Võ học và người học võ

J

jeetkunedo_9x

Thiếu Lâm Tự - Huyền thoại & sự thật

Thiếu Lâm Tự - Huyền thoại & sự thật (Kỳ 1)

Với bề dày lịch sử 1.500 năm, Thiếu Lâm tự - Trung Quốc là kho tàng võ công thâm hậu vang danh khắp thiên hạ. Các nhà nghiên cứu võ học trên thế giới đều phải thừa nhận rằng Thiếu Lâm tự là cội nguồn của nhiều môn phái.

Huyền thoại về “ngôi sao Bắc Đẩu”
Một chuyến đi về cái nôi võ thuật để tìm một chân dung thật về ngôi sao huyền thoại...
Kẻ tu học trên mạng!
Tôi lên mạng với lời rao: “Muốn đi đến chùa Thiếu Lâm, Trung Quốc, ai biết chỉ giúp?”. Chỉ trong nửa ngày đã có hàng tá lời hồi đáp: đường đi nước bước đến Thiếu Lâm tự mỗi người mách bảo một phách, người thì bảo Thiếu Lâm tự ở Châu Nam, tỉnh Phúc Kiến; kẻ đoan chắc chân truyền kungfu ở Bàn Sơn, Hà Bắc; có kẻ lại bảo: “Anh cứ đến Cung văn hóa hữu nghị Hà Nội, ở đó dạy Thiếu Lâm tự Liễu Đôi - Hà Nam, chân truyền chính gốc, cần gì mò sang Tàu?” (!?).
Rối quá tôi lại rao: “Muốn đi tu chùa Thiếu Lâm chính gốc bên Trung Quốc, ai đã từng tu, muốn tu, sắp tu, xin liên hệ email nguyenbnus... xin hậu tạ!”. Hai ngày sau thư điện tử đã có hồi âm: “Em là Hưng, sinh viên Đại học Kinh tế quốc dân, từng sang chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, Hà Nam, Trung Quốc hai lần, đầu tháng giêng em sẽ sang nhập học, nếu cần anh bay ra Hà Nội, em sẽ giúp...”. Tôi thu xếp bay ra Hà Nội ngay.
Hưng với thân hình đúng nhà võ - cao lớn, vai u thịt bắp, rất am hiểu Thiếu Lâm tự - kể cho tôi biết: Đúng là bên Tàu có đến ba ngôi chùa mang tên Thiếu Lâm, nhưng chính gốc chân truyền chỉ có một là Tung Sơn Thiếu Lâm tự ở thị trấn Đăng Phong, tỉnh Hà Nam.
Chính nơi này, năm 527 (sau Công nguyên) tổ sư Bồ Đề Đạt Ma - con vua Nam Thiên Trúc (miền nam Ấn Độ) đã lên đường vượt biển sang Trung Hoa và đến Tung Sơn, chọn động Thiếu Thất để tham thiền diện bích (nhìn vào vách đá) suốt chín năm liền.

Từ đó, ông đúc kết tinh yếu ra môn phái Thiếu Lâm tự với năm bộ sách bí truyền tuyệt thế võ công chấn động giang hồ và là nền tảng cho hầu hết các môn võ khác như Nga Mi, Không Động, Võ Đang, karatedo, taekwondo, judo, kiếm đạo Nhật Bản và cả Vovinam… cũng đều xem Bồ Đề Đạt Ma là thủy tổ.

tl1.jpg
Những đòn tuyệt kỹ của Thiếu Lâm tự luôn là những huyền thoại trước mắt người đam mê võ thuật

Kungfu Trung Hoa hay võ Thiếu Lâm tự vang danh giới võ lâm giang hồ từ hơn ngàn năm qua bởi 72 tuyệt kỹ kungfu như thương đao bất nhập pháp (binh khí không thể chém vào người), bích hổ du tường công (leo tường), tù thủy công (chạy trên mặt nước), phi tiềm tẩu bích (chạy trên vách, bay trên mái)…

Chỉ cần luyện thành công một trong 72 tuyệt kỹ cũng đủ tư cách để lập ra một võ phái danh trấn giang hồ!... Chỉ nghe Hưng kể về những huyền thoại thôi mà tôi đã rạo rực muốn nhập môn trở thành võ tăng rồi... Hưng hẹn tôi về thu xếp, đúng mồng mười tháng giêng sẽ ra Bắc cùng nhau cất bước “tiếu ngạo giang hồ”...

Đọc những bộ sách kiếm hiệp như Tiếu ngạo giang hồ, Ỷ Thiên Đồ Long ký , Thần điêu đại hiệp… tôi đã quá mê mẩn những thần công lực của các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm. Trong lịch sử Trung Hoa, dấu ấn các cao thủ chùa Thiếu Lâm cũng rực rỡ không kém.
Từ đời Đường, tuyệt đỉnh võ học Thiếu Lâm tự đã chấn động giang hồ khi 13 vị cao tăng chùa Thiếu Lâm giúp vua Đường Thái Tông phá trận Vương Thế Sung (mà vừa qua Đài truyền hình TP.HCM đã cho trình chiếu bộ phim nhiều tập San bằng Thiếu Lâm tự. Lịch sử võ học cũng lưu danh các cao tăng như Chí Tháo, Huệ Dương, Đàm Tông… đã đóng góp cho nền võ học thế giới những huyền công tuyệt kỹ.

Tinh hoa của Thiếu Lâm là võ đạo. Võ động, đạo tịnh - tinh thần Thiếu Lâm là mượn cái động để trở về cái tịnh. Các nhà nghiên cứu phương Tây cho đến giờ vẫn chưa khám phá hết kho tàng nội công và khí công của võ đạo. Đi đến chân truyền tuyệt kỹ của Thiếu Lâm tự là một con đường khổ ải. Các tiểu tăng thường được đưa vào chùa từ tuổi lên 5, lên 7, học từ tấn pháp, thân pháp, quyền pháp, cước pháp... rồi la hán quyền, mai hoa quyền.

Bước vào trung cao thì tùy vào thể trạng, nhỏ con thì luyện báo quyền, cao gầy thì hạc quyền, to cao thì long quyền... Không phải ai cũng có thể bước vào hàng cao thủ Thiếu Lâm, vì phải có căn duyên, phải đạt khí lực và nội lực thâm hậu mới có thể luyện tuyệt kỹ, bằng không sẽ phản đòn nội thương. Để đạt đến vô vi quyền (vô chiêu thắng hữu chiêu), dùng khí lực nuôi thao tác liên kết hệ thống thần kinh và huyệt đạo để dẫn khí lực ra chiêu thì mới gọi là thượng thừa, mới có thể gọi là Đạt Ma khí công…

Với một kẻ ngoại đạo như tôi, kho tàng võ thuật Thiếu Lâm tự quả như ngọn núi Thái Sơn mà mới một vài bài quyền của các tiểu tăng đánh võ như múa trong đoàn võ thuật Thiếu Lâm Tinh Anh - Bắc Kinh vừa qua Sài Gòn hồi tháng mười hai cũng đủ khiến tôi choáng ngợp...

Chuyến tàu tốc hành phương bắc

Đúng hẹn với Hưng, tôi vác balô ra Hà Nội. Vừa xuống sân bay trời lạnh 100C, nhưng cảm thấy lạnh hơn khi điện thoại cầm tay của Hưng “ò…í…e…”. Mới ngày hôm trước còn liên lạc, Hưng vẫn dặn: rét lắm đấy, hôm qua đài báo ở Bắc Kinh, Trịnh Châu lạnh đến âm 180C. Hưng còn dặn nên cạo đầu để bày tỏ lòng thành kính đối với các bậc cao tăng… Vậy mà…

Tiếng còi tàu tốc hành liên vận Hà Nội - Bắc Kinh trong đêm nghe sao não lòng. Kẻ tu học qua mạng vẫn biệt tăm, đường xa vạn dặm biết đâu mà lần, chẳng lẽ quay về? Nhưng tóc đã xuống, tâm đã tịnh, tiệc chia tay vợ con đã tàn... nào có thể thối lui?
“Gió hiu hiu sông Dịch lạnh tê, tráng sĩ ra đi chừ không trở về...”. Con tàu liên vận nối liền thủ đô hai nước phóng vào màn đêm hun hút, trên tàu chỉ có đúng 11 người VN - mùa này đang vào tiết đại hàn, người phương bắc ùn ùn kéo xuống phương nam chứ có ai ngược lên phương bắc!

tl2.jpg

Ông soát vé tàu ngạc nhiên hỏi đi hỏi lại nhiều lần khi biết tôi sẽ xuống ga Trịnh Châu - Hà Nam (cách Bắc Kinh 500km về phía nam) để đi Thiếu Lâm tự, bởi mùa này không ai đi viếng chùa Thiếu Lâm lại càng không thể tin là đi học võ, vì thời tiết năm nay vô cùng khắc nghiệt, trung bình cũng âm 100C, miền núi Tung Sơn luôn có bão tuyết.

Quả như lời ông soát vé nói, tàu chỉ mới đến Quế Lâm, bắc tỉnh Quảng Tây, giáp VN, tuyết đã rơi dày đặc; làng mạc, những cánh rừng phủ trắng một màu tuyết - hiện tượng này ngay chính người Trung Quốc cũng cho là khác thường, bởi vùng Hoa Nam cả 20 năm qua chưa có tuyết rơi!

Tàu vượt sông Trường Giang trong đêm tối, tôi tiếc là không có dịp để ngắm một trong những dòng sông lớn nhất Trung Hoa - nơi mà ngàn năm trước tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đã rời nước Lương để đến Thiếu Lâm tự của Bắc Ngụy chỉ bằng một cọng lau đạp nước qua sông (cước đạp lô điệp quá giang) để từ đó “cửu niên diện bích” (chín năm thiền mặt quay vào trong vách đá) trong động Thiếu Thất trở thành tỵ tổ của Thiếu Lâm võ công và sơ tổ Thiền tông Trung Hoa.

Tàu vào ga Trịnh Châu chỉ đỗ đúng năm phút cho hai người khách xuống: tôi và anh Kim Sơn - người phiên dịch. Trên tàu có lò sưởi nên chưa cảm thấy cái lạnh, vừa ra khỏi tàu đôi tai tôi gần như đóng băng (!), nhiệt độ bên ngoài âm 100C, nhưng khi lên xe đò về đến thị trấn Đăng Phong, cách Trịnh Châu 80km về phía đông bắc mới biết mình vẫn còn may mắn vì trước đó hai ngày một cơn bão tuyết đã ập vào Trịnh Châu, làm tắc nghẽn giao thông suốt hai ngày. Chuyến xe đò mà tôi đi về Đăng Phong là chuyến đầu tiên sau cơn bão tuyết!

Dãy Tung Sơn đang dần hiện ra, huyền thoại về tuyệt kỹ Thiếu Lâm tự đã ở sau lưng, trước mắt là một thế giới khác về Thiếu Lâm tự đang mở ra…

 
J

jeetkunedo_9x

Thiếu Lâm tự - huyền thoại & sự thật (Kỳ 2)



Tôi cứ hình dung đó là một thị trấn cổ kính ngàn năm với những võ sinh đang luyện tập dưới bóng núi Tung Sơn, bởi trong tám kinh đô cổ của Trung Quốc thì tỉnh Hà Nam chiếm hết bốn - gồm An Dương, Lạc Dương, Khai Phong và mới đây là Trịnh Châu (1600 – 1100 trước Công nguyên). Thế nhưng tất cả đều tan biến ngay trong phút đầu gặp gỡ...


Công nghệ “chân truyền”
Thị trấn Đăng Phong đang hối hả xây dựng, con đường cao tốc từ thành phố Trịnh Châu dẫn về Đăng Phong rộng sáu làn xe, dấu ấn duy nhất là bên sườn núi người ta cho tạc vào vách núi chân dung các vị cao tăng đang luyện khí công. Còn lại là hàng loạt tòa nhà cao tầng đang đua nhau vươn lên; nhà hàng, khách sạn ba sao, bốn sao vươn dài ra tới dãy Tung Sơn - nơi tọa lạc chùa Thiếu Lâm.

Ngay tại bến xe, người tài xế xe đò tên Kỳ sau khi nhìn cái đầu trọc “truyền thống” và biết ý định của tôi muốn tìm một “lò” chân truyền để tu học, anh móc điện thoại di động gọi ngay, sau đó bảo: “Lên chùa học làm gì cho mệt, ghé chỗ bạn tôi, chỉ học vài tháng là đạt tuyệt khí công (!?)”.

Tôi ngần ngại, nói muốn học cho đến nơi đến chốn để về nước mở lò dạy võ. Kỳ như biết quyết tâm của tôi: “Tôi bao tất, 10.000 tệ (khoảng 20 triệu tiền Việt Nam), có bằng do đệ tử chân truyền của phương trượng cấp, sang Mỹ còn mở trường dạy võ được huống hồ gì VN!”. Tôi dò hỏi: “Vậy học mấy tháng?”. Anh lái xe cho biết chỉ cần ba tháng là được, rồi anh vung tay múa quyền giống như mấy tiểu sư phụ trong đoàn Thiếu Lâm Tinh Anh!

Khắp Đăng Phong đâu đâu cũng có thể liên hệ vào học ở võ đường, Học viện Thiếu Lâm. Một bảng hiệu nhỏ như bảng hiệu “nhận giặt là” ở Hà Nội cũng được ghi “Thiên Long Thiếu Lâm võ đường”, hay một tòa nhà trên phố chỉ cao ba tầng cũng được chèo kéo vào giới thiệu là “Tiểu Long Thiếu Lâm học viện”...

Và chỉ cần lên taxi mà miệng bập bẹ với tài xế “Shao lin ssu…” là sẽ được chở ngay tới một “mối” luyện kungfu vô danh hoặc hữu danh nào đó mà ai cũng đoan chắc “chính hiệu chân truyền”; như một thời ở Hà Nội người ta tranh nhau chất “chân truyền” của các quán thịt chó trên đê Yên Phụ, nào là anh Tú xịn, anh Tú béo, anh Tú chính gốc...

Thậm chí có “cò” còn tuyên bố sẵn sàng bảo kê cho tôi vào chùa tu, nhưng ban đêm có thể ra thị trấn ăn chơi, nhậu nhẹt đàn đúm - vì “cò” này bảo thanh niên trai tráng mà ở trong chùa thì hoạn sướng hơn!

Một anh cò có đôi mắt sắc như dao của Kinh Vô Mệnh rủ rỉ: “Chỗ tôi không cần phải học chi cho mệt, cứ đến ghi danh và tìm chỗ ăn ở cho thoải mái, tôi sẽ chạy cho tấm bằng chứng nhận đã tu luyện do chính đương kim phương trượng Vĩnh Tín ký và đóng dấu. Nhiều võ sinh từ Mỹ, Pháp sang cũng “học” theo cách này mà...”.

Thấy tôi lo ngại, Kinh Vô Mệnh lật bài ngửa phán ngay: “Giấy giả thôi, chỉ tốn có 1.000 tệ, mấy đại sư phụ có tài thánh cũng không biết giả - thật!”. Anh Kim Sơn, người phiên dịch đã có mười năm lăn lộn khắp đất nước Trung Hoa, cho biết: “Chuyện giả chữ ký và dấu son là chuyện bình thường ở đất nước này, đến tiền mà còn làm giả đến mức ngân hàng còn không phát hiện được!”.
Ngụy phái hay chân truyền đều khó lòng phân biệt thì tôi còn biết tu học cửa nào đây?

Duyên phận
Còn đang phân vân vì không biết thân phận sẽ trôi về chốn võ lâm nào giữa cái chợ võ ồn ào, náo nhiệt này, may mắn thay tôi lại bắt mối được với một người tự giới thiệu là Mã Hải Phong - thư ký riêng của một cao tăng đang tu tại chùa Thiếu Lâm.
Phong dáng đậm người, nói nói cười cười và có vẻ thật thà khi “thành thật khai báo”: “Tôi đâu biết võ, chỉ học lóm vài chiêu để phòng thân khi đi chợ, học võ mệt lắm, nhưng thầy của tôi chính gốc chân truyền!”.

Phong gọi taxi và đưa chúng tôi về một căn nhà nhỏ gần con đường cao tốc dẫn lên Thiếu Lâm tự. Căn phòng lạnh đến ghê người, chiếc cửa nhỏ bé được che bằng miếng cao su dày để chắn gió rét, phòng bên ngăn cách bằng một tấm kính tôi thấy có mấy chú nhỏ đầu cạo trọc đang hì hục tập võ mà tôi đoán là các tiểu võ tăng.

Ban đầu cứ nghĩ là mình đã bị lừa vào chốn tà phái, nhưng định thần nhìn quanh, với cách bài trí trong phòng, tôi thấy có thể yên tâm phần nào: nhiều bức ảnh treo trên tường là ảnh các vị lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc như Giang Trạch Dân, Chu Dung Cơ… chụp chung với các cao tăng, có những tấm trướng ghi thành tích của chủ nhân của nó và cả một dàn thập bát ban võ nghệ thương, đao, chùy, kiếm…

Mã Hải Phong hỏi tôi chỉ học võ hay cả đạo lẫn võ; nhu cầu ăn, ở, mua sắm trang phục loại nào, có đủ khả năng ở phòng riêng không, thời gian lưu lại tu học là bao nhiêu năm... và ghi chép rất cẩn thận vào sổ tay. Móc điện thoại di động nói chuyện khá lâu, rồi Phong quay sang tôi với gương mặt tươi tỉnh: “Đại sư phụ sẽ đến ngay, sẽ trao đổi trực tiếp với anh!”. Chỉ chưa đầy 30 phút, Mã Hải Phong mừng rỡ reo lên: “Cao tăng đến... Sư phụ đến...!”.

Một bóng người vén chiếc màn cao su nặng trịch bước vào, bóng tối bao trùm lấy căn phòng bởi tấm thân hộ pháp dễ gần trăm ký choán hết ánh sáng của cánh cửa nhỏ. Tôi bất chợt rùng mình, không phải vì tấm thân hộ pháp mà vì gương mặt con người ấy - gương mặt mà tôi đã gặp đâu đó, rất quen như là mới gặp trong cái thị trấn Đăng Phong nhỏ bé này…

Cao tăng ngồi đối diện và nhìn tôi rất lâu, ánh mắt nhỏ xíu nhưng đầy uy lực, ánh mắt của người có quyền lực, hỏi lại tôi những câu mà thư ký Mã Hải Phong đã hỏi, rồi lại nhìn tôi rất lâu và phán một câu: “Ngũ quan của anh rất tốt, anh đến với tôi là do duyên phận, tôi nhận anh làm đệ tử và cho phép gọi tôi là sư phụ!”.

Tôi cũng bất ngờ mừng vui, không vì lời khen tặng của sư phụ mà chính vì chợt nhớ ra ông chính là nhân vật cao cấp trong giới cao tăng Thiếu Lâm tự: hình ảnh của ông ở ngay trong căn phòng này, chụp chung với các nhà lãnh đạo Giang Trạch Dân, Chu Dung Cơ... Ở khách sạn, khu bán hàng lưu niệm trong thị trấn Tung Sơn hình ảnh của ông cũng được trưng bày khá nhiều trên các tờ bướm, tập bưu ảnh…

Thậm chí ảnh của sư phụ còn nhiều hơn cả phương trượng đại sư Vĩnh Tín - đương kim trụ trì Thiếu Lâm tự. Ngay cả quyển kỷ yếu Tung Sơn Thiếu Lâm tự võ tăng đoàn mà các cô nhân viên lễ tân khách sạn tặng khách cũng tràn ngập hình ảnh sư phụ… Duyên phận của tôi đã bắt đầu từ đây.

Không để đệ tử đợi lâu, như để chứng minh danh tánh “chân truyền đại sư”, sư phụ đưa ngay danh thiếp cho tôi: “Thích Diên Truyền - tổng giáo đầu võ tăng đoàn Tung Sơn Thiếu Lâm tự” - nhân vật cao cấp sau đại sư trụ trì phương trượng trong 180 cao tăng chùa Thiếu Lâm Tung Sơn!

Nói theo thư ký Mã Hải Phong thì: danh tiếng của ngài cũng giống như Quý Bố, danh tướng đời Tần mà trong giới giang hồ võ lâm vẫn truyền tụng: “Được ngàn lạng vàng không bằng một tiếng ừ của Quý Bố!”. Quý Bố vừa “ừ” với tôi kia rồi! Tôi như Trương Đan Phong vừa mở được “huyền công yếu quyết” để tìm ra nội công thượng thừa!

Tổng giáo đầu không vội đi sâu vào việc tu học, ngài phất tay ra lệnh cho tôi theo ngài ra ngoài. Tôi tuân theo, cứ tưởng sư phụ sẽ gọi taxi; nhưng không, sư phụ “tung chưởng” bấm remote - tiếng “ót ét” vang lên từ chiếc xe hơi riêng, tự ngài cầm lái và đưa tôi đi về hướng Thiếu Lâm tự...

Chuyện đời thật trái khoáy, ngày xưa có những hiệp khách đến quì lạy dưới mưa sa bão tuyết bảy ngày bảy đêm trước cổng chùa Thiếu Lâm để mong các cao tăng nhận vào làm đệ tử. Nay đệ tử vừa lặn lội từ đất phương nam xa xôi đến đây đã được đích thân sư phụ ưu ái đưa bằng xe hơi riêng lên thẳng nội cung Thiếu Lâm…
 
J

jeetkunedo_9x

Thiếu Lâm tự - huyền thoại & sự thật (Kỳ 3)

Không còn cảnh xe ngựa lốc cốc từ Đăng Phong lên Tung Sơn như mười năm trước mà tôi đã từng nghe kể, cũng không thấy các tiểu tăng Thiếu Lâm trầm mình trong tuyết trắng để bảo vệ các pho sách bí quyết nội công, khí công của Tàng Kinh Các như trong truyền thuyết...


Trong "nội cung" Thiếu Lâm tự
Đường lên Thiếu Lâm tự bây giờ đã là cao tốc sáu làn xe và thay cho các tiểu tăng là hai ba vòng rào bảo vệ thu tiền vé khách thập phương vào vãn cảnh chùa...

Đây, Tàng Kinh Các!
Thiếu Lâm tự được vua Hiếu Văn Đế xây dựng vào năm Thái Hòa thứ 19a đời Bắc Ngụy (năm 495). Lịch sử ngôi chùa này cũng khá truân chuyên và đầy chất giang hồ hiệp khách như trong tiểu thuyết Kim Dung, đã từng là nơi tỉ thí võ nghệ của giới võ lâm và bị tàn phá nhiều lần trong các năm 556, 844, 962; bị cháy đến ba lần vào các năm 612, 1736, 1928; đây cũng là một trong những mục tiêu bị đập phá tàn bạo nhất của tỉnh Hà Nam bởi các hồng vệ binh trong “đại cách mạng văn hóa” thập niên 1960. Mãi đến cuối thập niên 1970 Thiếu Lâm tự mới được đại trùng tu để có diện mạo như hiện nay.




Tàng Kinh Các - nơi lưu giữ những pho võ công bí truyền ngàn năm của Thiếu Lâm tự

Sư phụ Thích Diên Truyền như muốn khẳng định “thương hiệu” của mình trước kẻ đệ tử hèn mọn phương nam nên khi vào cổng soát vé Thiếu Lâm tự, ngài cố tình lái xe vào đường ngược chiều (!?). Mấy anh bảo vệ chạy ra nhìn lom lom, sau khi biết đích xác là cao tăng đại sư liền xăng xái lùi vào và cười rất tươi - quả thật “ngoại công” của sư phụ vô cùng đắc địa! Ở ngay cổng tam quan chùa, anh bảo vệ cũng phải lùi bước khi ngài đưa tôi vào tham quan Thiên Hoàng Cung, Bảo Chánh Điện, Tàng Kinh Các…

Tôi ngẩn ngơ khi đứng trước Tàng Kinh Các - gian nhà cổ kính mà ngàn năm qua là nơi dòm ngó, đột nhập của bao thần thâu lục lâm (siêu trộm). Nơi lưu giữ các pho sách bí truyền nội công, khí công để luyện 72 tuyệt kỹ đều nằm ở đây. Trong lịch sử của giới võ lâm, mỗi khi Tàng Kinh Các bị đột nhập, xâm phạm, dù đó là kẻ thần thâu, hiệp khách hay đó là đấng quân tử, quân vương… đều làm cho giới giang hồ khuấy động, bao cảnh máu đổ đầu rơi vì đã chạm vào nơi đại trọng của các cao tăng Thiếu Lâm tự.

Tàng Kinh Các vẫn cổ kính như xưa, những chiếc tủ to chứa đựng bí quyết thâm hậu võ công vẫn ẩn mình sau lớp cửa. Một vị cao tăng đi tới đi lui lạnh lùng nhìn kẻ lạ phương nam. Một vị tiểu tăng ngồi co ro bên hữu môn vừa bán ít hàng lưu niệm như xâu chuỗi, tượng Phật, nhang đèn…cho khách thập phương, vừa đọc sách mà theo thư ký Mã Hải Phong thì đó là những võ tăng “thất sủng” được sư bác đưa ra làm “dịch vụ”.

Vị tiểu tăng bán hàng lưu niệm rất khó chịu khi tôi đưa máy ảnh lên chụp, vì đường đường là võ tăng chân truyền trong 180 vị cao tăng chùa Thiếu Lâm ngày đêm tu luyện tuyệt kỹ khí công mà lại bị xem như một người phàm, buôn bán mấy món lặt vặt sao? Thà được lưu danh như Lỗ Trí Thâm, xuất gia núi Ngũ Đài, ăn thịt chó, uống rượu mạnh ngang dọc chốn giang hồ vẫn còn hơn làm “ông chủ” hiệu dịch vụ Tàng Kinh Các!...

Tôi bước chân lên điện Tây Phương thánh nhân - nơi thờ sư tổ Bồ Đề Đạt Ma. Bức tượng ông đạp cọng lau qua sông Trường Giang được khắc họa quá tinh xảo, có cảm giác như ngài vẫn còn quanh quẩn đâu đây để lo âu trước những thăng trầm của ngôi cổ tự này.
Dấu ấn đặc biệt, đáng xem nhất trong ngôi cổ tự này là cựu võ đường Thiên Phật tự, nơi có hơn 40 phiến đá nền bị lún sâu, còn in đậm những dấu chân ngàn năm của các thế hệ cao tăng luyện tuyệt kỹ La hán quyền, Mai hoa phong vũ quyền, Bài sơn chưởng, Nhất chỉ thiền công…

Còn ngoài sân, những cây bồ đề, cây tùng bách vẫn còn những vết lõm trên thân cây là dấu tích của các thế hệ Thiếu Lâm cao tăng luyện Trúc diệp thủ, Thiết tý công, Bao thụ công... Đó là dấu vết không thể chối cãi được của một pho bí truyền về nội công, khí công cao siêu dưới vòm trời võ học trần gian…

Phía sau cánh cửa thiền phòng…
Tiếng cầu kinh râm ran phía dưới điện Thiên Hoàng Cung, sư phụ đã biến mất từ lúc nào tôi cũng chẳng hay, chắc ngài đã dùng tuyệt kỹ “phi hành công” (phi thân) để lo việc chùa. Nhiều tiểu tăng trẻ tuổi từ khu thiền phòng lật đật cầm bát, tô, ca, cà mèn đi nhanh về phía tiếng kinh cầu, thì ra đã đến giờ các cao tăng đi dùng cơm trưa.

Tò mò muốn biết các cao tăng ăn những gì mà nội công quá thâm hậu, tôi cũng lò dò theo các tiểu tăng đến phòng cơm. Một thân hình hộ pháp trấn ngang trước cửa, xua đuổi như gặp tà, tôi thoáng thấy bóng sư phụ bên trong, ngài đang lim dim tụng kinh nên chẳng can thiệp gì cho tôi vào bên trong được.

Tiếng tụng kinh lắng dần và bắt đầu tiếng xì xồ, cười nói vui vẻ, những vị sư trẻ bước ra cười rất tươi, người trên tay bát cháo to ụ, người thì cà mèn mì đầy ắp, lại thêm hai, ba cái bánh bao kèm theo.




Bữa cơm trưa di động của các cao tăng chùa Thiếu Lâm

Thư ký Mã Hải Phong cho biết các sư phụ trong chùa Thiếu Lâm chỉ ăn chay và theo kiểu buffet mì, cháo, cơm, bánh bao, trứng luộc… ai thích ăn thứ gì thì tự chọn. Các cao tăng lớn tuổi ăn tại phòng ăn, còn các tiểu tăng thích tự do, thích riêng tư thì mang về thiền phòng.
Sư phụ tôi xuất hiện, tay ngài cũng cầm một bát cháo to, vừa đi vừa cười. Ngài cũng thuộc loại trẻ tuổi nên mang suất ăn trưa về phòng. Ngài hào phóng bảo thư ký Phong: “Đưa đệ tử xuống ăn cơm rồi về phòng riêng của thầy mà ngơi nghỉ, chiều mới bàn việc học ”.

Bụng đói cồn cào, một bát mì to không kém của thầy, dặm thêm hai cái trứng gà luộc mà vẫn còn thòm thèm, nhưng cảm thấy ngại vì xung quanh có khá nhiều người là khách của chùa cùng xuống ăn nên tôi bỏ đũa và líu ríu theo thư ký Phong về khu thiền phòng…
Tôi không thể hình dung thiền phòng - nơi ăn chốn ở riêng tư của các cao tăng thuở trước ra sao, nhưng thiền phòng thời nay là tòa nhà hai tầng khá hiện đại. Bước vào cửa là dãy hành lang tối om om với vài chiếc bóng đèn vàng vọt, nhưng vào bên trong thì phòng nào cũng được trang bị máy điều hòa hai chiều nóng - lạnh, máy điện thoại riêng và nhà vệ sinh riêng.

Bên ngoài cho dù giữa trưa nhưng vẫn là điều khổ ải trần thân vì giá lạnh đối với người phương nam quen nắng ấm quanh năm như tôi. Bước vào phòng của sư phụ quả là diễm phúc, máy sưởi chạy rù rì, chiếc giường nệm êm ru làm đệ tử díu mắt… Sư phụ tổng giáo đầu vừa ăn cháo, vừa viết thư pháp. Thầy viết khá đẹp, trên tường còn treo nhiều bức thư pháp lớn với nhiều nội dung về võ đạo.
Ăn xong thầy bảo tôi: cứ tự nhiên nghỉ ngơi, thầy có việc phải ra thị trấn độ một giờ sau sẽ quay lại. Thầy đi rồi, thư ký Mã Hải Phong và người phiên dịch nằm lăn quay ra ghế xalông mà ngáy. Tôi leo lên chiếc giường của cao tăng định đánh một giấc, nhưng “cơ hội ngàn năm” được vào thiền phòng các cao tăng nên lò dò đi tìm hiểu.

Có lẽ sư phụ tôi là tổng giáo đầu nên trong phòng ngài còn có máy vi tính nối mạng riêng, hai chiếc đại đao và thương to lớn dựng bên tường thuộc thập bát ban võ nghệ (18 món binh khí) của môn phái Thiếu Lâm dùng để luyện tập.

Trong chiếc tủ đứng của sư phụ có khá nhiều sách và kinh, tràng hạt và nhiều hình ảnh về những chuyến ra hải ngoại của sư phụ. Một khám phá khá thú vị là trong tủ của thầy có khá nhiều thuốc tây trị bệnh thông thường như cảm mạo, đau bụng...!

Cuộc sống của cao tăng Thiếu Lâm tự cũng thật phong phú và khá đời thường. Bên phòng của các cao tăng khác quần áo “dân sự” phơi phóng khắp nơi, nhiều cao tăng trẻ còn treo vài bộ đồ jean để khi cần có thể dạo phố. Nhiều võ tăng trẻ còn sắm cả dàn máy CD để nghe nhạc nhẹ, nhạc trữ tình!

Điều đặc biệt hơn là bên ngoài sân trước khu thiền phòng còn có khoảng vài chục chiếc xe hơi đủ loại, đủ kiểu, đủ màu sắc, không chỉ là xe của khách mà đa số là xe hơi riêng của các cao tăng trong chùa!
 
J

jeetkunedo_9x

Thiếu Lâm tự - huyền thoại & sự thật (Kỳ 4)



Sư phụ tổng giáo đầu bảo tôi gặp được ngài là do có duyên phận, không phải ai cũng có thể gặp ngài để dập đầu bái sư tu học. Trong những ngày ở Tung Sơn - Thiếu Lâm tự, tôi chưa từng thấy ngài ra chiêu tuyệt kỹ võ công nào, nhưng tuyệt chiêu “công nghệ chiêu sinh” của ngài quả thật thượng thừa!


Bi hài “tu học”
Sau khi để tôi tự do với “nội cung” Thiếu Lâm tự , ngài đưa tôi trở ra ngôi nhà lạnh lẽo gần thị trấn và giới thiệu về các “dịch vụ tu học”.

Sư phụ cho biết: ai cũng tưởng tu luyện Thiếu Lâm là vô chùa, nhưng trong chùa chỉ dành cho 180 cao tăng, những người có duyên phận đặc biệt, do chính sư bác phương trượng Thích Vĩnh Tín phỏng vấn trực tiếp và chọn lựa; thầy cũng có “chân” trong việc tuyển chọn, nhưng điều kiện đầu tiên phải là người Trung Quốc sống ở Trung Quốc!

Tôi là người dị bang ngoại tộc thì chín kiếp nữa cũng không thể lọt vào tầng lớp cao tăng Thiếu Lâm tự. Nhưng sư phụ trấn an ngay: “Đệ tử vẫn có thể tu học qua lớp của thầy mở riêng, học phí vào khoảng 16.000 nhân dân tệ/năm (khoảng 32 triệu đồng), khóa của thầy đào tạo trong hai năm là đảm bảo sẽ được cấp giấy chứng nhận do chính phương trượng trụ trì chùa Thiếu Lâm ký và đóng dấu là có thể về VN mở lò, mở lớp" (!?).

Tôi hỏi: “Thưa sư phụ, có lớp nào rẻ hơn không?”. Thầy liền trợn mắt: “Chỉ riêng tiền ăn uống, trang phục đã là 5.000 tệ rồi, đệ tử là ngoại bang, ăn ở cao cấp hơn, còn kinh kệ, tụng niệm và phải học tiếng Hán nữa!”.

Chỉ riêng tiền trọ học thôi cũng được thầy cho biết là 8.000 tệ/năm. Tiếp lời, sư phụ đưa tôi ra phía sau căn nhà, ở đó có khoảng chừng chục đứa trẻ, tuổi cao nhất cũng chỉ 15-16 đang luyện võ. Sư phụ nói: “Anh sẽ được vào lớp này, ít người dễ học hơn!”.
Tôi như chết đứng giữa Đăng Phong xa lạ, trước một uy danh tối cao như tổng giáo đầu thì không thể xí gạt chuyện vì tò mò mà thâm nhập chốn võ lâm uy nghiêm. Còn tu học ư ? Tôi đâu thể “lục thân khả đoản” (cắt đứt quan hệ với vợ con) tự nhiên bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ vợ, bỏ con leo lên núi cạo đầu đi tu hai năm?

Tôi tìm cách tháo lui nên thưa với thầy: “Xin được cáo lui về thị trấn để gọi điện về nước, vì khi tôi sang còn có mười người bạn cũng nhờ tôi hỏi giá học phí”. Thầy tỏ ra mừng rỡ khi biết còn thêm mười đệ tử sẽ sang: “Ta sẽ giới thiệu đệ tử vào ở khách sạn ba sao của Thiếu Lâm tự quốc tế, bình thường sẽ phải trả 400 tệ/đêm, nhưng người là đệ tử của ta sẽ bớt chỉ còn 250 tệ/đêm, cứ nghỉ ngơi để mai còn làm lễ bái sư, ta sẽ ban cho người một pháp danh...”.

Không biết tôi có đồng ý hay không, ngài sai thư ký Phong mang ra tập hồ sơ to đùng, bảo ghi tên, tuổi, địa chỉ ở VN, đóng dấu ký tên giao biên lai và thu 200 nhân dân tệ, bảo đó là “chi phí ghi danh - kể từ bây giờ người đã là đệ tử của ta”. Thư ký Phong nhanh chóng xách balô ra xe và chở thẳng tôi về “Thiếu Lâm quốc tế khách sạn”!

Ở sảnh lễ tân suýt chút nữa tôi đã chứng kiến đòn Tiên nhân chưởng (chưởng tay tiên) của tổng giáo đầu khi cô gái phương bắc xinh đẹp như người mẫu cao đến thước tám từ chối cho ngài ký giấy bảo lãnh cho chúng tôi vào khách sạn vì không biết ngài là ai (!?).

Đôi tay hộ pháp của ngài cứ bấu lên chiếc quầy đá mà nghiến răng nhìn cô người mẫu lạnh lùng, ngay tại quầy khách sạn cũng treo đầy ảnh của ngài chụp với các lãnh đạo Trung Quốc mà cô gái (chắc cô mới vào làm việc nơi này) vẫn không hay biết. Không lay chuyển được ý chí của “người mẫu”, cuối cùng sư phụ phải đưa giấy chứng minh cao tăng ra trình!

Sáng hôm sau, tôi dậy thật sớm, đón taxi quay trở lại chân núi Tung Sơn để tìm hiểu về hệ thống hơn 40 học viện, đại võ đường Thiếu Lâm tự và đi thăm rừng bảo tháp bằng đá. “Rừng” là nơi có hơn 230 bảo tháp với nhiều hình dạng tròn, vuông, lục giác, tứ giác, bát giác, ngọn cao nhất lên đến 15 thước, là nơi chôn cất những vị cao tăng nổi tiếng từ đời nhà Đường cho đến nay.

Tôi cũng đến thăm Diện Bích động, nơi mà 1.500 năm trước tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đã diện bích cửu niên (ngồi nhìn vào vách đá suốt chín năm trường) để luyện đến tuyệt đỉnh võ thuật truyền cho muôn đời sau… Nhưng đời sau có đạt đến chân truyền thuần khiết?

Vừa về đến phòng khách sạn, tôi đã bật ngửa khi thấy sư phụ tổng giáo đầu và thư ký Phong đang ngồi trong phòng. Sư phụ có vẻ phật ý khi cho biết đã chờ suốt bốn tiếng chỉ để thống nhất ngày giờ làm lễ “dập đầu bái sư” như đã thỏa thuận hôm qua.

Sư phụ nói: “Đó là tục lệ của Thiếu Lâm tự, ai muốn làm đệ tử chân truyền của Thiếu Lâm tự cũng phải làm lễ bái sư dưới sự chứng kiến của các võ sinh đồng môn và phải đặt một phong bì với 1.000 tệ gọi là cúng tổ !”. Anh phiên dịch thật tình muốn giúp tôi nên trả giá: “1.000 tệ là cho cả mười người bạn của anh ấy luôn phải không thầy?”.

Sư phụ suy nghĩ hồi lâu rồi lắc đầu: “Mỗi người 1.000 tệ, không được đại diện!”. Tôi đồng ý sẽ làm lễ bái sư vào tối mai. Sư phụ và thư ký Phong tỏ ra rất hài lòng. Khi thấy tôi bật tivi xem chương trình Fashion TV với những cảnh khá “nóng”, tổng giáo đầu bảo: “Kể từ bây giờ hãy kiêng rượu thịt, trai gái và thuốc lá đi!”.

Mặt trái của huyền thoại…
Tôi thầm cảm ơn thư ký Mã Hải Phong trong những ngày ở Thiếu Lâm tự, bản tính thật thà của anh vô tình đã giúp tôi tìm hiểu khá sâu về cuộc sống đời thực trong thế giới võ lâm đầy huyền thoại này.

Phong cho biết: “Không chỉ riêng tổng giáo đầu mà rất nhiều cao tăng trong chùa Thiếu Lâm đều có đường dây và hệ thống võ đường riêng ở bên ngoài và từ những khoản thu không nhỏ này, nhiều cao tăng đã sắm sửa xe hơi, nhà lầu. Nhiều sư phụ còn có cả đường dây “tuyển sinh” từ Mỹ, châu Âu…”.

Còn khoản thu “bái sư” không nhỏ với những võ đường từ vài trăm đến vài ngàn võ sinh sẽ về tay ai? Phong thật thà cho biết: “Các sư phụ - chủ các võ đường chứ ai! Thầy phương trượng đâu có chủ trương nhận đệ tử lấy tiền như vậy, qui định và tinh thần của Thiếu Lâm tự từ cổ chí kim cũng không như vậy!”.

Bài học từ ngàn xưa của đại sư Thiếu Lâm tự Hạnh Ân vẫn còn lưu giữ trong Tàng Kinh các cho đến hôm nay: “Nếu có một kẻ vô đạo đức đến xin được truyền thụ võ công, ta sẽ không dạy cho hắn điều gì cả , dù kẻ ấy muốn dâng ta ngàn vàng”. Bài học này không biết có thất truyền trước kẻ hậu sinh?...

Làn sóng “dịch vụ” đã làm ngay các cao tăng cũng cảm thấy mình quá xa lạ ngay trên chính ngôi chùa mà họ đã dành trọn cho con đường tu học. Ở nhiều nơi trong khu vực Tung Sơn - Thiếu Lâm tự, tôi bắt gặp nhiều vị tu sĩ được phái ra làm dịch vụ.

Một vị tu sĩ còn khá trẻ cho biết: “Tôi được cha mẹ gửi lên chùa để làm tu sĩ từ năm 10 tuổi, trong ba năm đầu chuyện học tập võ và đạo thì học rất tốt, nhưng không hiểu sao từ khi có làn sóng du lịch tràn về thì tôi thường xuyên bị đưa ra đây bán hàng lưu niệm”.

Hôm tôi mua vé vào xem sân khấu bán nguyệt biểu diễn võ thuật kungfu, các tiểu tăng trẻ luôn bở hơi tai vì những màn biểu diễn liên tục theo vòng xoay của các đoàn khách tham quan. Trên sân khấu rất tươi trẻ và màn nội công của họ rất điệu nghệ, không ai có thể phủ nhận được những đòn khí công, nội công vô cùng điêu luyện nhưng khi ra sau cánh gà thì cũng co ro, xuýt xoa vì lạnh như người phàm - trời bên ngoài âm 50C kia mà từ sáng đến giờ họ đã có đến hơn năm suất diễn rồi!...

Một tiểu tăng mà tôi gặp bên ngoài sau màn biểu diễn cho biết: “Tôi vào chùa từ năm lên tám tuổi, tham gia biểu diễn từ năm lên mười. Bây giờ là mùa đông, khách đến tham quan ít nên còn thời gian tập luyện, nghỉ ngơi, còn mùa hè thì khỏi nói, từ sáng đến tối cứ như một diễn viên thực thụ, không còn đâu thời gian kinh kệ, rèn luyện và nâng cao võ thuật…”.

Tôi cảm thấy đã đến lúc hạ màn “nhập môn” nên thú thật với sư phụ tổng giáo đầu vào giờ chót là chưa chuẩn bị tinh thần để làm lễ bái sư, mà chỉ muốn có một đêm họp mặt, gặp gỡ với các bạn đồng môn nhỏ tuổi, sau tết tôi sẽ cùng nhiều người bạn khác sang nhập học. Và đêm chia tay ấy, một thế giới nhân sinh khác, xúc động hơn nhiều, đã như muốn níu chân tôi...

(*) Tục danh của sư phụ Thích Diên Truyền là Đào Thế Thành, sinh ở huyện Dư Can, tỉnh Giang Tây, năm lên 9 tuổi đã được gia đình đưa vào Thiếu Lâm tự bái sư phương trượng, bắt đầu con đường tu học và được đại hòa thượng ban cho pháp danh Thích Diên Truyền. Năm 1998, sư phụ được cử đi học tại Hạ Môn học viện, sau đó làm hiệp chú (trợ lý) tại Hoàng Mai, Hồ Bắc. Năm 2001 tới Hóa Xương, Hà Nam làm giám viện; năm 2003 trở về Thiếu Lâm tự và được phương trượng chùa Thiếu Lâm cử làm tổng giáo đầu của võ tăng đoàn chuyên lo việc huấn luyện võ thuật và đào tạo nhân tài cho Thiếu Lâm võ môn...
 
J

jeetkunedo_9x

Thiếu Lâm Tự - Huyền thoại & sự thật (Kỳ 5)


Theo lịch hẹn đến 18g mới đến lễ bái sư, nhưng 16g30 sư phụ đã cho thư ký Phong đến phòng khách sạn để đón chúng tôi. Phong nói thẳng: “Sư phụ đã đặt tiệc tại nhà khách thị ủy Đăng Phong, tất cả tốn hết 400 nhân dân tệ, anh thanh toán trước, nhưng ngài rất thất vọng vì anh không chịu bái sư như đã thỏa thuận ban đầu!”.


Những người bạn đồng môn

Đêm bái sư… hụt!
Nhà khách thị ủy Đăng Phong to lớn như một khách sạn, có cả phòng nghỉ, nhà hàng karaoke và cả massage nữa. Cô lễ tân trẻ đẹp hình như quá quen với các cao tăng bên Thiếu Lâm tự nên nhanh chóng bước ra mời sư phụ và tôi vào bên trong phòng kín.
Bên trong phòng vắng lặng, tôi hỏi sư phụ: “Thế các bạn đồng môn của tôi đâu?”. Ngài bảo: “Các môn sinh đang còn luyện tập, đã cho người đi đón từ chiều”. Từ võ đường của sư phụ về đến thị trấn dễ đến năm cây số, các bạn đồng môn của tôi phải chạy bộ dưới trời mưa tuyết để đến dự tiệc!

Tiệc được dọn lên, quả là một sự phung phí cho đêm “bái sư hụt” này: 18 món ăn! Sư phụ, thầy huấn luyện viên trưởng, một võ tăng - bạn sư phụ - tên Úy Tín Lượng và 10 môn sinh của lớp mà tôi được bố trí cùng học. Thầy cho biết nhiều môn sinh khác đã về quê trú đông, lớp chỉ còn 10 môn sinh, số này nhà quá nghèo nên không có tiền đi xe đò về quê.

Thầy giới thiệu sơ qua từng người và bảo với mọi người: “Môn sinh này tên Nguyên, từ VN sang và sẽ nhập học cùng các đệ tử ngay sau Tết Nguyên đán, chúng ta cùng nâng ly nhân buổi ra mắt này…”. Các đệ tử líu ríu nâng cốc rượu, sư phụ lại càng buồn hơn khi cho đến giờ phút này mà tôi vẫn không chạm cốc với ngài bằng hai tay!

Tôi cũng có ý định xem sư phụ có “phá giới” khi trên bàn tiệc có đến 18 món ăn, trong đó không ít thịt, cá, tôm tép. Sư phụ uống rượu và ăn rất khỏe nhưng quả tình không phá giới, chỉ ăn các món chay. Tàu hủ sữa thầy làm một hơi đến bốn bát, tôi ái ngại cho thân hình hộ pháp của ngài trong những giờ luyện tập Ngọa hổ công, Đàn tử quyền, Thiết ngưu công... những tuyệt kỹ cần thân hình gọn nhẹ và nhanh nhạy!

Sư phụ lại khen tôi có ngũ quan tốt và cái tên quá đẹp (làm tôi vô cùng mắc cỡ!). Ngài nhắc tích xưa Trung Hoa về Bình Nguyên Quân của nước Triệu vốn là “tứ đại công tử” thời Xuân Thu Chiến Quốc, sánh vai ngang hàng với Mạnh Thường Quân của nước Tề thuở trước.

Ngài bảo: “Bây giờ người đã là đệ tử của ta, tuy còn chưa làm lễ bái sư nhưng cần phải học ngay câu này “Nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ” (Một ngày cũng là thầy, suốt đời mới là cha). Theo quan niệm của người Hán, mệnh lệnh của sư phụ không thể không làm, lời thầy dạy còn quan trọng hơn cả chiếu chỉ của hoàng đế...!”.

Sư huynh tuổi lên sáu!
Tôi ít chú ý đến sư phụ nữa mà quay sang trò chuyện với các bạn đồng môn. Tôi chú ý đến Tào Cẩm Cường, quê ở Giang Tây, là đồng môn bé nhất trong võ đường, đến tháng ba này chú mới lên sáu tuổi nhưng đã có hơn hai năm là môn sinh dưới bóng “chân truyền” của sư phụ tổng giáo đầu Thích Diên Truyền.

Ngay từ ngày đầu khi gặp gỡ ở võ đường, tôi đã “thất lễ” khi thấy chú quá bé nhỏ - nhỏ như đứa con gái út của tôi nên đã đưa tay vuốt chiếc đầu trọc của chú. Đang vui vẻ, Tào Cẩm Cường gạt phắt tay tôi và xổ một tràng phương ngữ.

Anh Kim Sơn vừa dịch vừa cười: “Anh đã vi phạm giới luật của chốn võ lâm, cho dù anh lớn tuổi đến đâu nhưng đã nhập môn, đã là đệ tử thì anh phải gọi các chú bé này là sư huynh!”.

Suốt hơn hai năm nuôi mộng võ lâm, chưa một lần Tào Cẩm Cường được gặp lại mẹ. Thầy huấn luyện viên trưởng cho biết nhà của Cường nghèo lắm, vì muốn một cuộc đổi đời cho con sau này mà bà mẹ đã bấm bụng chắt chiu 3.000 nhân dân tệ cho con lên Tung Sơn theo học Thiếu Lâm tự, bà cũng chỉ gói ghém đủ cho con ra bến xe và nhờ người đưa đi, bởi đâu đủ tiền để hai mẹ con cùng vượt ngàn cây số.

Các bạn đồng môn kể những ngày đầu lên đây Cường chỉ khóc suốt, không chịu ăn, học hay làm bất cứ thứ gì vì quá nhớ mẹ, như con bê, con cún tuổi còn chưa dứt sữa ai mà không khóc! Hỏi Cường có nhớ mẹ không, chú ngồi thừ người ra và lắc đầu. Hình bóng người mẹ hình như đã phai mờ khi đằng đẵng bao ngày tháng ấy chú không gặp lại. Mẹ chú không lên thăm, cũng không điện thoại, không một dòng thư, chỉ đến kỳ đóng học phí thì bưu điện chuyển lên cho sư phụ vài ngàn tệ!

Các sư huynh nhỏ tuổi của tôi được ăn một bữa ra trò, ngay cả khi sư phụ đã buông đũa thì các sư huynh vẫn còn hồn nhiên đánh chén. Đa số họ hằng năm trời chỉ cơm rau, mì nhạt mà ngày đêm luyện võ trong môi trường vô cùng khắc nghiệt.

Các môn sinh phải thức dậy từ bốn giờ sáng chạy xuống núi, luyện tập sức chịu đựng về thể lực, khí lực trong mọi địa hình, mọi thời tiết dù mưa sa hay tuyết trắng. Hôm lên Tung Sơn, người ta chỉ cho tôi xem hồ Lộng Nguyệt đã đóng băng, nơi này cũng là chỗ các môn sinh Thiếu Lâm ngày đêm ôn luyện Tù thủy công (lội nước) bất kể mùa hè rực nắng hay mùa đông băng tuyết.

Huấn luyện viên trưởng trong hơi men đã thú thật với tôi về tương lai của những sư huynh tuổi lên năm, lên sáu này: “Đa số khi học ra sẽ xin vào làm vệ sĩ cho các công ty tư nhân, nghề này hiện đang hút người ở khắp các tỉnh thành Trung Quốc. Còn nữ võ sinh thì có thể xin vào làm huấn luyện viên thể dục ở các trường tiểu học, nhưng cũng khó lắm vì trong thời buổi hàng vạn thanh thiếu niên từ nông thôn đổ xô về thành thị kiếm việc làm thì ngàn người phải tranh nhau một chỗ làm là chuyện bình thường…”.

Tào Cẩm Cường tỏ vẻ quyến luyến với tôi nhiều hơn trong đêm họp mặt, chú có vẻ buồn khi sư phụ cho biết tôi sẽ về nước và sang năm mới chính thức sang nhập môn. Sư huynh Cường tuy mới lên sáu nhưng không hiểu sao người ta lại bố trí học chữ cùng với mấy “sư huynh” tuổi lên mười, mười lăm nên một chữ Hán chú cũng chưa viết được!

Tôi hỏi Cường có muốn về quê với mẹ không, chú lắc đầu và chỉ vào các sư huynh lớn tuổi khác: “Các sư huynh này đã tu luyện nơi này hàng chục năm, có ai về đâu!”. Tôi biết tâm hồn của chú giờ đây đã dành trọn cho con đường huyền thoại.

Tôi chỉ biết cầu mong cho chú được như chú bé ăn mày Cẩu Tạp Chủng - Thạch Phá Thiên nghèo nàn, thất học trong Hiệp khách hành của Kim Dung, qua mặt hàng trăm võ tăng Thiếu Lâm, chưởng môn phái Võ Đang, bang chủ Cái Bang hơn 40 năm cố tình tranh đoạt cảnh giới tối cao võ công. Cẩu Tạp Chủng chỉ ngắm bức tranh của Lý Bạch ẩn chứa thần công tuyệt thế trên đảo Hiệp Khách mà vô tình luyện tới cảnh giới tối cao của võ công…

Tôi cũng không hiểu sao mình lại quyến luyến các sư huynh nhỏ tuổi mà hồn nhiên đến thế, tình cảm mà tôi chưa từng có được nơi tổng giáo đầu. Đêm như dài hơn, những cái bắt tay lại càng bịn rịn.

Sư huynh Hoàng Lượng Sảng, 15 tuổi, nắm chặt tay tôi khi tôi gửi tặng các sư huynh vài món quà trẻ con như bánh trái: “Thôi đệ về đi, sang năm lại sang để huynh đệ ta cùng ôn luyện võ công…”. Nhìn cảnh các sư huynh co ro chạy bộ bước ngắn bước dài về lại núi Tung Sơn dưới nền tuyết trắng, tôi biết mình đã có lỗi khi nói dối các sư huynh nhỏ tuổi này…
 
J

jeetkunedo_9x

Thiếu Lâm Tự - Huyền thoại & sự thật (Kỳ cuối)



Qua nhiều thăng trầm động loạn, Thiếu Lâm tự đã từng là nơi binh đao, máu lửa, nơi quan quân triều đình và cả các môn phái khác muốn hạ bệ vị trí “bá chủ võ lâm” của Thiếu Lâm tự trong chốn giang hồ.


Nhiều cao tăng đã xả thân hoặc lên núi ẩn cư để giữ gìn tinh thần của tổ sư để lại - vừa bảo tồn vừa sáng tạo nên nhiều lối luyện công vô cùng huyền ảo. Nhưng cũng có lúc Thiếu Lâm tự vượt ra khỏi tầm kiểm soát của các phương trượng đại sư...

“Thương hiệu luận kiếm”!

Mùa thu năm 1333 vào đời vua Huệ Tông (Thuận Đế) nhà Nguyên, để chỉnh lý nội bộ Thiếu Lâm đã phát triển môn phái ra ngoài tầm kiểm soát, bốn vị trưởng lão tiền bối đã ẩn cư hơn 20 năm trong núi sâu đã xuất hiện giữa sân Tàng Kinh Các để triệu tập đại hội với sự chủ trì của thiền sư phương trượng Nguyên Hạnh. 700 trưởng tràng chi nhánh, các tân môn, cựu môn, quan nhân… đã về dự.
Thiền sư phương trượng đã cảnh cáo các võ sư nguyên là võ tăng Thiếu Lâm tự xuất chánh tự ý mở dạy bừa bãi kungfu, tuyệt kỹ làm ô uế, mai một uy danh của “ngôi sao Bắc Đẩu chốn võ lâm”. Cũng trong kỳ đại hội chỉnh lý này, các sư trưởng và các võ tăng xuất chánh đã tổng kết từ hàng ngàn phương pháp, cách thức, bí quyết luyện Thiếu Lâm khắp nơi thành pho 72 tuyệt kỹ (thất thập nhị huyền công niên tuyệt kỹ).

Người trong chốn giang hồ chỉ cần luyện một trong 72 tuyệt kỹ cũng đủ để lập ra một võ phái. Từ xưa đến nay sử sách chỉ ghi lại một cao tăng Thiếu Lâm luyện được đến bảy tuyệt kỹ và được phong là kỳ nhân trong giới võ lâm Trung Hoa…

Ngày nay, ngôi chùa cũng như huyền thoại về võ thuật Thiếu Lâm được nâng lên một mức cao hơn và bị thương mại hóa một cách triệt để, nói trắng ra người ta đang khai thác thương hiệu này như muốn vắt kiệt tất cả nội công thâm hậu của nó.

Chỉ riêng tại Trung Quốc đã có đến gần 60 nhãn hiệu, thương hiệu sử dụng “mác” Thiếu Lâm tự; từ bia, rượu, quần áo, thuốc lá, nhà hàng, khách sạn cho đến hàng gia dụng, mỹ phẩm, xe hơi, vỏ xe, hải sản, đồ trang trí nội thất... cũng đều sử dụng cái tên “Thiếu Lâm tự”!

Chỉ riêng tại Đăng Phong - cái nôi của Thiếu Lâm tự - đã có hàng chục võ đường, học viện mang tên Thiếu Lâm tự mà chính tổng giáo đầu Thích Diên Truyền cũng không thể cho tôi biết cái nào là “chân truyền”, cái nào “ngụy phái” - ngay cả quán xá, quán nhậu ở thị trấn này cũng vô số bảng hiệu đàng hoàng treo biển Thiếu Lâm.

Nhiều người Trung Quốc mà tôi đã gặp đều cho rằng cái tên Thiếu Lâm tự đang là “cái máy thu tiền” của nhiều người trong khi họ chẳng hiểu chút gì về võ thuật cũng như không liên quan gì đến ngôi chùa hay cao tăng.

Trong nước chưa đối phó được với nạn “tước đoạt bản quyền” thì ở nước ngoài, thương hiệu Thiếu Lâm tự cũng xô bồ không kém với hàng trăm sản phẩm, nhãn hiệu, nhiều ngôi chùa, võ đường mang tên Thiếu Lâm tự cũng đã đường hoàng mọc lên, thậm chí còn được cấp cả “thương hiệu độc quyền”.

Theo một báo cáo của Văn phòng luật bản quyền và thương hiệu Trung Quốc, chỉ qua một cuộc khảo sát đã cho thấy có đến 117 thương hiệu “Thiếu Lâm Tự” được đăng ký “độc quyền” tại 11 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngay cả thương hiệu chùa mang tên “Thiếu Lâm tự” cũng đã được đăng ký tại ít nhất ba ngôi chùa ở bờ tây nước Mỹ, còn các nước tại châu Âu, châu Á thì không thể thống kê được.

Sư phụ Thích Diên Truyền cũng thừa nhận việc này khi cho tôi biết: hôm võ tăng đoàn của chính chùa Thiếu Lâm sang Mỹ biểu diễn, họ bị chính quyền chặn lại vì đã có người nắm giữ thương hiệu này tại địa phương rồi và cáo buộc chúng tôi vi phạm bản quyền!
Ngay chính “đệ nhất chân truyền” của tổ sư Bồ Đề Đạt Ma mà còn bị “cấm cửa” bởi hàng rào luật pháp quốc tế thì quả là một cuộc “hoa sơn luận kiếm” mới lại bắt đầu nảy lửa binh đao với “thương hiệu Thiếu Lâm Tự… luận kiếm!”.

Chỉ riêng con đường từ thị trấn Đăng Phong lên chùa Thiếu Lâm có đến hơn 40 học viện, đại võ đường thu nhận hàng vạn võ sinh, nhưng rất ít nơi được Công ty Thiếu Lâm Tự cấp phép




Công nghiệp khai thác huyền thoại

Nhiều người dân ở Đăng Phong thầm cảm ơn về sự phát triển của thị trấn, từ một vùng đất miền núi nghèo nàn vài năm trước, nay Đăng Phong đang đứng trước ngưỡng cửa một thành phố công nghiệp - một nền công nghiệp duy nhất: công nghiệp khai thác huyền thoại võ thuật Thiếu Lâm tự.

Từ Đăng Phong kéo dài lên đến chùa Thiếu Lâm không biết cơ man nào là thương hiệu mang tên Thiếu Lâm Tự và hàng trăm lớp võ, võ đường, học viện từ bình dân ổ chuột đến cao cấp như một khách sạn hai, ba sao…

Vào mùa hè, mỗi ngày có đến hàng đoàn xe buýt đổ khách ồ ạt lên Thiếu Lâm tự, khách muốn vào tham quan ngôi cổ tự ngàn năm này phải mua vé 20 nhân dân tệ (phí thuyết minh, xem thi đấu, xe vận chuyển, cáp treo... trả riêng).

Chính quyền địa phương cũng vừa cho xây dựng hệ thống nhà bán hàng lưu niệm, nhà hàng, bãi đậu xe với sức chứa hàng chục ngàn người dưới chân Tung Sơn - con đường dẫn vào ngôi chùa cổ kính ngàn năm bây giờ quả hiện đại và to lớn như một đại công viên hoành tráng, thậm chí hoành tráng đến mức nhiều người đã đến trước cổng tam quan nhỏ bé của Thiếu Lâm tự nằm khuất sau những tàng cây mà vẫn hỏi: “Tới chùa chưa?”.

Công nghiệp khai thác huyền thoại đã lấn át tinh thần thượng võ ngàn đời của Thiếu Lâm Tự!

Lần đầu tiên khi nghe đến cái tên Công ty Thiếu Lâm Tự, tôi đã nghĩ có kẻ nào lại mạo danh để đoạt thương hiệu của các cao tăng chùa Thiếu Lâm. Nhưng chính tổng giáo đầu Thích Diên Truyền bảo đó là chuyện nghiêm túc: đây là công ty do chính các cao tăng chùa Thiếu Lâm lập nên để bảo vệ thương hiệu. Tên gọi chính thức là Công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển công nghệ Thiếu Lâm Tự Tung Sơn - Hà Nam.

Công ty Thiếu Lâm Tự đã đệ đơn xin đăng ký bản quyền thương hiệu chính thức tại 88 quốc gia - đây được xem là đòn tuyệt kỹ cuối cùng của các cao tăng chùa Thiếu Lâm nhằm giành lại thương hiệu đã bị các “ngụy phái” tước đoạt.

Tổng giáo đầu Thích Diên Truyền cho biết thêm: Công ty Thiếu Lâm Tự đã khởi kiện một số cá nhân, đơn vị trong tỉnh Hà Nam ra tòa, việc phán quyết của tòa chưa ngã ngũ nên cũng chưa biết việc bồi hoàn sẽ ra sao, nhưng chắc chắn họ sẽ phải tháo bảng hiệu, kể cả những học viện, võ đường do chính các cựu cao tăng đứng ra mở vì nó đã không còn là “chân truyền”.

Khi tôi nói có rất nhiều võ đường tại VN cũng mang tên Thiếu Lâm Tự, tổng giáo đầu cho biết hiện Công ty Thiếu Lâm Tự chưa đăng ký bảo hộ thương hiệu tại VN, nhưng trong tương lai chỉ có võ đường nào được cấp giấy chứng nhận của Công ty Thiếu Lâm Tự mới được trương bảng hiệu! Công ty Thiếu Lâm Tự ngoài việc đăng ký độc quyền tổ chức huấn luyện võ thuật, tu học, biểu diễn kungfu trên khắp thế giới, còn có chức năng kinh doanh đủ các ngành nghề mà đời sống thế tục cho phép.

Chưa hết, Thiếu Lâm tự cũng đã trình lên Tổ chức UNESCO xin được xếp chùa này vào danh sách di sản văn hóa của nhân loại...

Mức độ khai thác Thiếu Lâm tự hôm nay thật khủng khiếp! Các cao tăng tuy nội công, khí công vô cùng thâm hậu, kinh kệ thông suốt hơn người nhưng vẫn bị cuốn vào vòng xoáy của cỗ máy kinh doanh.

Tôi không thể nào quên ánh mắt của vị cao tăng già trừng trừng trút giận vào tôi khi tôi cố chụp ảnh ngài đang phụ giúp một tiểu tăng bán những món hàng lưu niệm cho du khách ở chùa Thiếu Lâm.

Chính làn sóng du lịch, mức độ khai thác hình bóng huyền thoại ngôi chùa, khai thác kungfu cao cường của các cao tăng ở mức độ khủng khiếp này đã làm cho họ trở nên xa lạ trên chính nơi mà họ đã chọn gửi gắm kiếp tu hành từ tấm bé...

Giấy hẹn ngày trở lại nhập môn Thiếu Lâm tự tôi đã bỏ lại Đăng Phong. Tôi đang cố quên tất cả, quên đi thực tế hôm nay, để chỉ giữ lại những hình bóng huyền thoại, dẫu là huyền thoại cũng vẫn cuốn hút hơn nhiều…
 
J

jeetkunedo_9x

Phong cách, đặc điểm quyền thuật Thiếu Lâm

Phong cách, đặc điểm quyền thuật Thiếu Lâm

http://www.vothuat.net.vn/Web/?jumpto=article&articleid=935

1) Trọng thực chiến, đơn giản không hoa mỹ
Trọng thực chiến, đơn giản không khoa trương” là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của quyền thuật Thiếu Lâm. Sự hình thành và chức năng của quyền thuật Thiếu Lâm có mối quan hệ mật thiết với chính trị xã hội, quân sự và đời sống hiện thực. Vì vậy có thể nói, võ thuật chính là văn hóa, hơn nữa đó là văn hóa nhân sinh hết sức lý thú.

a) Mối quan hệ thực chiến và bối cảnh xã hội:
“Tăng nhân bản chất vốn không động đến võ thuật mà chỉ hành thiện, từ bi vi hoài, phổ độ chúng sinh, vậy vì sao lại phải dùng đến võ? Sử dụng, đao, kiếm, côn, thương…?” Đó là vì do sự ảnh hưởng trực tiếp của chính trị, xã hội, quân sự và tự viện. Thiếu Lâm Tự ngay từ thời nhà Tùy đã có đất đai rộng lớn, hàng năm bội thu, hương hỏa thịnh vượng…trở thành mục tiêu của giặc cướp. Nhằm bảo vệ sự an toàn và sinh tồn của Thiếu Lâm Tự, các sư tăng đã tổ chức huấn luyện võ nghệ cho các tăng nhân trẻ tuổi. Trong quá trình tập luyện võ thuật, võ tăng đều xuất phát từ thực tế chiến đấu, khổ luyện kungfu, mỗi chiêu thức đều mạnh, chuẩn, hiểm ác…nhằm hạ gục địch thủ. Năm này qua năm khác, võ tăng không mấy quan tâm đến việc chiêu thức đó đẹp hay không đẹp, nghĩa là không cần đến sự mỹ miều mà chỉ chú trọng đến hiệu quả thực chiến của nó.

b) Mối quan hệ thực chiến với chính trị quân sự:
Quyền Phổ có ghi: “ Quyền là nguồn gốc của mọi nghệ (võ), thập bát ban binh khí được phát triển là dựa trên các động tác thao lu của quyền thuật. Cuối đời nhà Tùy, Võ Đức năm thứ 3 ( năm 620), Trịnh vương Thế Xung và Tần vương Lý Thế Dân giao chiến ở phía Đông, Thiếu Lâm Tự phái Đàn Tông dẫn 13 võ tăng phục kích, đánh bại quân Trịnh, cứu Lý Thế Xung, diệt nhà Tùy lập nên nhà Đường. Qua sự kiện này mà Thiếu Lâm Tự được vua Đường ban thưởng hậu hĩnh, đất đai được mở rộng thêm, phong Đàn Tông làm Đại Tướng Quân, phê chuẩn thường xuyên dự bị 500 võ tăng, Thiếu Lâm Tự từ đó công khai tham dự vào chính trị, thanh danh vang tứ phương”.
Đến các triều đại Tống, Nguyên, Minh, võ tăng Thiếu Lâm Tự chỉ có tăng mà không có giảm. Đặc biệt là vào đời nhà Minh, số lượng võ tăng đã có đến hơn 2000 người. Từ đời vua Gia Tĩnh (Minh) đến đời vua Thành Hóa, trong vòng 100 năm, Thiếu Lâm Tự đã phái hàng chục võ tăng tổ chức nhiều chống quân xâm lược phong kiến Nhật Bản. Trong giai đoạn này, võ tăng Thiếu Lâm đã thể nghiệm được tính chất quan trọng của võ thuật thực chiến. Các giáo đầu Thiếu Lâm khi truyền dạy võ thuật cho tăng nhân chỉ nhấn mạnh đến các chiêu thức thực chiến, không truyền dạy hay quan tâm đến sự mỹ miều, cũng chính là làm cho võ tăng hiểu được ai luyện một cách hoa mỹ thì người đó sẽ chịu thiệt, ai luyện được bản lĩnh thực chiến thì người đó sẽ có kungfu “cứng”.

c) Mối quan hệ thực chiến với các môn phái võ thuật
Kể từ đời vua Thái Hòa – Bắc Ngụy (496), sau khi hòa thượng Tăng Chu thành danh, vào các thời kỳ sau đều có nhiều tăng nhân mới khác, đem võ nghệ của mình vào Thiếu Lâm Tự. Ví dụ như vào năm Đại Nghiệp thứ 20 nhà Tùy, có võ tăng Thần Tú – đệ tử của hòa thượng Hoằng Nhẫn, hòa thượng Viên Tĩnh đời nhà Đường, đời nhà Tống có Kim Lăng, thời Ngũ Đại có Ngọc Phong, thời Minh có Tuyết Cư, thời Thanh có Hải Linh…trước khi xuất gia, họ đều là những người có võ công của nhiều môn phái võ khác nhau. Sau khi vào Thiếu Lâm Tự, các hòa thượng này không ngừng giao lưu với các võ tăng khác, có thể nói võ thuật Thiếu Lâm có cơ hội tốt để hấp thu các tinh hoa của võ thuật dân gian, qua đó nâng cao tính thực chiến. Đặc biệt là hòa thượng Phúc Cư thời nhà Tống đã hội tụ 18 đại cao thủ võ thuật trong dân gian đến Thiếu Lâm Tự giao lưu võ nghệ, qua đó ông đã biên soạn ra quyền phổ, tạo điều kiện cho thao lu quyền thuật Thiếu Lâm có thêm đà phát triển

d) Mối quan hệ thực chiến với cuộc sống thực tại
Trong đời sống thường ngày, võ thuật mang hai ý nghĩa. Một là, kiện thân, tăng cường sức khỏe, có thể sử dụng chiêu thức, quyền cước hoa mỹ. Hai là, biểu diễn, đem lại sự thưởng thức cao đẹp đối với người xem. Những điều này có thể đem lại niềm say mê của mọi người đối với võ thuật. Nhưng đối với tầng lớp thanh thiếu niên thì đại đa số tập võ là nhằm sử dụng để tự vệ, phòng thân. Nói một cách cụ thể, đó là sử dụng kungfu “cứng”, gặp những kẻ hung bạo, đứng trước nguy cơ thiệt mạng mà nếu luyện võ chỉ nhằm mục đích hoa mỹ thì đối phó sẽ trở nên khó khăn. Điều này đã khiến cho những người tập võ thuật Thiếu Lâm quyết tâm khổ luyện bản lĩnh thực chiến.

2) Quyền đi theo đường thẳng
Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy nhất và cũng là dễ phân biệt nhất giữa phong cách võ thuật Thiếu Lâm với các môn phái võ thuật khác. Nghĩa là mỗi một bài quyền Thiếu Lâm từ khởi thức cho đến thu thức đều luôn duy trì hướng vận động theo một đường thẳng. Kiểu vận động này hết sức có lợi đối với việc gia tốc, qua đó ảnh hưởng tích cực đến thực chiến ( Trong thực chiến, tốc độ được coi là trên nhất).


3) Phi khúc phi trực (Không cong, không thẳng)
‘ Phi khúc phi trực” chủ yếu chỉ đặc điểm thủ pháp. Khi xuất quyền hoặc xuất chưởng tấn công đối phương, yêu cầu cánh tay thẳng mà không thẳng, cong mà không cong, Bởi vì nếu cánh tay thẳng quá thì các mạch, gân, sẽ trở nên căng, không những dễ bị phản công mà còn gây bất lợi khi thu về. Ngược lại nếu cánh tay cong quá thì vừa không có sức mạnh, vừa làm mất đi cự li có thể đánh vào bô vị yếu hại của đối phương. Vì vậy trong quá trình luyện tập trường kỳ, các võ tăng đã đúc kết được kinh nghiệm ‘phi khúc phi trực”, có lợi cho cả tấn công lẫn phòng thủ, linh hoạt vận dụng

4) Cổn nhập xuất
“ Cổn nhập xuất” là chỉ khi xuất quyền hoặc xuất chưởng thì cánh tay cần phải xoay vòng, thể hiện la hoàn kình để tấn công đối phương. Đặc điểm của nó là, mượn đà xoay chuyển, điều khí ở Đan Điền, trợ lực cho cánh tay đánh vào bộ vị yếu hại của đối phương.


5) Quyền đánh “ngọa ngưu chi địa”
“Ngọa ngưu chi địa” nghĩa là nơi trâu nằm. Đây là chỉ đến phạm vi hoạt động của quyền thuật Thiếu Lâm. Thiếu Lâm quyền không cần những nơi đất rộng mới có thể diễn luyện được mà chỉ cần một phạm vi không gian nhỏ hẹp là có thể thực hiện được. Thiếu Lâm quyền không chịu sự ràng buộc về sân bãi, ở mọi nơi, mọi chỗ đều có thể phát huy được uy lực

6) Thiền Võ hợp nhất
Thiếu Lâm Tự là tổ đình của Phật giáo Thiền Tông. Tư tưởng Thiền Tông không những ảnh hưởng đến đời sống của tăng nhân mà còn ảnh hưởng đến phong cách, đặc điểm của quyền thuật Thiếu Lâm. Mỗi một bài quyền Thiếu Lâm đều chứa đựng những triết lý của Phật giáo, coi “tâm” pháp là chiến thuật phi “hình” pháp. Sự vận động của những động tác trong từng bài quyền đều nằm dưới sự chi phối hay trạng thái Thiền định, ví dụ như chắp tay kính lễ , “Đồng tử bái Quan Âm”, “Thiên Địa hợp nhất”…

 
J

jeetkunedo_9x

Võ công Việt Nam



Có lẽ trên thế giới, không có quốc gia nào có nhiều môn phái võ thuật như ở Việt nam. Cho đến tận bây giờ, dù cố gắng hết mức, Liên đoàn Võ thuật Việt Nam cũng chưa thể tập họp và thống kê hết các môn phái võ xuất xứ trong nước. Hàng trăm môn phái trãi dài từ Bắc đến Nam cho thấy tâm hồn Việt có tinh thần thượng võ cao ngút. Có võ phái lấy chân lý “tuyệt kỹ bế môn”, âm thầm khiêm tốn nơi thâm sơn cùng cốc nên thất truyền. Có võ phái mang màu sắc tâm linh huyền bí, không truyền thụ rộng rãi dẫn đến “bế truyền”, nhưng cũng có võ phái “trời ơi đất hỡi” không biết xuất xứ từ đâu, tự đến rồi đi, mất dạng giữa biển đời. Lại có võ phái xuất xứ từ … một ngày đẹp trời nào đó, có anh chàng mê kiếm hiệp bỗng xuất thần sáng tác vài đường quyền rồi vỗ ngực xưng tên “đại môn phái”.

RỪNG VÕ

Một danh sư làng võ cổ truyền Việt Nam cho rằng, đất nước ta có 5 hệ phái chính gồm: Bắc Hà, Bình Định, Nam Bộ, Trung Hoa và các hệ phái võ Việt đang phát triển ở nước ngoài. Nhiều bậc danh sư không đồng tình. Vì võ Việt ở nước ngoài bắt nguồn từ Việt Nam, hà tất phải xếp thành một hệ phái. Một danh sư nỗi tiếng với ngón “liên hoàn cước” thì chia võ Việt thành 4 hệ phái:

- Xuất xứ tại Việt Nam, có ông tổ là người người Việt Nam.

- Xuất xứ tại Việt Nam nhưng ông tổ là người nước ngoài lưu lạc đến Việt Nam.

- Xuất xứ tại Việt Nam, ông tổ là người Việt Nam nhưng có pha trộn chiêu thức từ võ nước ngoài.

- Xuất xứ tại Việt Nam nhưng ông tổ là… nhà văn Kim Dung!

Trong phạm vi bài này không bàn đến các hệ phái võ xuất xứ từ nước ngoài.

Ba hệ phái trên đều được xã hội trải nghiệm nhiều năm. Những hệ phái này có võ đạo, võ thuyết, võ pháp và được người đời tôn vinh, truyền tụng. Riêng hệ phái thứ tư mới làm những nhà nghiên cứu đau đầu. Hệ phái này sinh sau đẻ muộn nhưng luôn đòi hỏi các nhà nghiên cứu “phải đưa em vào danh phái xứ Nam”. Đó cũng là một phần lý do mấy chục năm nay, võ cổ truyền Việt Nam chưa có tiếng nói chung, chưa định hình được “võ Việt Nam là võ gì?”.

Hầu hết các danh sư đều ngại đụng chạm nên không thể nêu tên đích danh. Tất cả họ đều nhất trí với nhau rằng, đã gọi là võ học phải hội đủ 3 yếu tố chính: Võ đạo, võ thuyết và võ pháp. Nếu thiếu một trong 3 yếu tố ấy thì không thể gọi là võ thuật mà chỉ đáng gọi là võ biền. Một hệ phái võ chỉ biết đánh đấm mà không hiểu đánh vào cái gì, tại sao đánh như vậy thì chỉ đáng gọi là đánh cuội.
Ngay như võ vật Liễu Đôi xuất xứ từ Hà Nam cũng có 3 yếu tố chính. Đạo: Rèn luyện thân thể. Thuyết: Mượn sức người vật người. Pháp: Lừa miếng.

Võ Nhất Nam ở Thanh Hoá và Nghệ An xuất thân từ cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông cũng có tiêu chí rõ rệt về võ thuật.

Võ Bình Định xuất xứ từ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, đến nay đã truyền được hơn 20 đời truyền nhân vẫn giữ nguyên giá trị võ học.

Riêng võ thuật Nam Bộ rất đa dạng phong phú với nhiều hệ phái do sự pha trộn văn hoá giữa các quốc gia. Văn hoá Việt và Chămpa từ miền Trung di cư vào. Văn hoá Miên (Campuchia) và Xiêm (Thái Lan) từ hướng Tây qua. Văn hoá Trung Hoa từ cực Nam do Mạc Cửu đi lên. Võ thuật cũng ảnh hưởng sự pha trộn văn hoá ấy tạo thành rừng võ xuất xứ từ miền Nam với những hệ phái vang danh: Tân Khánh Bà Trà; Gò công, Thất Sơn võ đạo; Sơn Trà kha; Pali thần quyền…

Những hệ phái có xuất xứ từ miền Tây, hầu hết điều có liên quan đến các cuộc khởi nghĩa yêu nước như Trương Định (Gò Công), Trần Văn Thành (Thất Sơn võ đạo)…

Miền Nam xưa có các danh sư được xã hội công nhận và tôn vinh: “Tam nhật, tam nguyệt, tứ tú”. Tam nhật gồm: Hàn Bái, Bá Cát, Bảy Mùa. Tam nguyệt gồm: Trương Thanh Đăng, Quách Văn Kế, Vũ Bá Oai. Tứ tú gồm: Hồ Lành, Trần Sil, Xuân Bình và Lý Huỳnh.
Nhiều phái võ Việt không chỉ rạng danh ở quê nhà mà còn được các Trưởng chi quảngbá, truyền thụ ở nước ngoài tạo thành tên tuổi.
Việt Võ Đạo, còn gọi là Vo Vi Nam do danh sư Nguyễn Công Tốt sáng lập dựa trên những tinh hoa các phái võ nước ngoài. Võ phái này sử dụng các chiêu thức hay của nước ngoài biến thành những chiêu thức phù hợp với thể chất người Việt. Hiện nay, các môn đệ của ông đã thu hút hàng ngàn võ sinh trên 10 quốc gia trên thế giới (*). Nhiều phái võ Việt khác như Cửu Long, Nam Hổ Quyền, Song Klong Khiên, Tây Sơn, Nam Hải phát triễn mạnh ở các nước phương Tây, thu hút gần 20.000 võ sinh, tạo nên một phong trào võ Việt sôi nổi. Tinh thần thượng võ của người Việt đã được các chưởng môn, trưởng chi chứng minh ở nước ngoài rất phong phú. Nhiều danh sư được các quốc gia trao cờ, khen tặng...

VÕ THUẬT MIỀN TÂY NAM BỘ XƯA

Từ thuở mở đất tiền về phương Nam, do chống chọi với thiên nhiên, thú dữ và cướp phỉ, người Việt nơi đây đã sáng lập nhiều môn phái võ mang tính chiến đấu cao như Tân Khánh Bà Trà, Gò Công, Thất Sơn võ đạo….

Do ảnh hưởng phong trào kháng Pháp, nhiều chí sỹ khóc hận nước mất nhà tan đã lánh vào rừng sâu núi thẳm rèn binh chờ cơ hội cứu nước nên khắp miền Nam thuở trước, vùng nào cũng có một hệ phái ra đời. Ở vùng Thất Sơn - Nơi chưởng cơ Trần Văn Thành tụ nghĩa kháng chiến đã có hàng chục hệ phái xuất hiện.

Một số Chưởng môn truyền nhân của các hệ phái đều nhắc đến ông tổ Cử Đa - Một nhà sư tay không đã hổ ở núi Thiên Cấm Sơn. Cũng có thể đó là ông tổ chung nhiều môn phái võ có xuất xứ ở vùng thất sơn.

Tương truyền, ông Cử Đa là một trong số chỉ huy của Chưởng cơ Thành. Khi nghĩa quân bị thực dân Pháp đàn áp, các vị chỉ huy nghĩa quân phân tán lực lượngvao các cánh rừng già để bào toàn lực lượng và chờ đợi người liên lạc của Chưởng cơ Thành. Họ không ngờ rằng chủ soái đã bị giặc bắt và tử hình. Với quân số ít ỏi, Cử Đa không thể làm được gì ngoài việc chiêu mộ thêm nghĩa quân và ngày đêm luyện tập võ nghệ. Do ảnh hưởng tín ngưỡng và điều kiện rèn quân nên hệ phái tổ sư Cử Đa có võ pháp nghiêng về các thế tấn công quyền pháp và binh khí. Về võ đạo, hệ phái tôn vinh tinh thần dân tộc, chống ngoại xâm và tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh sư phụ (chỉ huy) bằng lời thề độc khi nhập môn. Về võ thuyết, hệ phái này lấy niềm tin từ “cõi âm”, vì vậy, ngoài những bài tập rèn luyện về thể chất, võ sinh còn phải luyện bùa, phép, ngải, chú. Do sống trong vùng rừng thiên nước độc, không có giấy tờ ghi chép nên các võ sinh chỉ học bằng cách truyền khẩu. Sau này, các đệ tử (Nghĩa quân) của tổ sư Cử Đa tiếp tục đi khắp nơi chiêu mộ nghĩa quân, chiêu mộ đến đâu huấn luyện võ thuật đến đó. Vì lưu trữ kiến thức võ học bằng trí nhớ nên chuyện tam sao thất bồn là lẽ đương nhiên. Sau nhiều thế hệ nối tiếp, dần dà, Thất Sơn võ phái biến thành nhiều chi phái khác nhau. Có nhiều chi Thất Sơn nhưng hầu hết đều không nhận ra bài quyền nào của nhau. Thậm chí có chi phái hoàn toàn không luyện đòn thế mà chỉ chú tâm vào huyền thuật, gọi là chi phái “thần quyền”. Khoảng thập niên 70 của thế kỷ trước, nhiều người đã cố công sưu tầm, tập hợp các tinh hoa của tổ sư Cử Đa nhưng chưa thành công đã giài tán do chiến tranh.

Ở Gò Công có hệ phái Lâm Sơn phát nguôn từ lực lượng kháng chiến của Trương Định. Sau nhiều thế hệ truyền nhân, hệ phái này cũng phân mảnh thành nhiều chi phái khác nhau.


 
J

jeetkunedo_9x

KỲ TÍCH VÀ HUYỀN THOẠI



Một danh sư Thất Sơn võ đạo đã mai danh tại Long Xuyên, cho biết: “Ngày xưa (đầu thế kỷ 20) tỷ thí võ đài không như bây giờ. Do nhiều hệ phái, chi phái xuất sơn hoà nhập với cộng đồng, ai cũng muốn phái của mình là đệ nhất võ lâm nên các võ sư thường tổ chức tỷ thí võ đài để tranh ngôi cao thấp. Vì vậy, nhiều cuộc thư hùng tranh tài cao thấp đã diễn ra”.



Thông thường, các võ sỹ không bao giờ dám tỷ thí võ đài nếu không có sự đồng ý của sư phụ.



Tỷ thí võ đài ngày xưa khác xa với đấu võ đài ngày nay như một số người lầm tưởng.



Ngày xưa, những cuộc tỷ thí võ đài thường do sư phụ, huynh trưởng của môn phái này với môn phái kia hoặc chi phái này với chi phái kia “thách thức” nhau. Họ chọn một bãi đất trống giăng dây hoặc vẽ vòng trên mặt đất. Trước mỗi trận thư hùng, hai bên đều lập bàn thờ tổ tại đài võ, khấn vái. Sau đó, sư phu hoặc huynh trưởng mỗi bên lập bản giao kèo, quy ước. Bên cạnh là hai chiếc quan tài để sẵn.



Trận thư hùng giữa võ phái thần quyền Thất Sơn ở cù lao Ông Chưởng và võ phái Trà Kha ở Bạc Liêu được võ sư Ba ở Cao Lãnh, Đồng Tháp kể lại: “Lúc đó, tôi 15 tuổi vừa nhập môn bái sư võ phái Thất Sơn vài ngày. Sư phụ tôi là Bảy Hớn. Nghe mấy huynh trưởng kể lại, mấy ngày trước, khi mọi người đang luyện võ thì một người gốc Miên xuất hiện xin gặp sư phụ. Người này tên No Sa Dăm là môn đệ của võ sư No Sa gốc Nam Vang đang mở võ đường ở Bạc Liêu. Họ nghe danh Thất Sơn Thần quyền đã lâu, nay muốn thí võ đài để học hỏi. Sư phụ tôi nhận lời. Bữa tỷ thí võ đài, bà con nghe tin chèo xuồng kéo đến coi cả ngàn người. Theo giao kèo giữa hai sư phụ thì, mỗi bên chọn ra 5 võ sỹ đấu thành 5 cặp. Võ sỹ bên nào văng ra khỏi vòng vẽ, xem như thua. Võ sỹ bên nào đo ván, lưng chạm đất, xem như thua. Võ sỹ bên nào đưa một cánh tay lên trời xem như xin thua. Đấu không nghỉ giải lao, đến khi có người thắng kẻ thua mới kết thúc trận. Bên nào có người bị thương, bị chết tự lo liệu thuốc men, chôn cất, không bên nào được thưa kiện ra Chánh quyền thuộc Pháp. Nếu bị pháp luật truy cứu, bên này phải làm tờ bãi nại cho bên kia. Hai bên đấu với nhau chỉ vì sỹ diện môn phái chứ không mua bán, tranh chấp gì cả. Sư phụ tôi lựa 5 đệ tử giỏi nhất ra đấu. Kết quả, phía Thất Sơn 1 người bị gãy tay, 1 người bể be sườn. Phía Trà Kha 2 người gãy chân, 1 người bất tỉnh. Thất Sơn Thần quyền có chiêu phá mã, còn phía gồng Trà Kha thì có chiêu khóa tay vật. Xem như hai bên bất phân thắng bại hẹn sẽ có dịp tái đấu. Sau đó cánh mạng tháng 8 bùng nổ, hai bên không có dịp gặp lại nhau. Sau này nghe nói No Sa Dăm đào tạo được rất nhiều thế hệ võ sỹ giỏi. Học trò của No Sa Dăm đào tạo được những võ sỹ nỗi tiếng sau năm 1975 như No Sa Long, No Sa Liên…”. Năm 1973, võ sư Ba có dịp gặp lại võ sư No Sa tại Sài Gòn. Lúc bấy giờ No Sa là huyến luyện viên trưởng đoàn võ thuật Caqmpuchia dẫn đoàn võ sỹ Campuchia sang đấu võ đài do Tổng hội võ thuật Sài Gòn tổ chức.



Sau này, vào khoảng thập niên 60 thế kỷ 20, những cuộc tỷ thí chết chóc không được tổ chức nữa mà chỉ tổ chức đấu vọ đài theo luật thể thao. Luật thể thao quy định hai võ sỹ đấu với nhau phải cùng hạng cân, mỗi trận chỉ có 3 hiệp, mỗi hiệp 3 phút. Võ sỹ bên nào cũng có săn sóc viên y tế đi theo và cuộc đấu luôn có hội đồng trọng tài chấm điểm.



Thời điểm này, phong trào võ thuật vùng miền Nam bộ như có làn gió mới, nơi nào cũng có võ đường tên tuổi như cồn: Sa Đéc có lò võ Sáu Cường; Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy Biển ở Kiên Giang; Ba Hoằng ở Long Xuyên; Tiểu La Thành ở Vĩnh Long. Nhiều võ sư tạo được tiếng vang nhờ đào tạo được những võ sỹ vô địch trong các trận đấu võ đài. Đến tận ngày nay, những võ sư ấy vẫn còn được nhiều người nhắc như: Hai Diệp, Lê Bình Tây, Mười Nho, Nguyễn Mách, Cao Lý Nhơn, Út Dài, Phạm Thành Long, Lý Huỳnh Yến, Lâm Văn Có, Thiên Đường, Đoàn Tâm Ảnh, Tần Hớn, Vương Văn Quảng, Lâm Hổ Hội, Lê Hông Chương, Mười Cùi, Từ Thiện, Hồ Tường, TRần Xil, Lê Đại Hoan, Minh Sang… rất nhiều.



Họ thường tổ chức thi đấu tại Chợ Lớn (quận 5) mang tính giao hữu với các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Hồng Kong. Trong những cuộc đấu giao lưu ấy, nhiều võ sỹ Việt Nam đã tạo được sự thán phục của các võ sư, võ sỹ nước ngoài. Báo chí thể thao dạo ấy đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ. Võ sỹ Minh Sang (võ đường Minh Sang) nỗi tiếng gan lỳ và ngọn quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn (võ đường Denis Minh) có cú đấm như điện xẹt; Võ sỹ Xuân Quỳnh là “cây trụ đồng của võ đường Kim Kê”… Những trận thư hùng này đã khiến các đối thủ nước bạn nhớ những tên đòn thế: “Bàn sa cước” của võ sỹ Nguyễn bình; Cú húc chỏ “hồi mã thương” của Minh Sơn; “Liên tiền cước” của Trần Nho…



Các nữ võ sỹ Việt cũng tạo nên song gió như Hồ Ngọc Thọ (võ đường Từ Thiện) vô dịch hạng ruồi nhẹ; Lân Ngọc Vân (võ đường Lâm Sơn Hải) vô địch hạng ruồi; Võ sỹ Xuân Liễu (võ đường Biên Hòa) vô địch hạng ruồi.



Trong một trận thư hùng giữa võ sỹ Việt với các võ sỹ Hong Kong là môn đệ của Lý Tiểu Long Vịnh Xuân Quyền xảy ra năm 1973 khiến báo chí thể thao miền Nam lúc đó tốn khá nhiều công sức bình luận. Trong đợt thi đấu này võ sỹ Trần Mạnh Hiền Việt Nam đã thắng tuyệt đối bằng nốc ao võ sỹ Châu Đạt Vinh Hong Kong bằng một cú đá thần sầu ở hiệp ba khiến khán giả hâm mộ võ thuật sôi sục. Ngày nay, những võ sỹ thuở ấy đã trở thành đại võ sư.



Nhờ những trận đấu võ đài ấy, các võ đường Việt Nam nườm nượp môn sinh đến đăng ký học võ. Thời điểm đó, học phí mỗi tháng khoảng 700 đồng/học viên. Chỉ cần huấn luyện 100 võ sinh là sư phụ có thể yêm tâm về cơm áo gạo tiền để chuyên tâm nghiên cứu võ học. Thời điểm đó, chiếc xe Hon Da 67 còm măng chính hãng, giá khoảng 15.000 đồng/ chiếc.



Bỗng dưng thời hưng thịnh của võ học Việt xẹp lép. Nhiều võ sư chạy theo kế sinh nhai bỏ nghề. “Loạn võ sư” bắt đầu manh nha phát triễn. Nhiều môn phái không hiểu từ đâu xuất hiện như: Sát Tử Quyền, Bạch Long Sát Tử Quyền, Vô Biên Võ đạo, Nghịch Tất Tử Võ phái, Cao Đài quyền pháp. Thậm chí một cơ sở sản xuất thuốc sơn đông mãi võ cũng tự sáng tác ra môn phái “Y võ” rồi tự lu loa là võ Việt Nam cổ truyền…



Nhiều nước đã tôn vinh môn võ xuất sắc của họ như Indo có pencatxilat, Trung Hoa có Thiếu lâm, Thái Lan có Maya… Còn Việt Nam, môn phái nào là Việt Nam võ đạo cổ truyền chính hiệu? Điều đầu tiên, có lẽ nên cấm tiệt những kiểu tự sáng tác vài bài quyền múa rối rồi xưng danh Võ Cổ Truyền Việt Nam kẻo làm mất mặt những tổ sư Việt và hãy giữ lại những tinh hoa của võ học Việt có từ trăm năm trước.
 
J

jeetkunedo_9x

Phật gia quyền

http://www.vothuat.net.vn/Web/?jumpto=article&articleid=1464

Phật gia quyền còn có tên khác là La Hán Phật gia quyền lấy gốc tích xuất xứ võ Thiếu Lâm từ bài quyền đầu tiên La Hán Thập Bát Thủ, là tên của một võ phái của các vị Lạt Ma ở vùng Vân Nam và Tây Tạng là chủ yếu.

Nguồn gốc và danh xưng
Tương truyền rằng võ phái này có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm và chùa Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam.

Thuyết khác lại cho rằng gốc phát tích của nó là chung một gốc với Hồng Gia Quyền của Hồng Hy Quan và Vịnh Xuân Quyền của Nghiêm Vịnh Xuân tại thành phố Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông.

Nguồn gốc môn phái không rõ ràng và có một vài kỹ thuật kỹ pháp liên quan đến Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến ở kỹ thuật trường kiều đại mã và La Hán quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam, cước pháp (đòn chân) thì lại có liên quan một ít đến Bắc Thiếu Lâm.

Theo thuyết khác, bộ môn này có nguồn gốc từ một ngôi chùa thuộc các môn đồ của Thiếu Lâm ở tỉnh Quảng Đông do các sư tăng trong chùa rút gọn tinh hoa quyền pháp của các hệ Nam quyền Quảng Đông mà chủ yếu là Hồng Gia Quyền của Nam Thiếu Lâm nên rất thịnh hành ở vùng lưỡng Quảng (Quảng Đông & Quảng Tây).

Bộ môn này có lan truyền sang các khu vực lân cận như Hồng Kông, Đài Loan và rất thịnh hành tại tỉnh Thanh Hóa miền Bắc Việt Nam trước 1954 và hiện đang lưu truyền phổ biến ở các khu vực Bắc Mỹ, Canada.

Đặc trưng kỹ pháp

Đây là một môn quyền thuật có nguồn gốc từ các phái võ miền Nam Trung Hoa xuất xứ từ Nam Thiếu Lâm nên thuộc các bộ môn Nam quyền.

Về mặt kỹ pháp, Phật gia quyền sử dụng các loại thủ hình như các hệ phái Nam quyền khác : quyền (đấm), chưởng (xòe bàn tay), trửu (cùi chỏ), chỉ (các ngón tay xỉa), câu thủ (cổ tay), trảo (ức bàn tay và các ngón tay co lại), ... cũng có sử dụng đòn chân (cước pháp, thối pháp) của Bắc Thiếu Lâm nhưng lại đá thấp từ thắt lưng trở xuống và ít khi nhảy cao đá như các bộ môn Trường quyền của Bắc Thiếu Lâm.

fojaiquan1.jpg

Quyền pháp của Phật gia quyền tinh tuyển tinh hoa của các loại Nam quyền như Hồng, Lưu, Lý, Mạc, Thái .

Kỹ pháp đặc trưng vẫn là sử dụng Kiều pháp (đòn tay) như Hồng Gia Quyền, vẫn theo nguyên lý "Ổn mã ngạnh kiều, trường kiều đại mã, đoản kiều tiểu mã" nghĩa là "Ngựa vững cầu cứng, ngựa lớn cầu dài, ngựa nhỏ cầu ngắn", diễn giải: bộ pháp (tấn pháp và cước pháp) vững vàng và thủ pháp (đòn tay) chắc chắn, đánh đòn tay dài thì đứng tấn dài rộng, đánh đòn tay ngắn thì đứng bộ tấn hẹp.

Do xuất phát từ Thiếu Lâm là quyền pháp của Phật gia nên bộ môn quyền này cũng tuân thủ theo các phép đánh nghiêm ngặt và phong tỏa cẩn mật trong-ngoài trên-dưới, động tác chặt chẽ như các bộ môn Thiếu Lâm quyền khác. Phong thái thể hiện cương cường ngoại tráng, bộ hình (bước tấn) di chuyển kín đáo và đầy sức lực hùng hậu. Đó là một bộ môn quyền chủ cương nhiều hơn nhu so với Thiếu Lâm quyền căn bản là cương nhu tương tế.


 
J

jeetkunedo_9x

Đi tìm đệ nhất cao thủ võ Việt

Đi tìm đệ nhất cao thủ võ Việt (Phần 1)

Võ Việt Nam khởi nguồn từ võ trận bởi suốt bốn nghìn năm lịch sử, đất nước " bao phen chồn ngựa đá’’, phải gồng m ình chống giặc ngoại xâm. Thời nay cũng vậy, giữa bộn bề lo toan của cuộc mưu sinh, tinh thần thượng võ vẫn có đất để phát dương quảng đại. Trên bầu trời võ thuật bao la ấy, những cao thủ như tinh tú rực rỡ và các cao nhân "ngoạ Hổ tàng Long", ai mới xứng đáng là đệ nhất cao thủ ? Với những cao thủ bây giờ thì họ là những bậc tiền bối, công phu đã danh trấn thiên hạ bấy lâu. Sống dưới chế độ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quãng thời gian mà tinh thần thượng võ bị triệt tiêu tới mức tối đa (phòng ngừa phản kháng), họ đã là cầu nối, đã bôn ba khắp nơi để tầm sư, rèn võ, cứu rỗi cả nền võ thuật Việt Nam trong buổi suy tàn. Dù đến gìơ, đa phần đã thành người thiên cổ nhưng tài đức của họ thì vẫn là tiếng thơm để hậu bối noi theo…

Đệ nhất roi Hồ Ngạch và hai lần đánh cướp Dư Đành
Luận về võ công, không thể không nhắc đến đất võ Bình Định, cụ thể hơn là những địa danh như Thuận Truyền, An Vinh, An Thái. Đến giờ, tại nơi nghĩa quân Tây Sơn dấy binh đánh đuổi quân thù ấy vẫn còn truyền tụng những câu tục ngữ nói về tinh thần thượng võ của những địa danh này. ‘‘Roi Thuận Truyền, quyền An Thái’’ hay ‘‘trai An Thái, gái An Vinh’’….
Thôn Thuận Truyền nằm ở xã Bình Thuận, thôn An Vinh thuộc xã Bình An (quận Bình Khê), An Thái thuộc xã Nhơn Phúc huyện An Nhơn, giờ vẫn tồn tại rất nhiều những lò võ nức tiếng xa gần.

Trong làng toi Thuận Truyền, không ai không biết tên tuổi lẫy lừng của võ sư Hồ Ngạch. Hồ Ngạch tên thật là Hồ Nhu, ông sinh năm 1891, mất năm1976, nguyên quán thông Háo Ngãi, xã Bình An, sinh sống tại thôn Thuận Truyền, Bình Thuận.Cha ông là Đốc Năm (Hồ Đức Phổ), một võ quan của triều đình Huế, mẹ ông bà Lê Thị Huỳnh Hà, cũng là một người nức tiếng giỏi võ trong vùng. Bởi thế, ngay từ nhỏ, ông đã được cha mẹ truyền dạy võ công. Lớn lên, ông được gia đình gửi vào lò võ của cao sư Ba Đề, tiếp đến là Đội Sẻ, Hồ Khiêm, toàn những người nổi tiếng. Bởi thế, từ những đường roi của các cao nhân như Ba Đề, Hồ Khiêm, kết hợp với nội công học được từ thầy Đội Sẻ đã tạo ra một Hồ Ngạch với những đường côn biến hoá, sâu hiểm không lường. Theo sự truyền tụng của giới võ lâm khi ấy, đường roi của Hồ Ngạch là tuyệt kỹ vô song.

Dân Bình Định đến giờ vẫn truyền tụng nhiều câu chuyện Hồ Ngạch bị các cao thủ khiêu chiến, thậm chí cả ‘‘đánh úp’’ hết sức lạ lùng. Các cao nhân thử tài với Hồ Ngạch thì nhiều lắm, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là những trận thư hùng với lực sĩ Dư Đành. Dư Đành là tướng cướp, về võ công thì đến cả quân lính triều đình khi nghe thấy tên cũng đã hồn xiêu phách tán. Tung hoành khắp vùng không có đối thủ, nghe tiếng Hồ Ngạch, Dư Đành nhiều lần gửi lời khiêu chiến. Chối từ mãi không được, sau cùng Hồ Ngạch cũng phải nhận lời thách đấu. Lần ấy, Dư Đành đem lũ lâu la về tận Thuận Truyền và hống hách đưa ra điều kiện, nếu Hồ Ngạch đấu thua thì phải gia nhập đảng cướp của y.

Vậy là, tại bãi vắng ngay sát thôn Thuận Truyền đêm ấy, một mình Hồ Ngạch đã đánh bại cả chục tên đệ tử của Dư Đành, vốn đều là những cao thủ võ lâm. Khi đám tay chân mỗi tên nằm một góc thì Dư Đành xuất hiện. Phải nói thêm rằng, Dư Đành có sức mạnh chẳng ai sánh kịp. Đã có lần, để biểu diễn võ dương oai, một tay y đã cắp cả một con nghé hệt như người ta nhẹ nhàng bồng trên tay đứa trẻ.
Với thanh đao sáng loáng trên tay, vừa xuất hiện là Dư Đành tung đòn tới tấp. Thế nhưng, với đường roi thượng thừa của mình, Hồ Ngạch cũng chẳng hề nao núng. Đánh , mãi mà vẫn không tìm được kẽ hở để ‘‘ăn sống nuốt tươi đối phương’’, Dư Đành thấy máu nóng dồn lên mặt. Và khi ấy, Hồ Ngạch đã ra đòn tuyệt kỹ. Tránh đòn truy hồn của đối phương, ông nhẹ nhàng tung người đá văng thanh đao cắm xuống đất, đồng thời xoay người giở đòn đánh nghịch. Biết đã vào thế hiểm, tiến thoái lưỡng nan, Dư Đành đành nhắm mắt chờ đường roi sát thủ. Thế nhưng, sau khi tiếng roi vun vút cất lên, Dư Đành đã thở phào choàng tỉnh bởi đường roi vừa chạm áo thì đối thủ đã thu về không đánh nữa.

Trận thư hùng ấy, dù đã nợ Hồ Ngạch một mạng nhưng Dư Đành vẫn không chịu phục. Y rắp tâm kiếm cơ hội trả thù. Bởi thế, một chiều, đang mải mê với những chiêu thức võ thuật thì Hồ Ngạch được mọi người báo tin, không biết ai đã đến nương sắn nhà mình và nhổ hết sắn đóng vào những giỏ lớn. Điều lạ lùng là tất cả số sắn đó, kẻ trộm không lấy mang đi mà vẫn để nguyên trên rẫy. Hồ Ngạch đâu biết rằng, đó là âm mưu của Dư Đành. Ra rẫy thấy sắn bị nhổ, chẳng còn cách nào khác, Hồ Ngạch đành phải quẩy những sọt sắn trĩu nặng về. Vừa đi được một đoạn thì từ bụi cây bên đường, Dư Đành vọt ra với chiếc bắp cày trên tay. Chẳng nói chẳng rằng, y tung luôn một đường sát thủ. Nghe tiếng gió, Hồ Ngạch vội thụt xuống, đường cày vụt qua đầu văng thẳng vào cây bồ lời làm thân cây gẫy gập. Lợi dụng luôn cú đánh hụt ấy, Hồ Ngạch tức tốc áp sát, nhanh như chớp, chụp luôn tay Dư Đành rồi sử dụng thế lạc côn, không những hoá giải mà còn biến sức đối phương thành lực của mình, hất thẳng Dư Đành xuống bụi tre gần đó. Mắc kẹt giữa đám tre gai góc, lúc ấy, Dư Đành mới khẩn khoản xin tha và hứa từ đó không bao giờ dám về làng Thuận Truyền quậy phá nữa.

Hạ võ sĩ Nam Hàn, vinh danh làng quyền cổ
Sáng tổ của làng quyền An Vinh là Nguyễn Ngạc, tức Hương Mục Ngạc. Theo nhiều người thì bà tổ cô của Nguyễn Ngạc chính là thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Nhuyễn Ngạc có nhiều học trò, họ đều là những võ sư ưu tú, tiếng tăm lẫy lừng. Trong số ấy phải kể đến Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác, Sáu Hà, Tám Tự, Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ…

Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An, là con trai của Nguyễn Ngạc. Ông sáng dạ, sức khoẻ thì phi phàm, lanh lẹ tựa cọp beo. Năm 1935, Bảy Lụt cùng em mình là Chín Giác và Hương Kiểm Mỹ tham dự giải đấu võ đài toàn quốc tại Huế. Thi đấu thắng hàng loạt đối thủ, ông đã đem về cho làng quyền An Vinh huy chương vàng. Từ đây, danh tiếng về làng võ này đã được các môn sinh khắp nơi biết đến. Thừa hưởng các bí kíp quyền pháp của cha, không để thất truyền, Bảy Lụt cũng chiêu mộ nhiều đệ tử. Trong số ấy nổi danh nhất là võ sư Phan Thọ, người gốc Bình Nghi (Tây Sơn), người đã thừa kế di sản đồ sộ của môn phái quyền An Vinh. Võ sư Phan Thọ sinh năm 1925, bắt đầu học võ từ năm 17 tuổi. Ông được lĩnh hội võ thuật cao siêu của rất nhiều tiền bối. Các bài quyền, roi, kiếm, đao, thương ông hoc từ thầy Bảy Lụt, Tàu Sáu (Diệp Trường Phát). Các môn kích, gản, phủ, lăn khiên, chuỳ.. ông học từ thầy Sáu Hà (Lê Hải). Các môn côn, thước, xích, độc bút, xà mâu, đinh ba… ông lĩnh hội từ thầy Hồ Ngạch. Tuy thế, sở trường của ông vẫn là quyền, thứ mà ông đã được thầy Bảy Lụt dày công dạy dỗ.

Cũng giống như nhiều võ sư nổi tiếng khác, võứư Phan Thọ cũng đã có nhiều trận thi tài mà đến giờ nhiều người khi nhắc tới đều vẫn ngả mũ thán phục tài năng. Ngày ấy, khu vực Nam bộ, Trung Nam bộ rộ lên phong trào thi đấu võ đài theo kiểu tự do. Dù đã thượng đài rất nhiều lần nhưng Phan Thọ vẫn chưa có đối thủ. Tiếng tăm ông mỗi lúc một vang xa. Năm 1972, một võ sư taekwondo đệ ngũ đẳng huyền đai, vốn là một sĩ quan quân đội Nam Hàn đã tìm đến ông gửi lời khiêu chiến.

Bị ‘‘áp đáo tại gia’’ dù mến khách nhưng không có cách nào khác, ông phải nhận lời. Trận tỉ thí diễn ra ngay trong nhà. Không khách khí, khách tung đòn trước. Đó là một cú đá có sức mạnh kinh hồn. Nhanh như sóc Phan Thọ cúi người né tránh khiến chiếc cột giữa nhà thành… nạn nhân bất đắc dĩ. Thiết cước ấy làm cả gian nhà rung chuyển. Thủ thế đến chiêu thức thứ ba, khi đối phương vẫn hăng say tung những cú đá nhanh như chớp của mình. Lựa một cú đá quét ngang mặt của đối phương, ông liền giở thế tấn mã tam chiến, một chân quét, một tay đỡ đòn, tay còn lại dương hổ trảo, hạ luôn đối thủ. Chỉ một cú đánh ấy, viên sĩ quan Nam Hàn đã nằm sõng soài ngay góc nhà. Và đương nhiên, anh ta chắp tay kính phục.

Ở tuổi xưa nay hiếm, nhưng lão võ sư Phan Thọ vẫn phải đứng ra nhận lời thách đấu của giới võ lâm. Khi ấy, năm 1998, một đoàn võ sĩ cũng của Hàn Quốc lại tìm đến nhà ông. Họ cho rằng, võ cổ truyền của Việt Nam chỉ là võ vườn, không có đẳng cấp như taekwondo nước họ. Tuy đã có tuổi, chẳng còn máu hơn thua nhưng khi đã chạm đến lòng tự hào dân tộc, lão võ sư lại xắn áo ‘‘thượng đài’’. Lợi dụng sức trẻ, võ sinh Hàn Quốc ra đòn vun vút. Có cú sát thủ đến nỗi cả mảng vữa tường rơi lả tả. Lão võ sư cứ nhẹ nhàng tránh né, hoá giải, chờ cơ hội. Và cơ hội ấy cũng đã đến khi đối phương tung một cú đòn lỡ trớn. Chỉ chờ có vậy, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Chỉ một cú đón ấy, đám khách không mời đã phải chắp tay : ‘‘Kung fu Tây Sơn danh bất hư truyền’’.

Đệ nhất côn thư hùng đệ nhất quyền
Năm 1924, làng võ Bình Định xuất hiện thêm một dòng võ mới là quyền Tàu. Người sáng lập ra dòng võ này là Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại An Thái. Tuy là người Trung Quốc nhưng gia đình Diệp Trường Phát sinh sống ở An Thái đã được mấy đời. Hấp thụ tinh thần thượng võ từ An Thái , 13 tuổi Diệp Trường Phát được gia đình gửi về Trung Quốc để học võ từ các cao sư của Thiếu lâm Bắc phái.
Sau 15 năm thụ giáo tại cố hương, 28 tuổi, Diệp Trường Phát trở lại An Thái mở lò dạy quyền Tàu. Đến giờ dân làng An Thái vẫn truyền tai nhau chuyện thi tài giữa Tàu Sáu và đệ nhất roi Hồ Ngạch. Bởi đó là cuộc thí võ kết bạn nên hai bên đã giao ước không gây thương tích, chỉ dùng mực ghi dấu trên y phục đối phương. Trước sự chứng kiến của nhiều môn đồ, hai ông giao kèo lấy một tuần nhang là một hiệp đấu.

Sau hiệp đấu quyền, khán giả đếm được vết mực trên áo hai người là như nhau, tuy thế Hồ Ngạch vẫn chắp tay bái phục Tàu Sáu, thừa nhận mình kém hơn một bậc. Khán giả hết sức ngạc nhiên. Khi ấy, Hồ Ngạch mới giải thích, các vết mực Tàu Sáu lưu trên y phục mình có phần nhạt hơn. Điều đó chứng tỏ rằng, đường quyền thế cước của Tàu Sáu đã ở mức thượng thừa. Bởi vậy nên ông mới có thể vận hành công lực như ý muốn, nên đòn ra mới nhẹ nhàng, dấu mực mới nhạt. Nếu cũng những quyền thế ấy, thi triển hết 12 thành công lực thì sức mạnh sẽ rất kinh hoàng, có thể lấy mạng người trong chớp mắt.

Về côn, tuyệt kỹ của Hồ Ngạch, hai bên cũng quần thảo kinh hồn. Người xem chỉ thấy tiếng gậy va vào nhau chan chát, còn bóng người thì lấp loá, mờ ảo. Sau tuần nhang, Tàu Sáu thấy trên người mình nhiều vết mực hơn. Trước đông đảo mọi người, ông đã chắp tay bái phục : ‘‘Đoản côn ở Thuận Truyền chỉ có Hồ Ngạch làm chủ’’.

 
N

nguyenhoang140

cho thêm hình đi chứ thế này thì chả mún đọc lun bac oi cho them hinh voi lại mấy đoạn video nhu là tập côn
 
J

jeetkunedo_9x

MỖI NGÀY MÌNH SẼ ĐƯA 1 CHÚT VÌ MÌNH CÓ QUYỂN SÁCH ĐÓ MÀ



ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI KHỞI LUYỆN NỘI CÔNG



Có người mò mẫm tập luyện Nội Công cũng thành công, nhưng những người này trả giá hơi mắc vì đôi khi bản thân bị bệnh tật hoặc mất thì giờ quá nhiều.

Người có sự dẫn dắt, chỉ điểm của bậc Sư phụ thời sự thành công đến bảo đảm hơn và không có gì xa vời, nguy hiểm.

Quý học giả, môn sinh muốn tham luyện Nội Công theo đường lối của Soạn giả (soạn giả đã luyện thành công thật sự biểu diễn được những công phu đích thực) thời phải thuộc lòng các điều chỉ sau đây. Nhỡ không tiến bộ hay gặp điều bất trắc phải thông báo cho Soạn giả để kịp thời cứu vãn.

1. Trước nhất phải học thuộc Nội Công Tâm Pháp, tức cách Phu tọa dẫn nạp Khí (tức hơi thở).

2. Biết rành các huyệt đạo nằm trên đường Châu Thiên thuộc hai kinh Nhâm Đốc để dẫn khí Sơ bộ.

3. Biết 12 phép tập gồm có 210 lần tập (vận khí). Mỗi lần vận khí là 20 giây đồng hồ, cộng 3 phút nghỉ giữa các phép với 15 phút Điều Tức là hai giờ tập. Mỗi ngày tập một lần vào lúc bình minh.

4. Biết bài Ngũ Hành Quyền có 110 động tác, nhịp tập 16 giây mỗi động tác cộng lại là 30 phút cho toàn bài.

5. Khi thành thuộc thì mỗi khi ôn luyện:

· 12 thế, chỉ tập 9 lần mỗi thế, thời gian nghỉ giữa mỗi phép tập là 1 phút, thời gian một lần tập là 10 giây. Cộng lại gổm 30 tròn không có lẻ.

· Bài 110 thế, thu lại còn 3 giây mỗi động tác thành toàn bài thao luyện vừa mất 5 phút 5 giây đồng hồ.

6. Khi tập xong nghỉ 10 phút cho ráo mồ hôi rồi tắm bằng nước lạnh.

Điều sau cùng là học giả nên giảm các chất kích thích trong thời gian luyện tập, cùng tránh gần nữ sắc mới thành công.



ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI LUYỆN NỘI CÔNG



Nhiều bậc sư phụ tân thời đã bày vẽ cho môn đồ của họ những nguyên tắc luyện Nội công một cách QUÁ ĐƠN GIẢN, để rồi những môn đồ yêu quí có gia công hàng nhiều năm tháng cũng chẳng đến đâu. Cũng theo chiều hướng nhằm giản dị hóa những bài giảng về phép tu luyện Nội Công, nhiều tác giả chỉ trình bày sơ lược vài phép tập luyên ĐƠN SƠ, rồi những người tự luyện tưởng chừng như mình lãnh hội được chân truyền….mà thật ra mọi người đã hàm hồ không ai nắm được yếu quyết về cách tu luyện. Thế rồi với thời gian trôi qua đi không mấy người tu luyện Nội công mà thành đạt mỹ mãn, hoặc dã vài bậc có thành tựu cũng đã phải vất vả trăm phần. Con số quá lớn những người không thành tựu công phu lần lần đi vào đường mất tin tưởng những Bí Quyết. Thật là tội nghiệp, họ có biết đâu rằng chính họ chưa có duyên lành để được gặp bậc chân sư hay phước số gặp cuốn sách quý.

Ở đây, tôi xin nhắc lại một lần nữa là những người tự luyện nội công theo sách nầy trước nhất phải thuộc lòng những điều trong mục nầy rồi mới được phép học tới bài tập kế tiếp.

Làm thế nào để biết là mình đã thuộc bài? Khi nào học viên có thể thò tay chỉ đúng bất kỳ một cơ quan nào trong người của mình hoặc người đứng trước mặt mình lúc trí tưởng đến trong óc. Có như thế thì mới lãnh hội được những điều sắp học tới. Muốn được như thế thì phải năng vẽ hình về Cơ Thể học. Đường đi của các Kinh Mach, sau hết là theo đúng nguyên tắc về sinh lý thiên nhiên rồi mới bắt đầu luyện tập.

Người nào không làm được những điều trình bày sau đây thì dù có luyện tập cuồng nhiệt đến đâu cũng khó đạt kết quả.
 
Last edited by a moderator:
J

jeetkunedo_9x

Tự luyện nội công thiếu lâm tự 1

A. KHÁI LƯỢC VỀ CƠ THỂ NGƯỜI TA:
Ai cũng biết thân thể người ta gồm ba phần: Đầu, Mình và Tay Chân. Trong đầu có não là trung tâm quan trọng nhất điều khiển mọi cơ quan trên toàn châu thân. Não nằm trên và nối liền bởi một sợi Tủy sống nằm trong cột xương sống từ sau ót chỗ đốt xương cổ thứ nhất (ngửa đầu ra sau lấy ngón tay cái sờ ngay chỗ hỏm sâu nhất là chính thị) chạy dài xuống tới xương cùn (không tính bốn đốt xương cùn rời ra). Xương sống có 34 đốt, tính từ trên xuống gồm bảy đốt xương cổ (cúi đầu xuống trước dùng ngón trỏ và giữa mò sau chân cổ ngang bắp thịt nối liền cổ và vai thấy khớp hở nhiều (dài) thì đó là khoảng giữa hai khớp xương cổ thứ bảy và đốt xương sống thứ nhất). Đốt xương sống thứ 12 tức đốt xương sống cuối cùng là gốc của chiếc sườn non cuối cùng, và đốt xương hông thứ năm tức xương hông cuối cùng nằm ngay chỗ hỏm xuống ngang thắc lưng. Nếu đặt chưởng căn tại chỗ hỏm nầy rồi úp bàn tay lên ngay rãnh xương sống thì đầu ngón trỏ chỉ đúng đốt xương hông thứ nhất. Mỗi đốt xương sống đều có những quan yếu riêng biệt liên hệ với ngũ tạng trong người (sẽ nói rõ trong mục B).

image002.jpg
(Hình 1 và 2)
Nhận diện từ phía trước, từ trên xuống phần lộ ra ngoài như mắt, mũi, miệng, cằm, chỗ hỏm ngực, rún, hạ bộ (gồm toần bộ dù Âm và Dương của nam, nữ) chót hết là hậu môn. Khi thân hình đứng ngay thẳng thì cằm sẽ ngang với đốt xương cổ thứ tư, cuống trái tim nằm ngay hỏm ngực phần *** (phần nhọn) nằm về bên trái cột xương sống ngang với xương sườn thứ ba nếu từ dưới đếm lên, đuôi và cuống tim nằm theo đường thẳng 45 độ so với cột xương sống thẳng đứng. Cuống tim có hai mạch máu lớn Động và Tĩnh mạch. Hai mạch chánh nầy chia thành hai nhánh cộng chung là 4 nhánh ăn liền sang hai cuống phổi nằm hai bên trái phải của trái tim, ngoài ra 2 đôi mạch máu phân hai bên cột xương cổ chạỵ lên não và hai mạch chánh chạy xuống hạ bàn, hai mạch song song nhau bên phải là Tĩnh mạch, bên trái là Động mạch, hai mạch phân làm đôi thành 2 đôi tại *** xương hông cuối cùng để tỏa xuống hai chân trái phải. Trái tim đè trên một màn mỏng gọi là cách mô (chấn thủy?). Dưới màn cách mô bên phải là lá gan lớn nằm thòng xuống tới đầu xương sườn cút hay sườn non. Nếu thóp bụng lại thấy chỗ hỏm vô, dùng mũi bàn tay bóp xéo lên là đụng lá gan rồi. Ngang lá gan về bên trái có một lá Tỳ hay lá lách lá mía cũng là nó. Vì nó nhỏ nên thò tay sâu hơn trong be sườn xéo lên mới đụng được. Đôi cuống của Gan và Tỳ ăn với hai mạch chạy từ tim xuống. Ngang đốt xương hông thứ nhất hai bên cột xương có hai trái Thận. Đôi cuống thận cũng ăn vào hai mạch chánh từ cuống tim xuống. Thận nằm sát sau nên phải ển lưng tới trước, lấy ngón tay cái nắm chỗ hỏm dưới be sườn non sau hông mới chạm được thận. Phía trước Thận bên trái ngang với lá gan một túi lớn cân bằng với lá gan bên phải. Phình bụng ra, chỗ cao đầu tiên từ trên xuống phía bên trái dưới đuôi trái tim là cuống bao tử, chỗ no tròn lên đích thị là phần trên của bao tử rồi. Dưới dạ dày là một xâu ruột già đỡ lấy bao tử và bao quanh đùm ruột non. Dưới rún một tấc tây là bọng ***, và cuối cùng bộ phận lộ ra đã nói ở trên. Trên đây là vị trí các bộ phận phía trước con người mà người học võ thuật phải biết để quyết thắng đối phương hay tự phòng ngự.

image004.jpg
image006.jpg
(Hình 3 và Hình 4)
Ngoài ra các bộ phận lộ ra bên ngoài như tay chân thì vị trí ra sao ai cũng rõ nên soạn giả không nói tới.
 
J

jeetkunedo_9x

Tự luyện nội công thiếu lâm tự 2

B. VÒNG CHÂU THIÊN TRÊN HAI KINH NHÂM ĐỐC:
Học Nội Công lấy Phu tọa điều tức làm căn bản, kế đến mới học cách vận hành khí lực phát ra mọi phần trong cơ thể. Thứ đến học cách phát lực đối địch người ngoài. Ấy là BA giai đoạn tuần tự nhi tiến không có cách nào khác hơn được, mà có ai làm khác tất là không đúng phương pháp chánh tông của Thiếu Lâm.
Nhưng cho đến nay, nhiều sách vở, tài liệu của nhiều bang phái bên Hồng Kông, Đài Loan, v..v… đều viết về Nội công một cách mơ hồ làm học viên tự luyện không có cách nào thành tựu được dù chịu khó bỏ công tu luyện. Tệ tác giả không rõ các cao sư tác giả hải ngoại có ý dấu diếm hay vô tình không nêu rõ một phương pháp luyện tập cho hậu học có đường lối nương theo. Còn như các danh sư ở xứa Giao Chỉ ta thì có biệt lệ là Tâm truyền hoặc giả Bí truyền cho vài đồ đệ thân tín nhất theo phương pháp riêng biệt không có sách vở nên chi cho đến nay vấn đề cũng chưa được khai sáng mà chỉ nghe nói suông mà thôi.
Vậy từ nay môn sinh độc giả hậu học đệ tử không phải tìm kiếm đâu xa, mà ở đây tác giả đã trình bày đầy đủ cách thức rèn luyện thành công, và khi thành công rồi thì cũng làm thầy giảng dạy để người khác làm được như chính mình. Làm công việc nầy, môn sinh đệ tử độc giả học viên cám ơn thì tác giả cũng có chút vui, còn các bậc Võ sư cổ lậu sợ người khác (hậu sinh) biết phương pháp sẽ luyện hơn mình mà trách cứ thì tôi cũng xin đành làm ngơ. Có điều xin cùng thưa với các vị là cái tinh thần ích kỷ xưa cổ ấy các nước văn minh người ta đã vứt vỏ cả trăm năm rồi nên chi dân tộc người ta tiến bộ, mức sống người ta cao, đời người ta vui tươi hạnh phúc, còn như quý vị thì mãi co ro dấu diếm cái hiểu biết nhỏ nhen của mình nên suốt đời vẫn khổ. Tội nghiệp! Tội nghiệp! Tre già măng mọc là lẽ dương nhiên, hậu sinh hay hơn tiền bối là điều đáng mừng và cũng không ngoài luật tiến hóa của thiên nhiên. Xin quý vị bình tâm suy nghĩ.
Ba giai đoạn tuần tự nhi tiến trong việc tu rèn Nội Công Thiếu Lâm Tự thì việc điều tức là khởi đầu việc này tác giả diễn tả tỉ mỉ trong chương thứ hai (II). Khi đã thực hành được phép thở đúng sách thì học cách đưa hơi thở (khí) đến các bộ phận trong người sẽ học ở chương ba (III) v..v…. Ở đây nên hiểu rõ Vòng Châu Thiên là đường sẽ dẫn khí lực đi qua trong phép điều tức mà từ sơ khởi (sơ học) đến lúc đại thành cũng cần dùng đến. Nếu không phải võ gia, người phàm luyện nội phần này cũng thành trường sinh vô bệnh hạnh phúc vô biên rồi vậy. Nhưng có điều muốn luyện thành thì phải hiểu rõ mới luyện được. Độc giả nên ghi nhớ.

VÒNG CHÂU THIÊN:
Nếu định nghĩa Vòng Châu Thiên thì có khi dùng chữ nghĩa làm lệch trí của độc giả, thế nên hiểu và hình dung Vòng Châu Thiên là một vòng hình bầu dục trên đó có một khởi điểm hữu hình tiếp nhận khí trời mà cũng là chung điểm hoàn trả khí đã xài rồi cho thiên nhiên. Trên đường vòng hình bầu dục có nhiều trạm (huyệt) để khí nghỉ ngơi tiêu tán, chỗ lớn chỗ nhỏ không đều, nhiệm vụ và công ích của mỗi trạm cũng khác nhau, nhưng chung qui đơn giản là nơi kiểm nhận khí có đi qua vậy thôi.
Căn cứ theo Y học Đông Phương 5.000 năm (Nội Công là môn học có tính cách Y học hơn là võ thuật, nhưng về sau các võ gia phối hợp được với Võ thuật thành ra hiệu dụng của võ thuật mới thành môn học lợi ích Tâm Sinh Lý siêu đẳng, giúp phàm nhân trường sinh hạnh phúc, bậc chân tu đạo thành).
Nhìn trên hình bầu dục, chỗ có vòng tròn nhỏ đánh dấu mở tức là MŨI (nơi khí trời chui vào và thoát ra) rồi đi xuống dần theo từng chặn một là Yết hầu, Cữu vĩ, Đan điền, chót hết là Hội âm, và kế đó là Trương cường, đi dần lên là Mạng môn, khúc giữa so với bên phải thì thấp hơn gặp trạm Linh đài, kế trên Thần đạo, lên thêm ngang Yết hầu là Đại truy, ngang mũi là Á môn, lên thêm là Phong phủ, Não bộ. Trên đỉnh cao tận cùng đối với Trương cường là Bá hội, rồi lần về nửa vòng trước là ấn đường xuống thêm là tới mũi…
Cứ khởi sự, mắt học viên môn sinh dò theo mũi tên từ chữ MŨI xuống dần tới tận Trương Cường rồi lộn lên tới Bá Hội lại vòng xuống MŨI. Nhớ rõ từng nơi từng trạm và tên trạm (huyệt) trên vòng Châu thiên. Mắt dò đi thật chậm trong khi chiếu mắt trên đường vòng thì không thấy chi khác ngoài đường chỉ nhỏ xíu, hễ mắt dò tới trạm nào thì mắt chỉ thấy trạm đó với cái tên của nó mà thôi, dần dần mà dò cho đủ vòng thì ngưng lại một hai giây đồng hồ để nháy mắt rồi lại tiếp tục dò xuống, v…v…
Nếu học viên không thể chuyên chú được thì dùng cây viết hay cành cây, que diêm, v..v... vạch theo Vòng Châu Thiên cũng từ từ…
Khi nào đạt thành kết quả không cần có Vòng Châu Thiên trước mắt mà tưởng tượng vẫn thấy được và dùng tư tưởng dẫn mắt đi từ từ trên Vòng Châu Thiên được thì bắt đầu dò Vòng Châu Thiên trên thân thể của chính mình (học viên). Khi nào xác nhận đúng mọi chi tiết trên Vòng Châu Thiên trên thân thể thì có thể bắt đầu tập Điều tức được rồi vậy.
Trước khi dẫn ý, lấy mắt dò lên đường châu thiên thân thể phải biết rành về hai Kinh NHÂM KINH và ĐỐC KINH, tức là hai nửa Vòng Châu Thiên trên thân thể.

image002.jpg

NHÂM KINH
Ở đây chúng ta không cần hiểu nhiều quá về cách cấu tạo Kinh Lạc trong thân thể con người mà chỉ cần học hiểu về hai Kinh Nhâm Đốc là đủ để áp dụng công thức luyện nội công. Nhưng tưởng cũng cần biết sơ Kinh, Mạch, Lạc là những gì để dễ bề nhận định cũng như thu thập những bài học trong tương lai về cơ thể thuộc môn học Nội Công. KINH là những đường dây nối liền những điểm cảm ứng (huyệt) nầy đến những điểm cảm ứng khác trong châu thân theo một đường dọc.
LẠC là những đường nối ngang từ KINH nầy sang KINH khác, lẽ tất nhiên Lạc là những đường Kinh nhỏ nếu so với sông ngòi thì kinh là sông mà Lạc là rạch, suối. Có điều là KINH thì chạy theo hang dọc còn LẠC thì chạy theo hàng ngang để nối liền các KINH với nhau.
MẠCH là những ống dẫn HUYẾT từ TIM chạy ra khắp châu thân và ngược lại. MẠCH có hai loại ĐỘNG và TĨNH, nói nôm na là GÂN MÁU. Đặc biệt là khoa COI MẠCH của Đông Phương chỉ lấy 3 ngón tay để nhẹ lên cổ tay bệnh nhân là biết được Thịnh Suy của cơ thể cùng các bệnh trạng Tâm Sinh Lý, kể cũng thật là tài tình vậy. Mà thật vậy, khoa xem mạch trị liệu Đông Phương của Ông Bà xưa thật là vi diệu. Người thầy thuốc đúng nghĩ gọi là Lương Y thì mới thể hiện được khoa học kỳ diệu nầy.
HUYỆT là chỗ cảm có cảm ứng hiện lên da trên thân thể, mỗi chỗ đều có liên quan với một hay nhiều cơ quan trong người như LỤC PHỦ, NGŨ TẠNG. Những chỗ cảm ứng đó được đường dây nối liền với nhau trên đường dọc thì dây đó gọi là Kinh, mà nối ngang gọi là Lạc. Điểm cảm ứng (biết đau, tê, v..v… nhạy) gọi là huyệt. Huyệt không nhất thiết nằm gần trên da, có khi ẩn sâu dưới da trong gân thịt, muốn chạm đến để gây phản ứng phải hội đủ điều kiện về vận tốc và sức nặng (mạnh) trên diện tích để đủ sức làm rung động. Do đó, học HUYỆT thì dễ mà học ĐIỂM HUYỆT hại người không dễ. (XEM CUỐN ĐIỂM HUYỆT VÀ GIẢI HUYỆT CÙNG TÁC GIẢ SẮP IN). Ngoài ra các Huyệt còn (tùy theo huyệt) là chỗ Thần Khí giao nhau để điều hòa cơ thể làm trí tuệ Thông linh, Đạo Tâm khai mở như Huyệt Bá Hội trên đỉnh đầu. Trong cơ thể có 14 KINH biểu diễn và điều hòa mọi biến động về Thịnh Suy của con người. Sau đây ta chỉ học hai Kinh có liên hệ mật thiết hơn hết trong việc rèn luyện Nội Công mà thôi.
Nhâm KINH là đường Kinh nối liền từ chỗ hõm dưới giữa Cằm giữa lằn chỉ từ Dịch hoàn (biều dái, nếu phái nữ thì chót Âm vật) đến Hậu môn (Lỗ ***). Khoa Huyệt học kể huyệt từ dưới lên chạy dài theo đường chỉ phân chia bán phần cơ thể trước bụng (theo lằn lông bụng ngực chỉ dịch hoàn, âm vật lên đến dưới Cằm) gồm 24 Huyệt:
1) Hội âm 2) Khúc cốt 3) Trung Cực 4) Đan điền hay Quang Nguyên 5) Thạch môn 6) Khí hải 7) Âm giao 8) Thần khuyết 9) Thủy phần 10) Hạ uyển 11) Kiên lý 12) Trung uyển 13) Thượng uyển 14) Cự khuyết 15) Cửu vĩ 16) Trung đình 17) Chien trung 18) Ngọc đường 19) Tử cung 20) Hoa cái 21) Triền cơ 22) thiên độc 23) Liêm tuyền 24) Thừa tương.

image004.jpg

ĐỐC KINH là đường kính chạy từ đỉnh xương cùn (huyệt Hải để hay Trương cường) lên đến đỉnh đầu trổ ra trước mặt vượt qua huyệt Toàn trúc hay Mi tâm (huyệt nầy thuộc Túc Thái dương Bàng quang kinh chớ không phải thuộc Đốc Kinh nhưng nó nằm chính giữa đường ranh của chân mày nếu dùng ngón tay luyện Thiết sa chưởng hay Nhất chỉ thiền hoặc đầu ngón tay co lại thành ngón tay quỉ mà diểm nhằm thì chỗ bị diểm nổi lên một cục tròn bằng ngón tay cái màu xanh tím như cục bứu huyết, nạn nhân xây xẩm mặt mày ngã ra bất tỉnh. Trường hợp chậm trễ trong việc chữa chạy tất tánh mạng khó bảo toàn. Đây là một trọng huyệt chớ không phải tầm thường. Xin xem cuốn Điểm và Giải Huyệt cùng tác giả sẽ rõ hơn) đến trước rãnh dưới đầu mũi tới nướu răng hàm trên ngay lằn chỉ.
Tổng cộng là 28 Huyệt: 1) Trương cường hay Hải để 2) Yêu du 3) Dương quan 4) Mạng môn 5) Huyền xu 6) Tích trung 7) Trung xu 8) Cân súc 9) Chí dương- có sách viết là Chí đường 10) Linh đài 11) Thần đạo 12) Thân trụ 13) Đào tạo 14) Đại truy – có sách viết Đại chùy 15) Á môn 16) Phong phủ 17) Não hô 18) Cường gian 19) Hậu đãnh 20) Bá hội 21) Tiền đãnh 22) Tính hội – có sách viết Đỉnh hội 23) Thượng tinh 24) Thần đình 25) Tố liêu 26) Thủy cấu hay Nhân trung huyệt là danh từ quen gọi của giới nghề võ 27) Đài đoan 28) Ngân giao.
image006.jpg
(Hình 7)
Các tên và chi tiết của hai Kinh trên đây độc giả học viên không cần nhớ hết mà chỉ ghi nhận đại khái, và chỉ nên nhớ những huyệt có ghi trong vòng Châu thiên thuộc Hình 5 để dẫn khí lực khi tập điều tức. Quý vị học viên xem tiếp Cách Phu tọa và Điều tức ở Chương Thứ II.


 
J

jeetkunedo_9x

C. SINH LÝ THIÊN NHIÊN

Sinh động vật hễ thường được tự nhiên đúng đạo thường thời đặng trường thọ, trái lại tất thảm họa xảy đến mà mạng yểu hoặc đau khổ bạc nhược. Bẩm sinh nếu tiên thiên được sung, túc thời hậu thiên biết bồi bổ thời không lo gì (mới sinh ra đã khỏe mạnh thời nuôi nấng đúng cách sau không lo gì chết non), ấy là dụng đạo thường, nhưng nhỡ ra tiên thiên bất túc, mới sinh ra đã đau yếu ọp ẹp thì hậu thiên phải bổ dưỡng kỹ càng mới có nhiều hy vọng. Trường hợp này cũng có nhiều sự rủi may không thể tiên liệu như làm toán được. Thế mới biết Sinh Tử tuy hai chữ đơn giản mà chẳng đơn giản chút nào, đời đời kiếp kiếp vẫn là mối lo bở vía của con người.

Duy có bậc thầy về Nội Công thời không chê ai, người nào ông cũng có thể độ cho đặng trường sinh hạnh phúc, cái chết dến với người luyện Nội Công như trái chin cây không có chi là sợ hãi đau buồn. Bởi vì trên nguyên tắc đời sống của bậc thầy đã gột rửa hết những điều không thích ứng với đời sống bản thân (vật chất cũng như tinh thần luôn luôn lành mạnh trong sáng, thế thời như một tấm gương trong suốt nên mọi vật đều được trông thấy, đạo Phật gọi là bức màn vô minh đã vén lên. Trong đời thường nhật, họ (những người luyện Nội công) thích nghi với hoàn cảnh từ mọi vấn đề (ăn uống, tắm rửa, ngủ nghê, trang điểm bản thân cùng điều hòa sinh lý nam nữ)! Thật là đơn giản “có thể nói như thế khi người ta được biết về công thức sống của người luyện Nội công, rồi người ta vô cùng ngạc nhiên để thốt ra bốn chữ trên, thế mà nào ai ngờ đâu. Nhưng đó là sự thật. Chẳng những những nhà Nội Công sống lâu hạnh phúc hơn tất cả chúng sinh (kể cả ông hoàng, bà chúa, phu nhân, bá tước công hầu, hào phú bạc đụn muôn xe, tỷ phú, danh nhân, chánh trị gia cái gì, v..v.. và v…v…cũng ăn đứt luôn các Tăng Ni, Tu, Cư sĩ, khất hay không Khất sĩ có chùa hay không có chùa, Linh mục hay cái gì lớn hơn Bà phước, v..v..mà thiếu tu rèn Nội công, thiếu đức độ Tâm tịnh vô biên). Đạt được Nội Công Vô thượng thời thân đặng an bình, thần trí thảnh thơi, chưa đi đã tới, chưa nói đã biết, không tranh mà thắng, v..v… nhược bằng hạng sơ học tiểu thành thời sức mạnh viên niên ít người sánh kịp, trí hóa nhập thần, làm gì cũng đặng thành quả mỹ mãn, v..v… Việc thành quả tươi tốt kể ra như thần thoại hoang đường mà là sự thật tưởng không có gì thật hơn được nữa thế mà vỏn vẹn trong vài công thức mà thôi. Xưa thời bậc thầy chọn người xem tướng coi ai là hoặc sau có thể trở thành những bậc vô lậu mới chịu tâm truyền, đó tưởng cũng không phải là chuyện quá đáng. Nhưng đối với thời đại như ngày hôm nay thì càng phổ biến rộng rãi chừng nào lại càng hay càng tốt. Thế nên tác giả không câu nệ mà trình bày vài nguyên tác đơn giản cổ hủ để chư vị độc giả học viên môn sinh nghiên cứu học luyện.

Muốn luyện Nội Công phải theo điều kiện ẩm thực, v…v… như sau đây, ít ra cũng trong thời gian tu luyện cho đến khi thành công rồi mới được giảm lần kỷ luật:



ĂN:

1) Tuyệt đối không ăn thực phẩm động vật;

2) Không ăn các vật hăng manh, cay nóng và chua chát thái quá;

3) Không được uống các thứ rượu dù mạnh, dù nhẹ và các thứ nước ngọt, đường hoặc đường hóa học.

Ăn cùng như uống phải có chừng mực (2 hoặc 3 bữa một ngày), đúng giờ và không ăn uống no nê quá độ mà cũng không nên nhịn đói.

NGỦ:

Giấc ngủ đúng mức là phương tiện duy nhất làm phục hồi và tăng tích sức mạnh của con người, sau giấc ngủ người ta thấy thoải mái và sự hăng say làm việc, yêu đời dù rằng trước đó sự mỏi mệt vì lao lực làm họ kiệt sức. Giấc ngủ không mơ mộng sẽ thay đổi hoàn toàn nguồn sức mạnh cũ, hay gọi là lấy lại đầy đủ chân khí. Vì trong giấc ngủ nguồn sức mạnh (chân khí) được tự do tuôn chuyển trong châu thân không bị bó buộc phục vụ cho các động tác của thân thể cùng các tạp niệm thông thường.

Nói một cách tổng quát là giấc ngủ có đủ yếu tố tái tạo sức lực cho mọi người sau một thời gian lao lực trong ngày để đủ tiếp tục một ngày lao lực bằng sự hăng hái nồng nhiệt. Đối với võ gia tu luyện Nội công giấc ngủ luôn luôn được chú trọng đặc biệt vì họ đã biết rõ những lợi ích của nó. Ngoài ra các võ gia còn những phương thức hỗ trợ giấc ngủ bình thường để tạo điều kiện cho nội lực chân nguyên phát sinh tăng tiến trong từng giấc ngủ thiên nhiên. Người xưa ca ngợi “ăn được ngủ được là tiên” âu là chỉ cho những hành gia về nội công vậy. Tác giả có thể quyết là trong đời chỉ có người thành công trên con đường luyện Nội công mới biết cái cần ích và thú vị của giấc ngủ cùng sự khoái lạc trong sự ăn uống đúng cách. Nếu có vị chân tu nào mới vừa chợp mắt mà mở ra đã thấy thời gian trôi qua 7 giờ đồng hồ tưởng chừng như chưa ngủ, đầu óc vẫn tinh minh thân thể nhẹ nhàng, miệng, lưỡi, mũi thơm sạch thì vị ấy biết được giấc ngủ của người tu luyện Nội công.

Riêng tác giả hơn nửa đời người tập luyện võ công, cho đến nay vẫn chưa hề có lần ngọa bệnh; hơn mười năm học phép Nội công mỗi đên chợp mắt mở ra là bình minh vẫn tưởng mình chưa ngủ mà thật ra thì nhục thân đã thu liễm ngót 7 giờ của vũ trụ rồi. Một điều tác giả do tu tập Nội công mà được xin nói để làm vui độc giả là sau khi tu luyện Nội công hơn ba năm thì tai tác giả tự nhiên thính hơn bình thường, có thể nghe và phân biệt tiếng động rất xa, mắt cũng sáng hơn. Cho đến nay thì mắt nhìn ra có ngời nên khi tập trung ý để nhìn ai thì người đó quay đi chỗ khác không thể nhìn thẳng vào mắt tác giả được. Các đệ tử của tác giả bảo là nhìn vào mắt thầy thấy thâm tâm hồi hộp, xao xuyến, nếu cố gắng thì như bị mất sức lực nên không thể nào nhìn được. Còn như tác giả tập trung ý lực vào mắt mà nhìn con chó con mèo thì chúng cũng nhìn lại rồi thoáng cái chúng cúp đuôi chạy đi như bị đuổi đánh vậy. Mũi tác giả biết được mùi rất xa dù mùi (bất kỳ mùi gì) rất nhẹ. Tác giả nhớ gần đây có lần lên non thăm thầy (ân sư của tác giả), đang đêm tác giả đang cùng thầy nhập định thì chợt nghe xa xa có tiếng động rồi mùi hương thoang thoảng nhẹ nhàng. Cầm lòng không đậu tác giả hỏi ân sư thì mới cho biết đó là con sóc bạch đang phá cây Quỳnh Hoa của người ngoài hậu động. Cũng trong lần này, thầy tác giả có bảo tác giả đã đại khai Tam giác là Thính giác, Thị giác và Khứu giác. Còn Vị giác, Xúc giác và Thần giác tức Linh khí thì chưa được. Tác giả nghe vậy cũng mừng nhưng có điều muốn hỏi mà không dám là tác giả cũng rất tế nhị khi nếm các món ăn. Ngày nay tuổi trời đã lớn, tác giả lại trở về đạo gốc là trường chay tuyệt dục (ăn chay trường không ăn thịt cá động vật, không ăn nằm với đàn bà). Thế thời vị giác muốn khai thông thì phải làm sao? Còn xúc giác nữa, tác giả sờ biết vật nóng, lạnh, trơn, nhám, v…v… khi Niêm, Án quyền thủ của võ gia thiên hạ Đông Tây biết đặng ý địch tới lui, công tả, kích hữu, trầm, thối, thật hư, v…v… thế mà vẫn chưa được?... Riêng Thần giác hay Linh khí thì quả tình tác giả chưa đạt tới thật, cái đó tác giả còn phải gia công tu tập vài mươi năm nữa họa chăng mới khai thông được. Đó là giác quan thứ sáu mà người đời coi như việc thiêng liêng vô thường.

Tác giả vui chuyện dẫn chứng công thành của mình mà quên ý chính nhưng đoạn trên đây âu cũng là kinh nghiệm cá nhân có thể giúp ích cho độc giả phần nào trên đường tu tập sau nầy.

Sau đây là các yếu quyết để tạo sức mạnh trong giấc ngủ Nội công:

1. Phòng ngủ phải thoáng khí, cửa sổ được mở ra trong khi ngủ trong suốt bốn mùa tám tiết và cửa sổ phải mở về hướng có gió trong sạch.

2. Chỉ được ngủ sau bữa cơm ba giờ đồng hồ. Những người thường cơm rượu no say thì không thể luyện tập Nội công được, giấc ngủ đến với họ rất ư là mệt nhọc khổ sở. Hơi thởi của họ đầy xú uế.

3. Phòng ngủ phải được yên tịnh không ai quấy rầy đánh thức lúc đang ngủ nửa chừng. Tiếng ồn ào chung quanh làm tâm thần người ngủ bị giao động sinh lực phân tán không tích tụ được.

4. Phải tắm rửa sạch sẽ mình mẩy, răng miệng, thay đổi xiêm áo sạch sẽ rộng rãi nhẹ nhàng rồi làm các động tác nới giãn toàn diện cơ thể, làm phép khẩu xỉ 100 lần để giãn các bắp thịt mặt cùng hô hấp sâu thẳm rồi mới lên giường. (Xem phần phụ lục NỘI GIÃN TOÀN DIỆN).

5. Chiếc giường phải phẳng không lót nệm dày làm lệch lạc gân mạch, trì trệ máu huyết. Người mới tập Nội công nên nằm trên chiếc giường đặc biệt hay đúng hơn là một bộ ván gồm một tấm ván chiều dài bằng thân người, chiều rộng cũng bằng tấm thân (hồi xưa tác giả nằm trên tấm ván gõ lên nước lạnh như đá, nghe nói tấm gỗ đó có trên trăm năm rồi) để tránh sự lăn trở khi ngủ. Nằm ngửa hai chân duỗi song song, hai bàn tay úp trên bụng dưới (rún), cách nầy giúp ta kiểm soát hơi thở có thật sự đưa tới bụng dưới hay chưa, hoặc hai tay để song song hai bên thân mình. Trong trường hợp trở mình thì trở về bên phải, nghĩa là cánh tay phải bị thân bên phải đè lên, nhưng chỉ trở mình giây lát rồi nằm ngửa lại mà ngủ. Nên nhớ là nằm ngủ đầu quay về hướng Bắc, chân hướng Nam.

6. Miệng ngậm kín. Những người ngủ miệng mở trống chảy nước ra lại có tiếng kêu ọc…ọc, phì phèo, phì phò, v..v… thì không mong gì sống lâu, khỏe mạnh, và chắc chắn hơn hết là người ấy không thể nào là một người thông minh dược.

7. Bao giờ cũng ngủ trước giờ nửa đêm để dậy trước 7 giờ sáng. Tác giả đã mấy mươi năm ngủ dậy luôn luôn không quá 5 giờ sáng, sau khi làm vệ sinh tổng quát, Điều tức và luyện quyền thì trời vừa mới bình minh. Nhờ thức sớm mà tác giả luôn luôn thấy, nghe được những biến chuyển mới mẻ của vạn vật làm tâm hồn nhẹ nhàng phấn khởi bắt đầu thụ hưởng một ngày mới tràn đầy tin tưởng.

8. Trong mọi trường hợp, luôn luôn để trống tâm hồn và nới lỏng thể xác bằng cách gạt bỏ mọi lục dục thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục) và dùng ý trí kiểm soát hơi thở sâu chậm lưu nơi đan điền. Ấy là lực tích đan điền, thân thể trống không, trạng thái đại thành rồi vậy.
 
J

jeetkunedo_9x

SINH LÝ NAM NỮ:

Không có gì đáng buồn cười bằng những võ gia, võ sinh miệng cứ bô bô khoa trương rằng mình luyện Nội công thành tựu, … và khoác lác ra vẻ thầy đời lừa bịp hậu sinh, bằng hữu kém học, mà thật ra họ chưa hề biết qua một yếu quyết căn bản nào về phép tu luyện nội công chính tông. Nếu có chăng, họ chỉ nghe ai nói hoặc học lóm mớ lý thuyết rồi bấm bụng đấu càng làm nhiều người tưởng thật đâm nể nang úy kỵ.

Tác giả giúp quý vị một phương cách đơn giản để nhận chân người có luyện nội công thật hay giả mà không bao giờ bị hắn đánh lừa:

· Người có nội công tướng mạo khôi vĩ mà nhu hòa, mặt sáng bóng dù cho thân thể có gầy ốm đi nữa, nhất là hai mắt sáng sòng sọc, dầu cố dấu đi cũng thường long lên nên khi nhìn thẳng vào ai dù không giận mà cũng có uy (oai).

· Giọng nói khí trầm, có âm vang xa và ấm, thường thì giọng lớn hơn người thường, họ nói một câu dài không ngừng để thở. Nếu giọng có cố làm cho nhỏ đi thì âm thanh thật sắc nét, âm cũng vang xa, khi thét lên gây chấn động làm người đứng gần khó chịu, đôi khi bất tĩnh. Người có Nội công có thể diễn thuyết nhiều giờ liên tiếp không biết mệt, và dù thức khuya giọng nói vẫn trầm hùng trong trẻo như thường chớ không bị rè đục như người thường.

· Bụng dưới tròn nhẵn (láng), không có người thành tựu nội công nào mà bụng teo như con ve đực. Cũng không nên lầm những người ham ăn uống quá độ bụng to, mỡ dày như bụng lợn. Người luyện nội công bụng chỉ to ở phần bụng dưới chỗ vực Đan điền. Nếu người ấy cởi trần ta sẽ thấy phần bụng dưới thoi thóp nhẹ nhàng, đó là họ thở bằng bụng đó. Người thường thở bằng ngực.

· Ngoài ra không kể người thành tựu nội công da dẻ hồng hào tươi tốt phương phi, tuổi càng lớn trông càng oai nghi, quắc thước. Duy cũng có một số vị chân tu vì suốt đời trì giới tuyệt thực nên cơ nhục không được nở nang, nhưng tựu trung nhờ giữ được nguyên tinh nên da dẻ vẫn láng bong (trừ khi già thì da nhăn).

· Một điều đáng lưu ý hơn là người thành công Nội công tinh lực mạnh mẽ vô cùng nhưng họ không ham chuyện nam nữ. Những người ham chuyện nam nữ thái quá thì không thể thành tựu Nội công, mà nếu có thành chút ít rồi trong thời gian sau cũng không còn gì nữa. Tác giả nói về ánh sáng của mắt mà quên nói có những hạng nam nhân cũng như nữ nhân đa tình dâm dật bẩm sinh mắt cũng tự nhiên sáng long lanh, mới nhìn thoáng người ta có thể lầm tưởng là họ thành tựu Nội công nhưng nhìn kỹ trong một giây thì không phải. Mắt kẻ dâm dật đa tình tròng đen có nhiều nước như mắt con chó mực nên khi có ánh nắng hay ánh đèn chiếu vào thấy lóng lánh. Thứ lóng lánh đó không có ngời mà cũng không có uy, nhứt là con mắt dâm hay nháy, cùng hay nhìn xéo mà không thích nhìn thẳng vào sự vật một cách thực tâm.

Sau hết là việc phải làm của người tu luyện Nội công:

· Nếu trong thời kỳ đang luyện (tuổi nguơn đồng nghĩa là chưa biết giao hợp thì càng hay) thì tuyệt đối không được giao hoan với phụ nữ, đồng thời cũng cố gắng làm sao cho đừng để bị xuất tinh trong thời gian nầy. Muốn được như vậy thì phải năng luyện tập cùng ăn uống điều hòa tinh thần hướng thượng thì không lo việc bị xuất tinh trong lúc ngủ mê.

· Khi đã thành công thì cũng nên hạn chế giao hoan. Tuổi dưới 30 thì mỗi tuần lễ chỉ nên giao hoan một lần thôi. Tuổi 30-40 từ nửa tháng đến một tháng mới giao hợp một lần. Tuổi trên 40, 50, 60, 70, 80, v..v… tưởng cũng nên tuyệt dục để bảo tồn tinh khí hầu có được sống lâu đến trăm tuổi.

· Người nào thích giao hoan quá độ thì không mong gì luyện Nội công được vì người đó bệnh rồi cần tới bác sĩ hoặc thầy thuốc nhờ chữa trị.

Sau hết, người luyện Nội công nên ghi nhớ gìn giữ TINH, KHÍ, THẦN cho đặng đầy đủ thời công lực mới đặng mỗi ngày càng thêm tinh tiến. Kẻ mất TINH thì hai thứ còn lại cũng dời khỏi thân thể, vì Tinh chế thành Khí mà Khí thì hóa thành Thần. .
 
J

jeetkunedo_9x

Ak bạn có thể vào đọc bài luyện ý khí lực mà xem đó là nội công đó nhưng của việt nam do võ sư trần tiến đứng đầu dễ tập và hiệu quả bạn ak còn nội cong thiếu lâm tự rắc rối và thời gian luyện tập lâu lắm. Nếu đánh giá về mạnh yếu thì ko ai đánh giá đc đâu vì nó dều là nội công đều phải dùng ý và khí những điều ta thấy chỉ là trình độ của người tập bạn ạ
 
J

jeetkunedo_9x

3. Dứng dang chân, luyện ý công vùng bụng:
Người luyện công đứng dang chân, cơ thể buông lỏng ngưng thần tĩnh khí khiến ý niệm tập trung.

người luyện công ý niệm mình đang đứng trên bãi biển, biển rộng mênh mông, kéo dài đến tận chân trời, sóng bốc giữ dội mây nước giữa vũ trụ bao la người luyện công cảm thấy mình dần cao lớn đầu đội trời chân đạm đất.
Giữa lúc đi lại ý niệm thấy bên trời ý niệm thấy bên trời xa có đoạn cây khấ to, từ biển vù vù lao tới với khí thế rất mạnh nhằm phóng thẳng vào ngực bụng, người luyện công dùng ý kháng trú xung kích đẩy bật khúc cây trở lại bên trời
khúc cây lao vào ngực mạnh như gió
vận kình kháng trú bật cây đi

Khúc cây bị đẩy bật tới bên trời rồi vù vù quay lại nhằm phóng thẳng vào ngực bụng của người luyện công, cứ mỗi lần bay đến lại bật đi.
Những lời thuật trên đay đều là nội dung trong ý niệm mà không phải hiện thực. Phương pháp này luyện lâu ngày quen đi, giữa lúc đông người luyện công phóng vào bụng ngực trong giây phút đó ngực bụng tự nhiên cảm thấy phát nhiệt, đồng thời căng thẳng cơ bắp, phát sinh kình lực khánh kích đến đây có thể nói ý công dã nhập môn, nếu kiên trì tập luyện, mỗi lần gặp kẻ địch ra quyền cước đánh trúng chỗ nào, chỗ đó phát sinh kháng kình tự động khagngs trú ngoại lực đả kích...
 
Top Bottom