Đặc điểm nền nghệ thuật đó là:
1. Nghệ thuật đó không những chỉ đạo lực lượng vũ trang, mà còn chỉ đạo nhân dân vũ trang kết hợp với lực lượng vũ trang.
Nghệ thuật do không chỉ dựa vào quân đội, mà dựa vào dân chúng và quân đội để giành chiến thắng. Toàn dân đánh giặc, điều đó đã được nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược trong lịch sử ta chứng minh. Nhân dân không những cất giấu lương thực, thực hành "thanh giã” gây cho địch nhiều khó khăn về tiếp tế lương thực, mà còn trực tiếp giết giặc. Ở nước ta, "giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, thiếu niên, phụ lão cũng đánh, những điều đó đã có từ ngàn xưa.
Nêu lên điểm đó, nhà quân sự vĩ đại Trần Quốc Tuấn có nói: "Cả nước góp sức chiến đấu nên giặc phải bó tay". Theo nhà sử học thế kỷ thứ XIX Phan Huy Chú thì "đời Trần nhân dân ai cũng là binh, nên mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh ".(2)
Với lực lượng vũ trang của cả nước, lực lượng vũ trang các địa phương kết hợp với thổ binh, hương binh, dân binh và dân chúng, sức mạnh của toàn dân, toàn quân được phát huy đến độ cao để diệt giặc.
2. Trong điều kiện ta là một nước đất không rộng, người không đông, phải đánh thắng những quân đội xâm lược lớn mạnh, dân tộc ta đã tạo nên một nghệ thuật mà Tổ tiên ta gọi là "lấy ít đánh nhiều, lấy yếu trị mạnh, lấy đoản chống trường".
Trong nhiều cuộc chiến tranh, quân và dân ta đã đánh địch cả ở trước mặt và sau lưng, đánh địch tại chỗ, không những tiêu diệt sinh lực địch mà còn làm tan rã quân xâm lược về tổ chức và về tinh thần, không những đánh tập trung mà còn đánh phân tán, dùng nhiều cách đánh, đánh những đòn oanh liệt làm cho địch gãy xương sống, nát xương sườn. Tổ tiên ta coi trọng việc dùng lực lượng một cách hợp lý, nhằm đạt hiệu lực cao, như Nguyễn Trãi nói: "sức dùng có nửa, công được gấp đôi". Không những biết giành thắng lợi quân sự quyết định mà còn có biện pháp để củng cố những thắng lợi đó.
Câu ca dao từ ngàn xưa:
" Nực cười, châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng”.
có thể nói lên phần nào đặc điểm này.
3. Nghệ thuật đó xây dựng trên cơ sở một tinh thần yêu nước rất cao, một tinh thần quật cường bất khuất, tự lập tự cường rất mạnh, trên cơ sở tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh, nên có sức sống mãnh liệt, có tinh thần tích cực chủ động rất cao. Nền nghệ thuật đó biết phát huy những chỗ mạnh mọi mặt của mình nhất là chỗ mạnh về tính chất chính nghĩa, về ý chí bất khuất kiên cường của dân tộc, về chất lượng mọi mặt của quân đội, để đánh quân địch vào chỗ chúng yếu, lúc chúng yếu. Nhiều nhà quân sự nổi tiếng thời xưa thường nhấn mạnh cách đánh chủ động linh hoạt, nhử người đến, chứ không để người nhử, cách đánh vu hồi, bao vây chặt chẽ để tiêu diệt gọn, tiến công liên tục, dồn địch vào thế bị động chịu đòn, không có cách nào thoát khỏi bị tiêu diệt.
4. Nghệ thuật đó rất sáng tạo, độc đáo, rất xuất sắc, tinh vi, rất mưu trí và linh hoạt:
“Ông cha ta ngày trước có nhiều sáng tạo về cách đánh giặc, không có sáng tạo đó, không thể giữ được nước, không thể giành lược tự do ".(3)
“ Anh dũng và thông minh là hai yếu tố tạo nên súc mạnh của dân tộc ta trong chiến đấu chông ngoại xâm“.(4)
Tổ tiên ta biết dựa trên yếu tố chính nghĩa, trên tinh thần yêu nước nồng nàn và chiến đấu anh dũng của quân và dân, phát huy mọi cái mạnh của ta trong điều kiện ta chiến đấu trên đất nước mình, đánh bại những đạo quân xâm lược từ xa đến, mà sáng tạo ra cách đánh của ta, buộc địch phục tùng ý chí của ta, buộc địch đánh theo cách đánh có lợi cho ta, không cho địch đánh theo cách đánh sở trường của chúng.
Nguyễn Huệ nói: "Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo, chứ không phải lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít".(5)
Trong chỉ đạo chiến tranh, Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh: “Phải xem xét tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy theo thời cơ mà ứng biến cho đúng".(6)
Ngô Thời Nhiệm, một tướng giỏi của Nguyễn Huệ, cho rằng là một người tướng giỏi phải biết "lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tùy theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ".(7)
Sức sáng tạo của dân tộc ta thể hiện ở chỗ, không phải chỉ có quân đội đánh giặc, mà là cả nhân dân và quân đội cùng đánh. Ta yếu mà ta đánh thắng đó cũng là sáng tạo. Sự nỗ lực chủ quan phi thường của toàn dân tộc, sức sống mãnh liệt của nền nghệ thuật đó cũng nói lên sức sáng tạo này.
Nền nghệ thuật đó dựa trên cơ sở đánh giá địch ta một cách bình tĩnh, hiểu địch, hiểu ta một cách sâu sắc.
Trần Quốc Tuấn cho rằng: "Nếu thấy quân giặc tràn sang như gió như lửa, thì thế giặc có thể dễ chống cự được".
Nguyễn Trái nói: "Tri kỷ tri bỉ, năng nhược năng cường”.(9) Nghĩa là biết người biết ta, có thế yếu, có thế mạnh.
Tổ tiên ta đã không nao núng vì sức mạnh tạm thời của địch, không bị uy hiếp vũ bão bên ngoài của chúng. Những nhà quân sự thời xưa của ta hiểu rõ ta không phải chỉ có yếu, mà còn có mạnh, hơn nữa có những chỗ mạnh rất cơ bản; còn địch, không phải chỉ có mạnh, mà còn có yếu, những chỗ yếu trí mạng tất yếu; đồng thời cũng thấy rõ những chỗ và lúc địch yếu, ta mạnh để có những chủ trương chiến lược thích hợp.
Nhìn bao quát cả cuộc chiến tranh, Tổ tiên ta không sợ địch, tin tưởng mình có thể đánh bại địch. Trong việc xử trí tình huống chiến lược cụ thể thì không khinh địch, đánh giá đúng mức sức mạnh ban đầu của quân xâm lược: lúc quân địch còn mạnh thì ta hành động rất thận trọng, nhưng khi địch đã trở thành yếu lại hành động rất táo bạo. Trước thanh thế lớn lao của quân Thanh tiến vào xâm lược nước ta, lời phân tích của Ngô Thời Nhiệm sau đây nêu rõ được phần nào điều đã nói trên: “Giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một nước, sau mới được người ta một nước; đừng có đem nước sau làm nước trước, đó mới là tay cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng như ngọc bích, của nước Tấn đời xưa, vẫn nguyên lành chứ có mất gì”,(10) (chúng tôi nhấn mạnh T.G).
Trên cơ sở đánh giá đúng đắn tình thế khách quan, biết địch biết ta một cách đúng đắn, Tổ tiên ta đã phát huy đến mức độ cao nỗ lực chủ quan, phát huy đến độ cao trí tuệ của mình, tìm ra trăm phương nghìn kế, khắc phục muôn vàn khó khăn gian khổ và đã lập nên những chiến công kỳ lạ. Đó cũng chính là điều kiện làm cho tính sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh đạt đến trình độ rất cao, câu nói của Nguyễn Trãi có thể nêu rõ điều đó:
“Có lẽ nhiều tai nạn chính là cái gốc để dựng nước, mà sự băn khoăn lo lắng cũng là cái nền đề mở ra nghiệp thánh.
Trải biến cố nhiều thì trí lự sâu.
Lo công việc xa thì thành công kỳ.
Đế vương nổi lên, ai cũng thế này”.(11)
Yếu có thể đánh mạnh, ít đánh nhiều là do tinh thần dũng cảm, dám đánh và sau đó là biết đánh: đánh mai phục, lừa địch vào sâu, toàn dân đều đánh, v.v.
Có thể nêu lên một số nội dung chính của nền nghệ thuật đó thành 3 vấn đề lớn như sau:
A. Chỉ đạo quân sự.
B. Địch vận.
C. Đấu tranh vũ trang và đấu tranh ngoại giao.
---------------------------------------------------
1. Võ Nguyên Giáp. Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1970 tr 43.
2. Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, tập IV, bản dịch. Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1961, tr.6.
3 . Lê Duẩn. Thanh niên trong lực lượng vũ trang hãy vươn lên hơn nữa phấn đấu cho lý tưởng cách mạng, đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1969, tr.2.
4. Lê Duẩn. Cứu nước là nghĩa vụ thiêng liêng của cả dân tộc. Tạp chí Quân đội nhân dân, số 12 năm 1960 tr.5.
5. Tây Sơn bang giao tập. Dẫn trong "Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ" của Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng, nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1971, bản in lần thứ hai, tr.344.
6. Việt sử thông giám cương mục. Tập V, bản dịch, tr. 100.
7. Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất thống chí, bản dịch. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội,
1964, tr.342.
8. Việt sử thông giám cương mục, tập V, tr. 99.
9. Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, bản dịch. Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1962, tr. 115.
10. Ngô gia văn phái, tài liệu đã dẫn, tr. 342.
11. Nguyễn Trãi. Chí Linh sơn phú.