XUÂN DIỆU VÀ TÁC PHẨM ĐƯỢC DẠY TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT

T

tranquang

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

XUÂN DIỆU VÀ TÁC PHẨM ĐƯỢC DẠY TRONG NHÀ TRƯ?

"Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết." (Xuân Diệu)

Ông tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 02/02/1916, còn có bút danh là Trảo Nha sinh tại Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định (quê ngoại của Xuân Diệu). Cha là ông Ngô Xuân Thọ (giáo viên), người làng Trảo Nha, Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.

Xuân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938–1940). Ông tốt nghiệp cử nhân Luật 1943 và làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho một thời gian trước khi chuyển về ở Hà Nội.

Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ Ngày Nay và Tiên Phong. Ông là một trong những người sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam.

Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới", "ông hoàng của thơ tình".

Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào "Thơ Mới". Tác phẩm tiêu biểu của ông ở giai đoạn này: Thơ Thơ (1938), Gửi Hương Cho Gió (1945), truyện ngắn Phấn Thông Vàng (1939).

Hai tập "Thơ thơ""Gửi hương cho gió" được giới văn học xem như là hai kiệt tác của ông ca ngợi tình yêu và qua các chủ đề của tình yêu là ca ngợi sự sống, niềm vui và đam mê sống. Và ca ngợi tình yêu thì làm sao mà không ca ngợi tuổi trẻ, mùa xuân, ca ngợi thiên nhiên là tổ ấm và cái nôi của tình yêu. Và Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc đến đau đớn nỗi thời gian trôi chảy, sự mong manh của đời người cũng như lòng khát khao vĩnh cửu, tất cả đã được diễn tả bằng những câu thơ xúc động, có khi đậm đà triết lý nhân sinh. (Huy Cận, tháng 4 năm 2000)

Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc.

Xuân Diệu tham gia Ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.

Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một "dòng thơ công dân". Bút pháp của ông chuyển biến phong phú về giọng vẻ: có giọng trầm hùng, tráng ca, có giọng chính luận, giọng thơ tự sự trữ tình. Tiêu biểu là: Ngọn Quốc Kỳ (1945), Một Khối Hồng (1964), Thanh Ca (1982), Tuyển Tập Xuân Diệu (1983).

Là cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam, Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.

Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm 1983.

Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996).

Tên của ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội.

------------------------------------------------------------------------------------------------

TRONG NHỮNG TOPIC NHƯ THẾ NÀY CHÚNG TA SẼ ĐI VÀO TÌM HIỂU TỪNG TÁC GIẢ VÀ CÁC TÁC PHẨM CỦA HỌ ĐƯỢC DẠY TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT (LƯU Ý: CÁC TÁC PHẨM NẰM TRONG CHƯƠNG TRÌNH THI TỐT NGHIỆP VÀ ĐẠI HỌC)
 
T

tranquang

"Đây là lòng tôi đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân và đây là tuổi xuân của tôi, và đây là sự sống của tôi nữa (...). Tập thơ bắt dầu của tôi đây, bạn chớ bắt chước những người khôn ngoan, họ không biết quý phần ngon nhất của đời: tình yêu và tuổi trẻ (...). Tôi gửi hồn tôi cho những người trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng!".
(Trong Lời đưa duyên, giới thiệu tập Thơ thơ)

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng

Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò

Mây vẩn từng không, chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.


(Tập Thơ thơ, 1938)
 
T

tranquang

Đề khối C (năm 2006):
Bình giảng khổ thơ đầu tiên trong bài "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu (văn học lớp 11).

=====================================================

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

- Xuân Diệu là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam hiện đại với những đóng góp xuất sắc ở cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1945

- ĐMTT được rút trong tập Thơ Thơ (1938) là tập thơ đầu tay của ông. Bằng những cảm nhận tinh tế của cac giác quan, thông qua những cách tân mới mẻ trong việc tổ chức lời thơ, xây dựng hình ảnh, lựa chọn từ ngữ..., Xuân Diệu đã làm nổi bật bức tranh thiên nhiên mùa thu với những biến thái tinh vi nhất, những rung cảm sâu xa của lòng người trong thời khắc giao mùa...

- Bài thơ gồm 4 khổ, đoạn thơ được bình giảng là khổ đầu – khổ thơ có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc xác định cảm hứng trữ tình cho cả bài thơ

2. Bình giảng khổ đầu:

2.1.Những cảm nhận đầu tiên của nhà thơ về bức tranh thiên nhiên đẹp và buồn khi mùa thu tới.

- Hình ảnh đầu tiên được Xuân Diệu chọn làm tín hiệu cho mùa thu là rặng liễu

• Liễu là hình ảnh quen thuộc trong thơ Trung đại nhưng thường chỉ được miêu tả trong vẻ đẹp mềm mại thướt tha vốn có (Lơ thơ tơ liễu buông mành...) hoặc được sử dụng như một ước lệ nghệ thuật chỉ những người con gái đẹp “liễu yễu đào tơ” theo quan niệm lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con người.

• Trong cách cảm nhận mới mẻ của Xuân Diệu, khi con người mới thực sự là chuẩn mực cho cái đẹp thì liễu mùa thu hiện lên trong dáng vẻ, tâm trạng của một giai nhân, trong đó, “rặng liễu đìu hiu” là dáng buồn, tơ liễu thướt tha là tóc buồn, lá liễu là ngàn hàng lệ nhỏ... Liễu tựa một người con gái buồn hiu hắt và đẹp kiêu sa.

• Phép điệp vần trong các cụm từ “đìu hiu...chịu” và “buồn buông xuống”, phép láy phụ âm trong “buồn buông”cùng những thanh bằng đứng liền nhau trong hai câu đầu đã góp phần gợi tả hình ảnh những cành liễu mềm rủ buông lả lướt và nỗi buồn trĩu nặng trong lòng người

• Qua hình ảnh rặng liễu gợi liên tưởng đến một giai nhân buồn thương tang tóc, XD đã đem đến cho mùa thu một vẻ đẹp buồn rất đặc trưng của cảm hứng lãng mạn

- Sau tín hiệu đầu tiên, mùa thu lặng lẽ và đột ngột hiện ra trong cảm xúc ngỡ ngàng của thi nhân

• Đại từ chỉ định “đây” khiến mùa thu trở nên hữu hình, cụ thể

• Nhịp 4/3 cùng điệp ngữ “mùa thu tới” lặp lại từ tên bài thơ đến 2 vế của câu 3 đem đến một ấn tượng rõ rệt về bước đi của thời gian trong không gian, những chuyển biến lặng lẽ của thiên nhiên, trời đất trong thời khắc giao mùa

- Trong câu cuối, mùa thu hiện hữu rõ hơn và cũng gợi cảm hơn trong dáng vẻ một thiếu nữ kiêu sa, yểu điệu với tấm áo dệt bằng lá vàng “mơ phai” vừa tha thướt vừa quý phái. Hình ảnh ẩn dụ đã khiến mùa thu hiện ra vừa lộng lẫy vừa thơ mộng huyền ảo với sắc vàng rượi của nắng, của lá, với cái xao xác, hiu nhẹ của gió thu...

2.2. Những đặc sắc nghệ thuật:

- Sử dụng tinh tế và gợi cảm những hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa... vừa làm hiện lên sắc thái thơ mộng huyền ảo của bức tranh thiên nhiên, vừa thể hiện sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật

- Sử dụng thành công các phép điệp vần, điệp phụ âm, điệp ngữ...

=====================================================

Sẽ tiếp tục cập nhật các đề mới về tác phẩm này! Nếu mem nào có những đoạn trích, bình luận, nhận xét nào hay về tác phẩm này hãy up lên để mọi người cùng tham khảo, Ok?
 
T

tranquang

Đề 1 : ĐÂY MÙA THU TỚI – Xuân Diệu

1/ Cảm giác chung của bài thơ là buồn. Buồn vì hàng liễu rũ. Buồn vì cái lạnh len lỏi đây đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì có sự chia lìa, tan tác từ hoa cỏ, chim muông tới con người. Buồn vì có một cái gì như là nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ, phảng phất ở không gian và lòng người.

Hồi ấy, khi bài thơ ra đời (rút trong tập Thơ thơ – 1938) mùa thu là mùa buồn, tuy thường là nỗi buồn man mác có cái vẻ đẹp và cái nên thơ riêng của nó. Thực ra đây là một cảm hứng rất tự nhiên và có tính truyền thống về mùa thu của thơ ca nhân loại (Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà... cũng như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị...). Bài Đây mùa thu tới cũng nằm trong truyền thống. Nhưng cảnh thu của thơ Xuân Diệu có cái mới , cái riêng của nó. Ấy là chất trẻ trung tươi mới được phát hiện qua con mắt “Xanh non” của tác giả, là sức sống của tuổi trẻ và tình yêu, là cái cảm giác cô đơn “run rẩy” của cái tôi cá nhân biểu hiện niềm khao khát giao cảm với đời.

Cảm giác chung, linh hồn chung ấy của bài thơ đã được thể hiện cụ thể qua các chi tiết, các câu thơ, đoạn thơ của tác phẩm.


2/ Đoạn một: Trong thi ca truyền thống phương Đông, oanh vàng liễu biếc thường để nói mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu. Người ta dành sen tàn, lá ngô đồng rụng, cúc nở hoa để diễn tả mùa thu. Xuân Diệu lại thấy tín hiệu của mùa thu trước hết n ơi những hàng liễu rũ bên hồ.

Trong thơ Xuân Diệu, dường như đầu mối của mọi so sánh liên tưởng là những cô gái đẹp. Vậy thì những hàng liễu bên hồ, cành mềm, lá mướt dài rũ xuống thướt tha, có thể tưởng tượng là những thiếu nữ đứng cúi đầu cho những làn tóc dài đổ xuống song song... Là mái tóc mà cũng là những dòng lệ (lệ liễu). Những dòng lệ tuôn rơi hàng nối hàng cùng chiều với những áng tóc dài.

Vậy là mùa thu của Xuân Diệu tuy buồn mà vẫn đẹp, và nhất là vẫn trẻ trung. Ở hai câu đầu của đoạn thơ, nhà thơ khai thác triệt để thủ pháp láy âm để tạo nên giọng điệu buồn, đồng thời gợi tả cái dáng liễu (hay những áng tóc dài) buông xuống, rủ mãi xuống. Những “nàng liễu” đứng chịu tang một mùa hè rực rỡ vừa đi qua chăng?

Tin thu tới trên hàng liễu, nhà thơ như khẽ reo lên “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Đàng sau tiếng reo thầm, ta hình dung cặp mắt long lanh, trẻ trung của nhà thơ. Mùa thu của Xuân Diệu không gợi sự tàn tạ, mà như khoác bộ áo mới tuy không rực rỡ, nhưng mà đẹp và thật là thơ mộng rất phù hợp với mùa thu: “Với áo mơ phai dệt lá vàng”.


3/ Ở hai đoạn hai và ba, nhà thơ chủ yếu cảm nhận mùa thu bằng xúc giác: sương lạnh, gió lạnh. Có lẽ cái lạnh không chỉ đến với nhà thơ bằng xúc giác. Ông đem đến thêm cho cảnh thu cái run rẩy của tâm hồn mình nữa chăng? Một tâm hồn rất nhạy cảm với thân phận của hoa tàn, lá rụng, những nhánh cây gầy guộc trơ trụi... Chúng đang rét run lên trước gió thu! Lại một thành công nữa trong thủ pháp láy âm “những luồng run rẩy rung rinh lá”.
Cái rét càng dễ cảm thấy ở nơi trống vắng, nhất là cảnh trống vắng ở những bến đò. Bến đò là nơi lộng gió. Bến đò lại là nơi tụ hội đông vui. Thu về, gió lạnh, người ta cũng ngại qua lại bên sông. Xuân Diệu đã diển tả cái lạnh bằng một câu thơ đặc sắc “Đã nghe rét mướt luồn trong gió”. Một chữ “luồn” khiến cái rét như được vật chất hóa hơn, có sự tiếp xúc da thịt cụ thể hơn.


4/ Đoạn bốn Nguyễn Du nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây người cũng buồn mà cảnh cũng buồn. Buồn nhất là sự trống vắng và cảnh chia lìa. Cả bài thơ gợi ý này, nhưng đến đoạn cuối nhà thơ mới nói trực tiếp như muốn đưa ra một kết luận chăng:
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khi trời u uất hận chia li
Tuy nhiên cảm giác về mùa thu, tâm sự về mùa thu là một cái gì mông lung, làm sao có thể kết luận thành một ý nào rõ rệt. Vậy thì tốt nhất là nói lửng lơ:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì?
Lời kết luận nằm ở trong lòng những thiếu nữ đứng tựa cửa bâng khuâng. Nét mặt các cô thì buồn và cặp mắt các cô thì nhìn ra xa, nghĩa là không nhìn một cái gì cụ thể – chắc hẳn là đang nhìn vào bên trong lòng mình để lắng nghe những cảm giác buồn nhớ mông lung khi mùa thu tới. Lời kết luận không nói gì rõ rệt nhưng lại gợi mở rất nhiều cảm nghĩ cho người đọc.

Trong tập Trường ca, Xuân Diệu từng viết: Trời muốn lạnh nên người ta cần nhau hơn. Và người nào chỉ có một thân thì cần một người khác (...) Thu, người ta vì lạnh sắp đến mà rất cần đôi, cho nên không gian đầy những lời nhớ nhung, những hồn cô đơn thảo ra những tiếng thở dài để gọi nhau”.

Đó phải chăng cũng là tâm trạng của tác giả Đây mùa thu tới và của những thiếu nữ trong bài thơ này chăng?
 
Top Bottom