,chiêu tập quân 32 châu,ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp,Chân Lạp và Kim Lân,giữ vùng biển Nam,quân số có đến 40 vạn.Tư Húc xin đi đánh,chiêu mộ 10 vạn quân,cùng với Quang Sở Khách tiến quân "theo đường cũ của Mã Viện",nhân lúc bất ý,sập đến đánh.Thúc Loan hoang mang nao núng, không kịp mưu tính cách đối phó,bị thua to.Tư Húc mới chôn những xác chết chung vào một nơi,đắp thành cái gò cao (Kình quán),để ghi chiến công của mình,rồi rút quân về.
"Đường cũ của Mã Viện": Theo sách Khâm Châu chí của Chu Xuân Niên, núi Ô Lội liên tiếp chạy ra biển lớn, (đứng đó) nhìn về phía tây thấy Hải Đông phủ thuộc Giao Chỉ. Mã Phục Ba khi vào An Nam đi theo đường này. Ở đấy có miếu thờ Mã Phục Ba.Theo sách Quận quốc lợi bệnh thư của Cố Viêm Vũ, triều Minh: từ Mã Phục Ba về sau,thủy quân (Trung Quốc) đều đi từ phía nam Khâm Châu (Qinzhou 钦州市) ra biển lớn,giương buồm đi một ngày tới trấn Triều Dương thuộc Giao Châu.Nơi đường cũ Mã Viện,tức là đường này.
=> Như vậy Mã Viện chỉ đi theo đường biển từ phía nam Khâm Châu tới Triều Dương thuộc Giao Châu và cho tới tận năm 722 đường qua Ải Chi Lăng vẫn chưa có.
_Tháng 3/981,thời vua Lê Đại Hành,nhà Tống sang xâm lược.Bấy giờ quân Tống chia đường sang xâm lấn: Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng kéo đến Lạng Sơn; Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến sông Bạch Đằng. Vua Lê Đại Hành sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch. Quan quân Tống đông lắm. Quan quân ta đánh bất lợi: hai trăm thuyền chiến đều bị địch lấy mất cả. Hầu Nhân Bảo đem tiền quân tiến lên trước. Tôn Toàn Hưng đóng quân lại, không đi; Nhân Bảo thường phải thúc giục. Khi quân Tống kéo đến sông Chi Lăng, nhà vua sai người trá hàng, dụ bắt được Nhân Bảo, đem chém. Bọn Lưu Trừng rút lui. Khâm Tộ nghe tin, trút quân quay về. Nhà vua lại đem các tướng truy kích: quân Khâm Tộ thua to, chết mất quá nửa. Bên ta bắt được bộ tướng của địch là bọn Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân, điệu về kinh đô. Chuyển vận sứ nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem tình hình thua trận tâu bày về triều, vua Tống xuống chiếu rút quân về.
Ghi chú
* Lạng Sơn: Xưa là bộ Lục Hải; đời Hán thuộc về Giao Chỉ; đời Đường thuộc về Giao Châu; Đinh chia làm Lạng Sơn đạo, lại gọi là Lạng Châu; Lê, Lý đặt làm lộ; Trần gọi là Lạng Giang lộ; Lê gọi là Lạng Sơn thừa tuyên. Bây giờ là tỉnh Lạng Sơn.
* Chi Lăng: Tên xã, thuộc châu Ôn, phủ Trường Khánh, ở đầu địa giới Lạng Sơn. Sông Chi Lăng: Con sông ở xã Chi Lăng.
_Năm 1077,Lý Thường Kiệt về Chi Lăng gặp Thân Cảnh Phúc bàn bạc việc binh. Với chiến tuyến Quyết Lý và Giáp Khẩu (dựng tại Chi Lăng), Thân Cảnh Phúc và quân dân xứ Lạng đã góp sức đánh tan quân xâm lược Tống lần thứ hai.
_Năm 1285, quân Nguyên qua Ải Chi Lăng đã bị quân nhà Trần chặn đánh kịch liệt và tướng Nguyên là Nghê Nhuận bị giết chết tại chỗ. Chính Hưng Ðạo Ðại vương Trần Quốc Tuấn đã thể hiện thiên tài quân sự của ông ở đây: bằng hố bẫy ngựa, phục binh của ta từ dưới hố dùng mã tấu phạt đứt chân ngựa, tách bọn Nguyên Mông thiện chiến ra khỏi ngựa mà tiêu diệt.
_Cuối năm 1427, Ải Chi Lăng trở thành nơi ghi công một trong những trận đánh nổi tiếng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam. Đạo quân chủ lực của nhà Minh do An Viễn hầu Liễu Thăng chỉ huy gồm gần 10 vạn người kéo sang để dẹp khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Lê Lợi đã phái Lê Sát dẫn các tướng lên đón đường, đặt quân mai phục. Tướng Trần Lựu giả cách thua vài trận để dụ Liễu Thăng lọt vào ổ phục kích tại núi Mã Yên. Quân Lam Sơn đổ ra chém chết Liễu Thăng khiến đạo quân cứu viện hùng hậu bị hoang mang, suy sụp, mất sức chiến đấu và tới đầu tháng 11 năm 1427 thì bị vây đánh, tiêu diệt bắt sống toàn bộ ở Xương Giang.
Theo Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Thành cổ tại Ải Chi Lăng do quân Minh đắp trong thời gian xâm lược Việt nam có chu vi 154 trượng và cao 5 thước, nay chỉ còn nền cũ. Ở gần cửa Nam của thành còn phiến đá khắc 5 chữ Hoàng tráng nhị thập đội (nơi trú đóng của đội quân Hoàng tráng thứ 20).
Như vậy Ải Chi Lăng phải có từ trước 981. Nhưng liệu Mã Viện đã biết đến đường tiến quân qua Ải Chi Lăng hay chưa?
Theo dõi toàn bộ những gì Sử Ký Tư Mã Thiên viết về cuộc chiến về phía Nam dãy Ngũ Lĩnh để tìm dấu vết liên hệ với Việt Nam ta, chúng ta thấy Sử Ký Tư Mã Thiên không đề cập tới cuộc chiến của Mã Viện đánh Hai Bà Trưng mà chỉ nói tới Lộ Bác Đức đánh hậu duệ Triệu Đà tại Phiên Ngung (Phiên Ngung 蕃隅 Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc), nhiều địa danh cổ có Sử Ký Tư Mã Thiên vẫn còn đến ngày nay và đều phù hợp về địa lý chúng ta thấy nước Âu Lạc chỉ liên quan đến khu vực Phiên Ngung tỉnh Quảng Đông Trung Quốc.
Để dễ theo dõi các chi tiết nhân vật Lộ Bác Đức diệt dòng họ nhà Triệu Đà chúng ta di ngược lại lịch sử tìm hiểu sự hình thành triều đại Triệu Đà.
3/.Sử Ký Tư Mã Thiên viết:
---- bắt đầu trích Sử Ký Tư Mã Thiên
"Năm thứ 33, Tần Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ."
---- hết đoạn trích Sử Ký Tư Mã Thiên.
Như vậy "Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải" là các quận do Tần Thủy Hoàng lập ra và ở phía nam dãy Ngũ Lĩnh.
---- bắt đầu trích Sử Ký Tư Mã Thiên
"Ngao liền làm chiếu giả cho Đà làm công việc của quan úy quận Nam Hải. Ngao chết, Đà lập tức truyền hịch bảo các cửa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàn Khê rằng: 'Quân giặc sắp đến, phải chặn ngay đường, tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ'.
Rồi dần dần ông dùng hình pháp giết các trưởng lại do nhà Tần đặt ra, dùng những người đồng đảng để thay thế. Khi nhà Tần đã bị tiêu diệt, Đà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương."
---- hết đoạn trích Sử Ký Tư Mã Thiên.
Như vậy Nam Việt của Triệu Đà bao gồm tất cả 3 quận "Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải" mà Tần Thủy Hoàng lập ra. Từ Việt Nam ta ngày nay qua Trung Quốc chỉ có 1 cửa quan Lạng Sơn đi qua Ải Chi Lăng, vậy 3 cửa quan "Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàn Khê" là các cửa đi qua dãy Ngũ Lĩnh mà Tần Thủy Hoàng cho làm để tiến đánh xuống "Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải" nay thuộc Quảng Đông Quảng Tây.
Để xác định rõ hơn vị trí nhà nước Nam Việt của Triệu Đà chúng ta theo dõi tiếp Sử Ký Tư Mã Thiên. Thời đại của Tần Thủy Hoàng đặc trưng là sự lên ngôi của thời đại đồ sắt. Không có sắt chẳng những không chế được ra vũ khí mà còn không làm được trục xe kéo và nhiều dụng cụ lao động khác khiến cho nền kinh tế không phát triển. Như vậy sắt là yếu tố sông còn. Khi ấy sắt mỏ và công nghệ luyện kim sắt xuất hiện ở vùng phía Bắc dãy Ngũ Lĩnh, nơi phát tích nhà Tần và nhà Hán.
---- bắt đầu trích Sử Ký Tư Mã Thiên
Nam Việt giáp giới với quận Trường Sa. Thời Cao Hậu, quan đương sự xin cấm không cho người Nam Việt vào mua đồ sắt.
Đà nói:
- Cao Đế lập ta làm vương, cho sứ giả cùng hàng hóa được đi lại. Nay Cao Hậu (Hán Cao Tổ 256TCN đến 195TCN) nghe lời bọn bầy tôi gièm pha, cách biệt man di, cấm đứt khí vật,. Đó chắc là mưu kế của Trường Sa Vương. Ông ta muốn tìm cách dựa vào Trung Quốc, tiêu diệt Nam Việt để làm vua cả đất của ta.
Đà bèn tự tôn là "Nam Việt Vũ Đế", đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa, đánh bại mấy huyện rồi đi.
Cao Hậu sai tướng quân Lâm Hi Hầu tên là Táo đến đánh. Gặp lúc trời nắng khí ẩm, quân lính bị bệnh dịch rất nhiều, nên quân Hán không qua được núi Dương Sơn. Được hơn một năm, Cao Hậu mất, liền bãi binh.
Đà nhân đó dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn dặm. Đà bèn đi xe mui lụa mầu vàng cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là "chế", chẳng kém gì Trung Quốc.
---- hết đoạn trích Sử Ký Tư Mã Thiên.
Như thế quận Hoàng Sa là nằm ở giáp với dãy Ngũ Lĩnh và phải đi qua Dương Sơn mới tới được Nam Việt của Triệu Đà. Vậy Nam Việt của Triệu Đà là sát với phía Nam dãy Ngũ Lĩnh. Sau sự kiện đòi mua sắt thì Triệu Đà đã uy hiếp và vào năm 195TCN, năm Hán Cao Tổ chết, đã thu phục được Mân Việt, Tây Âu Lạc .
Theo dõi đoạn trích Sử Ký sau chúng ta sẽ thấy Mân Việt ở về phía Đông và Âu Lạc ở về phía Tây là hai quốc gia ở hai phía của "Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải" là đất của Triệu Đà. Và sau đó Triệu Đà đã uy hiếp mà thu phục được.
---- bắt đầu trích Sử Ký Tư Mã Thiên
"Thần tên là Đà, là một kẻ già ở man di. Ngày trước Cao Hậu gạt bỏ Nam Việt, thần trộm ngờ Trường Sa Vương đã gièm pha thần. Lại nghe đồn Cao Hậu giết hết họ hàng Đà, đào mồ mả, đốt hài cốt cha ông Đà. Vì thế nên liều mạng xâm phạm biên cảnh quận Trường Sa. Vả lại phương Nam đất thấp, ẩm, dân man di ở vào giữa. Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là "vương", ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là "vương". Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu "đế" chỉ để tự vui, chứ đâu dám để nói đến tai bệ hạ?".
---- hết đoạn trích Sử Ký Tư Mã Thiên.
Để xác định chính xác vị trí Nam Việt của Triệu Đà chúng ta theo dõi
---- bắt đầu trích Sử Ký Tư Mã Thiên
Năm thứ năm niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 112 trước Công nguyên), mùa thu, vệ úy là Lộ Bác Đức đem quân từ quận Quế Dương (桂阳县) xuống đường sông Hối Thủy, chủ tước đô úy là Dương Bộc làm Lâu thuyền tướng quân đem quân từ quận Dự Chương xuống đường Hoành Phố,Quy Nghĩa. Kiệt Hầu là người Việt trước đã hàng làm qua thuyền,Hạ Lê tướng quân, đem quân từ huyện Linh Lăng (零陵区) xuống đường sông Ly Thủy (Lijiang River 漓江) hoặc đế quân Thương Ngô,sai Trì Nghĩa Hầu, đem thêm tội nhân nước Ba Thục (Ba Thục 巴蜀, còn gọi Tứ Xuyên),đưa quân từ đất Dạ Lang xuống đường sông Tường Kha.Các quân ấy đều gặp nhau ở Phiên Ngung (Phiên Ngung 蕃隅 Quảng Châu,tỉnh Quảng Đông,Trung Quốc).
Năm thứ sáu niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 111 TCN),mùa đông,Lâu Thuyền tướng quân đem quân tinh nhuệ đến trước đánh hãm Tâm Hiệp, phá được Thạch Môn, lấy được thuyền thóc của người Việt. Nhân đấy, ông ta tiến lên, đánh gãy quân tiên phong của Việt, và đem vài vạn người đợi Lộ Bác Đức.Lộ Bác Đức đem theo tội nhân (từ Ba Thục nay là Tứ Xuyên),đi đường xa đến sau kỳ hội.Lộ Bác Đức cùng quân của Lâu thuyền họp lại mới có được hơn nghìn người, bèn cùng tiến. Quân của Lâu Thuyền đi trước đến Phiên Ngung 蕃隅, Kiến Đức cùng Lữ Gia đều giữ thành. Lâu Thuyền tự chọn nơi tiện lợi đóng ở mặt Đông Nam,Lộ Bác Đức đóng ở mặt Tây Bắc.Gặp lúc chiều tối, Lâu Thuyền đánh bại người Việt, tung lửa đốt thành.Người Việt vẫn nghe biết tiếng Lộ Bác Đức, nhưng trời tối quân không biết số quân nhiều ít thế nào. Lộ Bác Đức bèn lập doanh trại, sai sứ chiêu hàng, cho họ lấy ấn quan, lại thả cho về để chiêu dụ nhau.Lâu Thuyền ra sức đánh và đốt,quân địch lại chạy vào trong trại của Lộ Bác Đức. Đến mờ sáng, người trong thành đều hàng Lộ Bác Đức.Lữ Gia và Kiến Đức từ đêm đã cùng gia thuộc vài trăm người,chạy trốn ra biển, lấy thuyền đi về phía Tây.
Lộ Bác Đức nhân tiện hỏi những người chức vị cao đã hàng để biết lối Lữ Gia chạy và cho người đuổi theo.Hiệu úy Tư Mã Tô Hoàng là người Việt hàng Hán bắt được Kiến Đức, được phong làm Hải Thường Hầu, quan lang người Việt là Đô Kê bắt được Lữ Gia,được phong làm Lâm Thái Hầu.Thương Ngô Vương là Triệu Quang là người cùng họ với Việt Vương, nghe quân nhà Hán đến,cùng quan huyện lệnh Kê Dương của Việt tên là Định tự quyết định đi theo nhà Hán,quan giám quận Quế Lâm của Việt tên là Cư Ông dụ dân Âu Lạc đi theo nhà Hán. Những người này đều được phong tước hầu.
---- kết thúc trích
Như thế về phía Nam dãy Ngũ Lĩnh,lấy sông Ly Thủy (Lijiang River 漓江) làm chuẩn chúng ta xác định được các địa danh cổ Phiên Ngung,Ba Thục,Linh Lăng.Đến nay các địa danh này vẫn còn. Dòng sông Li Giang chảy đúng về hướng chiến sự.Sự kiện Lộ Bác Đức tiêu diệt họ tộc của Triệu Đà được Sử Ký Tư Mã Thiên miêu tả chi tiết và kết thúc tại khu vực Phiên Ngung 蕃隅 Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông,Trung Quốc.Từ Phiên Ngung tới Ải Chi Lăng xa 750km,núi cao rừng rậm, không có đường để tiến quân.
Sử Ký Tư Mã Thiên là chính sử được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN.Như thế nó phản ánh tương dối chính xác các sự kiện thời Triệu Đà và Mã Viện.Việc tiến đánh một quốc gia như Việt Nam chúng ta ngay nay chắc chắn không phải là một sự kiện nhỏ.Cho tới năm 111 trước Công Nguyên trong Sử Ký Tư Mã Thiên không để lại bất kể dấu vết nào khẳng định Âu Lạc liên quan Việt Nam ta ngày nay và cũng không một dấu vết nào cho thấy Triệu Đà đã từng tiến đánh Việt Nam ta.
Cổ sử Việt Nam dựa trên Hậu Hán Thư đã ghi nhận triều đại Hai Bà Trưng và cuộc chiến Mã Viện tiến đánh Việt Nam.Tuy nhiên đường tiến quân của Mã Viện thế nào?
Hoàn vũ ký tức là sách Thái-bình hoàn vũ ký gồm có 193 quyển,do Nhạc Sử đời Tống soạn, là bộ sách địa lý xưa. Sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn (1726_1784) dẫn sách Hoàn Vũ Ký của Trung Quốc cho biết Quỷ Môn Quan nằm ở phía Nam huyện Bắc Lưu (Bắc Lưu thuộc châu Uất Lâm tỉnh Quảng Tây Trung Quốc), cách huyện lỵ Bắc Lưu khoảng 30 dặm. Tại cửa quan này có hai khối núi đối nhau và ở giữa có độ rộng 30 bước, tục gọi Quỷ Môn Quan.Mã Viện đánh Việt Nam (Tháng 1 âm lịch năm 42) qua đấy dựng bia và tạc rùa đá. Đời nhà Tấn (265_420) binh lính Trung Hoa qua đó bị giết nhiều nên có câu:
“Quỷ Môn Quan,Quỷ Môn Quan!
Thập nhân khứ,nhất nhân hoàn”
Dịch nghĩa
“Cửa Quỷ môn,
Mười người đi,chín chẳng về”
Lê Quý Đôn lập luận "Nay xét huyện Bắc Lưu gần châu Tân An thuộc tỉnh An Quảng của nước ta,cửa Quỷ Môn phải ở chỗ này. Nay tục truyền nói cửa Quỷ Môn ở xã Binh Lang thuộc châu Ôn,tỉnh Lạng Sơn là sai. Sách Sử Ký chép 'Phục Ba tướng quân (Mã Viện) đi ven biển mà tiến,noi theo núi mà đốn cây đi hơn ngàn dặm mà dấu chân cũng chưa đặt đến Lạng Sơn'".
Như vậy chúng ta có thể hiểu là Quỷ Môn Quan không phải là Ải Chi Lăng và ở một nơi khá xa biên giới Việt Nam ta hiện nay.Đó là một địa danh xưa thuộc tỉnh An Quảng của "Nước Ta" theo như chú dẫn địa danh của Lê Quý Đôn (1726_1784),nhưng vào một thời điểm nào đấy nó đã bị thuộc vào Trung Quốc, và rằng con đường Mã Viện tiến quân là đi ven biển.Đó có thể chính là con đường ven biển phía bắc vịnh Hạ Long thuộc khu vực vịnh Qinzhou Khâm Châu, và sau khi vượt qua Quỷ Môn Quan thì rất có thể Mã Viện đã đi vào Việt Nam qua Ải Chi Lăng.Vậy phải chăng đường qua Ải Chi Lăng đã được hình thành vào thời kỳ đầu Công Nguyên?. Tuy nhiên chưa tìm thấy trong Sử Ký tư Mã Thiên dòng chữ nào nói về Mã Viện!
Quốc Sử Quán Triều Nguyễn viết vào năm 1856_1881, như vậy hẳn đã có biết Sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn (1726_1784). "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" nói rõ đường tiến quân của Mã Viện là đường biển đi trong 1 ngày, như thế có lẽ vào thời Mã Viện chưa có đường qua Ải Chi Lăng.
4/.Kết luận
"Ải Chi Lăng xuất hiện khoảng từ năm 722 tới năm 981".
Hậu Hán Thư viết
Tân Sửu,41.Mùa xuân,tháng 2,ngày 30,nhật thực. Nhà Hán thấy họ Trưng xưng vương, dấy quân đánh lấy các thành ấp, các quận biên thùy bị khổ, mới hạ lệnh cho Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu ta sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó sang xâm lược.
Nhâm Dần,năm 42.Mùa xuân, tháng giêng, Mã Viện theo ven biển mà tiến,san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành,gọi là Lãng Bạc) đánh nhau với Hai Bà Trưng.Hai Bà Trưng thấy thế giặc mạnh,tự nghĩ quân mình ô hợp,sợ không chống nổi,lui quân về giữ Cấm Khê (Cấm Khê, sử chép là Kim Khê).
"Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục"
"Vân Đài Loại Ngữ" của Lê Quý Đôn.

Nguồn: Võ Văn Trường