haiquynh.710
Lượt Thích
1

Tham gia ngày
Được nhìn thấy lần cuối

Tường Hoạt động mới Bài viết Giới thiệu

  • Ta nghĩ gì khi đọc thấy trên vách của điện Thái Hoà, nơi trang trọng nhất trong cung đình triều Nguyễn bài thơ khắc trên gỗ với những vần thơ đầy khí phách và niềm tự tôn dân tộc của vị vua khai sáng triều Nguyễn :

    “Văn hiến thiên niên quốc/ Xa thư vạn lý đồ/ Hồng Bàng khai tịch hậu/ Nam phục nhất Đường ngu”.

    Tạm dịch :“Nước ngàn năm văn hiến / Vạn dặm một sơn hà/ Từ Hồng Bàng mở nước / Thịnh trị nước Nam ta”.
    Một ông vua Tự Đức, người trực tiếp tổ chức đánh Pháp rồi cũng lại là người chịu trách nhiệm về sai lầm để mất đất, bất lực để mất nước, ngay khi còn sống đã tự vấn về tội lỗi của mình, làm hẳn một tấm bia lớn khắc lời tự hối trên sinh từ của mình (Khiêm Lăng), cũng lại là một nhà thơ lớn với khoảng 4000 bài thơ, trong đó có nhiều bài vịnh lịch sử, tự hào về tổ tiên và tự hổ thẹn vì mình không xứng.
    Nhưng số phận của Việt Nam cũng là số phận chung của số đông các quốc gia phương Đông trước họa bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây, kể cả nước Trung Hoa khổng lồ vào thời đại đó. Việt Nam không duy tân nổi đất nước có những nguyên nhân căn cốt của xã hội Việt Nam chứ không chỉ do sự tăm tối trong đường lối hay phẩm chất của bộ máy cai trị đất nước đương thời.
    Việc để mất nước là một trách nhiệm nặng nề và không thể bào chữa đối với triều Nguyễn. Tuy nhiên không thể đơn giản dùng chữ “bán nước” mà phải đi sâu vào những hạn chế lịch sử của dân tộc ta, chứ không chỉ của triều đình nhà Nguyễn đã không ứng xử được như Nhật Bản hay Xiêm (Thái Lan) khi ứng phó với nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
    Cũng trong năm 1988, giới sử học tổ chức kỷ niệm 130 năm thực dân nổ súnng xâm lược (1858) tại TP Đà Nẵng. Khi nghiên cứu kỹ chúng ta thấy triều đình thời Tự Đức hoàn toàn không buông vũ khí, mà đã tổ chức kháng chiến với một năng lực tổ chức và ý chí mạnh mẽ, khiến đạo quân viễn chinh không chiếm được địa đầu này, buộc chúng phải chuyển hướng đánh vào Nam bộ. Những khu mộ Tây Ban Nha và cả một “nghĩa chủng” (nghĩa trang liệt sĩ) của những ngưòi lính triều đình cho đến nay vẫn còn trong thành phố Đà Nẵng là bằng chứng...
    Năm 1988, Hội Sử học VN tái phục hồi (được thành lập từ 1966 do cố Viên trưỏng Viên Sử học Trần Huy Liệu sáng lập, nhưng sau khi ông qua đời vào năm 1969 thì hội cũng chỉ còn duy trì một vài hoạt động đối ngoại). Kể từ đó nhiều cuộc hội thảo về đổi mới sử học, trong đó có những hội thảo đổi mới nhận thức về nhà Nguyễn và các chúa Nguyễn đã được tổ chức ở nhiều trung tâm giảng dạy và nghiên cứu, có những đề tài cấp nhà nước và giới sư phạm cũng đã bàn về việc giảng dạy những vấn đề liên quan trong nhà trưòng, trong biên soạn sách giáo khoa...Tiếp đó, cố đô Huế là di sản sớm nhất được công nhận Di sản thế giới.
    Thực ra những chuyển biến trong nhận thức về các chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn đã khởi động qua cả một quá trình. Ai cũng biết khi vấn đề đấu tranh chứng lý để bảo vệ chủ quyền các quần đảo ngoài biển Đông, không thể không nhắc đến thời các chúa Nguyễn đã tổ chức những hình thức thể hiện quyền quản lý lãnh thổ gắn với những hành động vô cùng dũng cảm của những người lính phụng mệnh các chúa thực hiện nghĩa vụ của mình. Tấm bản đồ được vẽ thời vua Minh Mạng có dải “Vạn lý trường sa” là những bằng chứng đanh thép bảo vệ lợi ích quốc gia.
    Nhưng liệu có phải như cảm nhận của nhà nghiên cứu Phan Thuận An đứng trước sự đánh giá lại các chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn, là như một “sự đảo lộn về nhận thức” hoặc tìm câu trả lời cho nhà thơ Nguyễn Duy, người đang làm bộ phim về ba ông vua yêu nước rằng: “Không hiểu tại sao và từ lúc nào lại bị biến dạng, bị hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hoá của vương triều này”, và vì sao lại phải “khơi dòng lịch sử bị nghẽn” vào thời điểm này?
    Đổi mới nhận thức lịch sử

    Có thể nói rằng chính cái nguyên lý khởi động công cuộc đổi mới là “Dám nhìn thẳng vào sự thật, nói lên sự thật” đã thúc đẩy và mở ra một điều kiện mới cho nhận thức lịch sử. Kể từ đó đến nay đã hơn hai thập kỷ thời gian gắn với đổi mới. Chính những yêu cầu của cuộc sống và phát triển đã đòi hỏi sự nhận thức quá khứ vượt qua được những quán tính của thời chiến tranh và cũng thoát ra khỏi những quan điểm ấu trĩ về đấu tranh giai cấp, về một chủ nghĩa duy vật lịch sử giáo điều
    Nhà nghiên cứu xứ Huế cũng lần ra người đầu tiên trong giới “sử gia-công chức” là GS Trần Quốc Vượng- người sớm nhất đưa ra một đánh giá sáng sủa hơn trên tờ “Sông Hương” (Huế) vào năm 1987 khi ông bày tỏ :”Tôi không thích nhà làm sử cứ theo ý chủ quan của mình, và từ chỗ đứng của thời đại mình mà chửi tràn chửi lấp toàn bộ nhà Nguyễn cho sướng miệng và ra vẻ có lập trường. Có thời nhà Nguyễn chúng ta mới có một Việt Nam hoàn chỉnh như ngày nay”. Điều ông nói diễn ra một năm sau “Đổi mới”(1986) và sáu năm (1987) trước khi quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá nhân loại (1993).
    Quan điểm ấy có thể thấy được trong nhiều ứng xử xã hội như huỷ hoại các di tích có liên quan, xoá bỏ các hình thức ghi nhận như tên đường phố, trường học, các công trình công cộng tại các đô thị, thậm chí ngay cả với những “ông vua chống Pháp” như Duy Tân cũng bị bãi bỏ. Một thời gian dài quần thể di tích cố đô Huế bị bỏ mặc để trở thành phế tích sau những đổ nát của chiến tranh và lụt lội...
    Tại cuộc hội thảo vừa rồi, bài tham luận của nhà nghiên cứu Phan Thuận An từ cố đô Huế nhắc lại những đoạn trích trong lời giới hiệu bản dịch sách “Đại Nam thực lục” của Viện Sử học (1961) hay các bộ sách khi đó được coi là chính sử do Uỷ ban KHXH tổ chức biên soạn (Lịch sử VN tập I, 1971 , tập II, 1985) là sự lên án tuyệt đối với các lời lẽ nặng nề, mạt sát như: “Tối tăm, cực kỳ phản động, hủ lậu, mục nát, mù quáng, cực kỳ ngu xuẩn” v.v...dành cho thời các chúa Nguyễn và triều Nguyễn.
    Nhiều đề tài đã liên tiếp được đưa lên mặt tạp chí để thảo luận nhưng chủ yếu là để khẳng định nhiều hơn, để tranh luận nhằm đánh giá trực tiếp hay gián tiếp triều Nguyễn thông qua các chủ đề như “ai thống nhất quốc gia”, “khởi nghĩa nông dân”... và các cuộc thảo luận về các nhân vật lịch sử như Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt... cho tới cả Nguyễn Công Trứ... đều trở thành những diễn dàn để công kích nhà Nguyễn một cách triệt để.
    Đặt vào bối cảnh ấy, những vấn đề của các chúa Nguyễn nhất là Vương triều Nguyễn được đặt ra liên tục vẫn với tinh thần “phản đế, phản phong”, trừ các chiến công giữ nước của các triều đại phong kiến, mà thời các chúa Nguyễn hầu như chỉ diễn ra hình thái nội chiến (Trịnh-Nguyễn, Lê-Mạc, Nguyễn-Tây Sơn), có chăng là sự kiện các chúa Nguyễn đánh bại hạm thuyền Hà Lan ở Đàng Trong nhưng không có mấy ý nghĩa so với một đánh giá chủ đạo là tiêu cực. Còn với nhà Tây Sơn, với chiến công hiển hách dẹp bỏ phân chia Đàng Trong-Đàng Ngoài, đánh Xiêm đuổi Thanh thì đương nhiên được tập trung nghiên cứu đánh giá cao, đến mức có người coi đó là “cách mạng Tây Sơn”.
    Sử học và sử gia

    Phải thừa nhận rằng một thời giới “sử gia-công chức” thực hiện xuất sắc vai trò minh hoạ và là vũ khí đấu tranh tư tưởng trong một thời kỳ đòi hỏi bởi sự khắc nghiệt của chiến tranh-cách mạng để đạt tới mục tiêu chiến thắng, không chỉ ngoại xâm mà cả những “tàn dư của chế độ cũ”.

    Đọc “Tạp chí Văn Sử Địa” và tiếp đó là “Nghiên cứu lịch sử”- cơ quan ngôn luận của Viện Sử học Việt Nam, cơ quan “quản lý nhà nước” trên lĩnh vực lịch sử dân tộc sẽ thấy quan điểm lập trường là “thẳng tuột” không nương nhẹ đối với những vấn đề lịch sử, đúng với tinh thần “đưa 4000 năm vào trận đánh”. Điều đó không chỉ diễn ra hồi đánh Pháp rồi Mỹ, mà cả thời “chống bành trướng”.
    ... Lẽ phải và lòng người

    - …Quan trọng hơn lời khen hay chê chính là những đổi thay của đời sống đất nước, trong đó có đời sống sử học và đời sống chính trị. Nó phản ảnh một sự không cưỡng nổi của lẽ phải và lòng người, của những giá trị về sự công bằng, nhưng cũng là sự đổi thay tích cực của một nền chính trị đang đổi mới và hội nhập.
    Nhà giáo dạy sử nổi tiếng là Trần Trọng Kim trong “Việt Nam sử lược” nhắc đến những điểm sáng trong sách của ông như “đề cao vai trò của Quang Trung và nhà Tây Sơn” vào thời điểm nhà Nguyễn tuy không còn là một triều đại tự chủ nhưng vẫn hiện diện trong bộ máy cai trị thuộc địa. Nhưng rồi chúng ta cũng biết rằng, trong vòng xoáy của những biến cố chính trị, chính tác giả cuốn sách có giá trị này cũng lựa chọn một thế đứng cho mình…

    Chính vì thế phải thấy sự nhận thức lịch sử phản ảnh trong chủ đề đánh giá các chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn cũng phản ảnh đời sống chính trị của đất nước. Nó vừa là kết quả nhận thức lịch sử, trước hết của giới sử học, vừa là những thay đổi trong nhận thức của toàn xã hội, bắt nguồn từ nhu cầu của chính đời sống hiện tại, của một thời đại lịch sử mới- hội nhập để phát triển.
    Rõ ràng, nhận thức lịch sử cũng thay đổi cùng thời gian, mà động cơ hay động lực thay đổi chính là do đời sống đương đại đòi hỏi. Suốt thời nước ta bị Pháp đô hộ, thì Quốc sử quán của nhà Nguyễn vẫn tiếp tục viết Đại Nam thực lục để ghi nhận và bảo vệ chế độ của mình.

    Còn sử gia người Pháp (mà đôi khi ta “vơ đũa cả nắm” là sử gia thưc dân) đương nhiên nhìn nhận sự cai trị của người Pháp là một công cuộc khai sáng văn minh. Những người viết sử yêu nước từ cụ Phan Bội Châu (Việt Nam phong quốc sử) đến Nguyễn Ái Quốc (Diễn ca Lịch sử nước ta) đều coi đó là vũ khí tuyên truyền và tập hợp lực lượng cách mạng, lên án đế quốc và phong kiến
    Trong nhận thức ấy, xin đừng trách nền sử học một thời đã từng lên án nhà Nguyễn với những đánh giá mà ngày nay ta thấy thiếu sự công bằng. Cũng như xin đừng lên án sử nhà Nguyễn gọi Tây Sơn là giặc, sử nhà Lê gọi nhà Hồ hay nhà Mạc là “nguỵ triều” hay “nhuận triều”...

    (Ai lên thăm ngôi đền Thượng ở Lào Cai thờ Đức Thánh Trần ngay gần biên giới đến nay vẫn thấy có những người bên kia biên giới sang cúng lễ vì một thời, trong tâm thức người Trung Hoa vẫn gắn bó với cái gốc tích Hán tộc mà coi các triều Nguyên hay Thanh là nỗi nhục, và Đức Thánh Trần đã từng đánh bại quân Nguyên. Nhưng bây giờ tâm thức “Đại Hán” đã thay bằng “Đại Trung Hoa” nên họ lại rất tự hào về hai triều đại này, cứ xem phim Trung Quốc thì thấy…)
    Có phải là sự đột phá trong nhận thức lịch sử?

    “Lịch sử diễn ra một lần còn nhận thức lịch sử là một quá trình”. Sự đánh giá các chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn ở thời đại này do vậy, là sự chín muồi của một quá trình nhận thức, để chuyển từ nhận thức của giới sử học tới nhận thức của xã hội. Nó không thể tách rời với quá trình đổi mới của đất nước, cũng có nghĩa là sự đổi mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng cầm quyền, bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế với một khẩu hiệu hành động: “Dám nhìn thằng vào sự thật, nói đúng sự thật”.

    Giới sử học Việt Nam không giấu diếm những thuộc tính mang “tính thời đại” của mình với đặc trưng là đội ngũ các “sử gia công chức”. Chúng ta rất hay nói đến tính khách quan của lịch sử, hay nhắc đến câu chuyện “ngụ ngôn kinh điển” về ba anh em sử gia phương Bắc từng thay nhau nhận cái chết để không thay đổi sự thật. Đã là ngụ ngôn thì đó cũng chỉ là sự mong muốn, mang tính lý tưởng mà thôi.

    Sử học là một khoa học, nhưng nó cũng không thể không mang màu sắc chính trị. Thời đại nào, ở đâu và ai cầm bút viết sử cũng vậy. Chỉ có điều chính trị biết phục tùng quy luật, căn cứ vào tính chân thực trong nhận thức quá khứ, đó sẽ là nền chính trị bền vững và trường tồn, cho dù đạt tới tiêu chí đó không dễ dàng. Và ngược lại, nếu bất chấp quy luật, duy ý chí thì chỉ có thể đạt đựoc những mục tiêu trước mắt nhưng sẽ không bền vững. Sử học bao giờ cũng là sự phản chiếu nền chính trị đương thời.
  • Đang tải…
  • Đang tải…
  • Đang tải…
Top Bottom