[Vật lí 8] Một số bài tập vật lý dành cho học sinh thcs (phần cơ học & nhiệt học)

T

thienannancy

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

MỘT SỐ BÀI TẬP VẬT LÝ DÀNH CHO HỌC SINH THCS (PHẦN CƠ HỌC & NHIỆT HỌC)
Người đăng: Hồ Thị Thiên An
24/07/2012
Bài tập vật lý dành cho học sinh Trung học cơ sở về phần bài tập cơ học và nhiệt học. Đây là một sô bài tập mà tôi đã được bồi dưỡng khi còn học cấp II. Rất mong các bạn ủng hộ và cho ý kiến. Xin cảm ơn.
Địa chỉ: Hồ Thị Thiên AN- Lớp 8, trường THCS Nguyẽn Tri Phương- TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế ;)

MỘT SỐ BÀI TẬP VẬT LÝ
CHỌN LỌC DÀNH CHO HỌC SINH THCS
(Sưa tầm & giới thiệu)
CƠ HỌC VÀ NHIỆT HỌC
----------˜^^™-----------
PHẦN I: CƠ HỌC =D>

Bài 1:
a) Một vật trong nửa quãng đường đầu chuyển động với vận tốc V1, trong nửa quãng đường sau chuyển động với vận tốc V2. Tính vận tốc trung bình cảu vật đó trên cả quãng đường?
b) Thay các từ “quãng đường” trong câu a) bằng các từ “khoảng thờ gian” để được bài toán khác rồi giải?
c) So sánh vận tốc trung bình tính đựoc trong hai câu a và b.
Bài 2:
Một người đi xe đạp trên quãng đường AB. 1/3 quãng đường đầu đi với vận tốc 15km/h, 1/3 quãng đường tiếp theo đi với vận tốc 12 km/h và đoạn đường còn lại đi với vận tốc 8km/h. Tính vận tốc trung bình của người đó trên cả quãng đường AB.
Bài 3:
Một ô tô chuyển động trên nửa đoạn đường đầu với vận tốc 15m/s. Phần đường còn lại, xe chuyển động với vận tốc 45 km/h trong nửa thời gian đầu và 15 km/h trong nửa thời gian sau. Tính vận tốc trung bình của ô tô trên cả quãng đường đã đi.
Bài 4:
Một người đi xe đạp đã đi 4 km với vận tốc 12km/h, sau đó người ấy dừng lại để chữa xe trong 40 phút rồi đi tiếp 8 km với vận tốc 8 km/h.
a) Tính vận tốc trung bình cảu người ấy trên tất cả quãng đường đã đi.
b) Vẽ đồ thị vận tốc của chuyển động theo thời gian.
c) Vẽ đồ thị biểu diễn chuyển động của người ấy theo thời gian.
Bài 5:
Một ca nô chạy từ bến A đến bến B rồi trở về A trên một dòng sông. Hỏi nước chạy nhanh hay chảy chậm thì vận tốc trung bình cảu ca nô trong suốt thời gian đi về sẽ lớn hơn? (Vận tốc riêng của ô tô không đổi).
Bài 6:
Một hành khách đi xuống hết cầu thang máy đang chuyển động cùng chiều mất 1 phút. Nếu người đó đi với vận tốc gấp đôi vận tốc ban đầu thì chỉ mất 45 giây. Hỏi nếu hành khách đó đứng yên trên thang máy thì phải mất bao lâu để xuống hết thang ?
Bài 7:
Hai người A và B đứng cách nhau 600m và cùng cách bức tường 400m. Người B bắn một phát súng hiệu . Hỏi sau bao lâu người quan sát ở A nghe thấy:
a) Tiếng nổ ?
b) Tiếng vang ?
Vận tốc truyền âmt rong không khí là 340m/s
Bài 8:
Trên đoạn đường AB=100km có hai chiếc xe cùng khởi hành một lúc và chạy ngược chiều nhau. Xe I đi từ A đến B với vận tốc 20km/h và mỗi lần đi được 30km thì xe lại tăng tốc thêm 5km/h. Xe II đi từ B đến A với vận tốc 20km/hnhưng mỗi lần đi được 30km thì vận tốc của xe lại giảm đi một nửa so với trước. Tính:
a) Vận tốc trung bình cảu mỗi xe trên đoạn đường AB ?
b) Sau bao lâu thì hai xe gặp nhau và chỗ gặp nhau cách A bao nhiêu km?
Bài 9:
Một ca nô đi ngang sông, xuất phát từ A hướng thẳng tới B theo phương vuông góc với bờ sông. Do dòng nước chảy sau một thời gian t=100 giây, ca nô đến vị trí C ở bờ bên kia và cách b một đoạn BC=300m.
a) Tính vận tốc cảu dòng nước so với bờ sông.
b) Biết AB=400m. Tính vận tốc của ca nô so với bờ sông.
Bài 10:
Xác định vận tốc cảu dòng nước khi chảy ra khỏi vòi nước? Cho các dụng cụ: cốc đong (hình trụ), thước đo, đồng hồ bám giây.
Bài 11:
Một ô tô leo dốc với vận tốc trung bình 1,5m/s mất khoảng thời gian 80 giây. Dốc cao 12m, công thắng ma sát bằng 10% công do động cơ sinh ra. Trọng lượng của ô tô là 300 000N.
a) Tính công suất của động cơ ô tô.
b) Tính lực kéo do động cơ tác dụng vào ô tô.
Bài 12:
Một viên bi thép khối lượng m=10g được nâng lên độ cao h=1m so với bề mặt tấm thép rồi thả cho nó rơi xuống. Sau khi va chạm không đàn hồivào tấm thép viên bi nảy lên tới độ cao h’=0,8m.
a) Tính công nâng viên bi tới độc cao h và thế năng cảu viên bi tại đó.
b) Vì sao viên bi không nảy lên tới độ cao h? Tính độ giảm cơ năng và tỉ số giữa độ giảm cơ năng và cơ năng lúc đầu của viên bi.
c) Sau khi lên tới độ cao h’ viên bi lại rơi xuống va chạm vào tấm thép rồi nảy lên tới độ cao h’’ (cho rằng tỉ số độ giảm cơ năng không đổi).
Bài 13:
Một đinh ngập vào một tấm ván dày 5cm và một phần đinh dài 5cm xuyên ra phía sau ván. Muốn rút đinh ra phải dùng lực 1 800N. Tính công để rút đinh ra khỏi ván.
Bài 14:
Một vật có khối lượng m=2kg, thể tích V=10-3m3 nằm trong hồ nước ở độ sâu h0=5m. Phải thực hiện một công bằng bao nhiêu để nâng nó lên độ cao H=5m trên mặt nước? Cho biết Dn=103 kg/m3, bỏ qua sự thay đổi mực nước. (Bỏ qua sự thay đổi của FA khi vật bắt đầu nhô lên mặt nước).
Bài 15:
Có 8 khối nhôm hình lập phương cạnh 6cm trong đó có một khối bi rỗng ở bên trong.
a) Với cân đĩa không có quả cân nào, phải thực hiện ít nhất bao nhiêu lần cân để tìm ra khối rỗng?
b) Một trong 8 khối đó có khối lượng là 540g. Hỏi khối này đặc hay rỗng? Nếu rỗng, tìm thể tích phần rỗng? Cho biết DAl=2,7g/cm3.
Bài 16:
Một lò xo có chiều dài tự do 20cm được treo thẳng đứng. Khi đặt một vật có khối lượng 100g vào đĩa cân treo ở đầu dưới của lò xo thì chiều dài của lò xo là 25cm, còn nếu đặt vật có khối lượng 250g vào đãi cacn thì chiều dài của lò xo là 30cm. Tính khối lượng của đĩa.
Bài 17:
Một người thợ kim hoàn làm một vật trang sức quý. Khi đem cân thấy vật có khối lượng m=420g, khi thả chìm vật vào một bình đựng đầy nước và lấy lượng nước tràn ra đem cân được m0=30g.
a) Tính khối lượng riêng của hợp kim dùng để làm vật?
b) Nếu hợp kim gồm vàng-bạc thì khối lượng vàng đã dùng là bao nhiêu? Coi thể tích của vật bằng tổng thể tích cảu vàng-bạc đem dùng và khối lượng riêng của nước, vàng, bạc lần lượt là 1g/cm3; 19,3g/cm3; 10,5g/cm3.
Bài 18:
Một chặn giấy bằng thủy tinh có một lỗ hỗng bên trong. Làm thế nào để xác định được thể tích phần rỗng mà không đập vỡ? Cho biết khối lượng riêng của thủy tinh là D.
Bài 19:
Hãy xác định thể tích V, khối lượng m, khối lượng riêng D của một chất rắn không thấm nước, biết rằng: Khi thả chìm vật vào một bình đựng đầy nước thì khối lượng của cả bình tăng lên thêm m1=21,75g; còn khi thả chìm một vật vào một bình đựng dầu thì khối lượng cảu cả bình tăng thêm m2=51,75g. Cho biết khối lượng riêng của nước và dầu lần lượt là D1=1g/cm3, D2=0,9g/cm3.
Bài 20:
Hai bình hình trụ A và B có trục thẳng đứng thông đáy với nhau bằng một ống nhỏ có dung tích không đáng kể. mặt đáy của bình A cao hơn mặt đáy của bình B 20cm. Người ta đổ vào bình 5,5 lít nước. Tính áp suất của nước tác dụng lên đáy mỗi bình? Biết tiết diện của mỗi bình là 1dm2 và 50cm2. Biết dnước=104N/m3.
Bài 21:
Một bình hình trụ có tiết diện 10cm2 chứa nước tới độ cao 20cm và một bình hình trụ khác có tiết diện 15cm2 chứa nước tới độ cao 40cm.
a) Tính áp suất và áp lực của nước tác dụng lên đáy mỗi bình sau khi nối thông đáy với nhau bằng một ống nhỏ có dung tích không đáng kể và đáy của hai bình nằm trên cùng một mặt phẳng nằm ngang. Cho dnước=10 000N/m3.
b) Đổ thêm dầu vào bình I cột dầu cao 12cm. Tính độ chênh lệch mực nước trong hai bình sau khi chất lỏng đứng yên. Cho ddầu=8000N/m3.
Bài 22:
Trong bốn đồng tiền giống nhau có 3 đồng thật có khối lượng như nhau và một đồng giả có khối lượng khác. Hãy chỉ ra cách tìm đồng tiền giả với 2 lần cân bằng cân Ro-bec-van mà không có quả cân nào.

PHẦN II: NHIỆT HỌC [-X
Bài 1:
Tính nhiệt độ cân bằng cảu nước khi pha 2 lít nước 800C vào 3 lít nước ở 200C trong 2 trường hợp:
a) Bỏ qua sự hao phí trong quá trình truyền nhiệt
b) Hiệu suất trao đổi nhiệt là 20%.
Biết nhiệt dung riêng của nước là 4200J/kgK, khối lượng riêng của nước là 1 000kg/m3.
Bài 2:
Để xử lý thóc giống bằng phương pháp “3 sôi 2 lạnh”, người ta ngâm nó vào vại nước chứa 3 phần nước sôi hòa với 2 phần nước lạnh. Hãy xác định nhiệt độ của nước “3 sôi 2 lạnh” nếu nhiệt độ của nước lạnh nằm trong khoảng 150C đến 200C. Biết nhiệt độ sôi là 1000C.
Bài 3:
Để có 20 lít nước ở 360C, người ta trộn nước 200C vào nước 1000C. Tính thể tích nước mỗi loại. Bỏ qua sự mất nhiệt và Dnước=1g/cm3.
Bài 4:
Pha nước vào rượu ta thu được hỗn hợp có khối lượng 188g ở nhiệt độ 300C. Tính khối lượng nước và rượu đã pha. Biết nhiệt độ ban đầu của nước và rượu là 800C và 200C, nhiệt dung riêng cua nước và rượu tương ứng là 2 500J/kgK và 4 200J/kgK. Bỏ qua sự bay hơi và sự mất nhiệt.
Bài 5:
Có hai bình cách nhiệt, bình A đựng 5 lít nước ở 600C, bình B đựng 1 lít nước ở 200C. Rót một ít nước từ bình A sang bình B, sau khi bình B cân bằng nhiệt ta lại rót trở lại từ bình B sang bình sao cho lượng nước ở mỗi bình giống như ba đầu. Lúc đó nhiệt độ cân bằng cảu nước iử bình A là 500C. Hỏi đã rót bao nhiêu nước từ bình nọ sang bình kia.
Bài 6:
Để đo nhiệt độ cảu nước, người ta nhúng vào nước một nhiệt kế, khi cân bằng nhiệt , nhiệt kế chỉ 36,00C. Hỏi nhiệt độ thực của nước là bao nhiêu? Biết nhiệt dung của nhiệt kế là C=1,9J/độ và trước khi nhúng vào nước nó chỉ 20,00C. Nước cần đo có khối lượng 10 gam
Bài 7:
Đổ một thìa nước nóng vào nhiệt lượng kế, nhiệt độ của nó tăng thêm 50C. Lại đổ thêm một thìa nước nóng nữa vào nhiệt lượng kế, nhiệt độ của nó tăng thêm 30C nữa. Hỏi nếu ta đổ 48 thìa nước nóng vào nhiệt lượng kế thì nhiệt độ của nó tăng lên được bao nhiêu độ? Bỏ qua sự trao đổi nhiệt với môi trường bên ngoài.
Bài 8:
Trộn 0,5 lít nước ở 200C với 1,5 lít nước ở 400C và 3 lít nước ở 1000C. Tính nhiệt độ cân bằng. Bỏ qua sự mất nhiệt và Dnước=1g/cm3.
 
T

thienannancy

GIUP MENH VOI~~~~^^!!!
BT1:Treo vào một miếng nhựa đặc vào đầu dưới của 1 lực kế. Trong không khí lực kế chỉ 8N. Nhúng miếng nhựa vào nước, lực kế chỉ 4N. Tính thể tích miếng nhựa và trọng lượng riêng của nó.

BT2: Một quả bong bóng bay của trẻ em dc thỏi bằng khí hidro có thể tích 4 centimet khối , vỏ bóng bay có khối lượng 3g buộc vào 1 sợi dây dài và đều, có khối lượng 1g/10m. Tính chiều dài của sợi dây dc kéo lên khi quả bóng đứng cân bằng trong không khí. Biết 1 lít không khí = 1,3g và 1 lít hidro = 0,09g

BT3: Trong một ống Torixenli, cột Hg cao 75,4cm. Người ta ngăm cả ống và chậu vào 1 bể nước. Mặt thoáng của nước cách mặt thoáng của Hg 1,2m. Lúc đó chiều cao của cột Hg sẽ là bao nhiu? Khối lượng riêng của Hg = 13600kg/m3.
 
T

thienannancy

1 câu đố của Anbe Anhxtanh - 98% dân số TG không giải được

Bạn có nằm trong số 2% những người thông minh nhất trên thế giới không ?
Bài toán đố dưới đây thực chất là toán logic.
Chúc bạn may mắn và không nản chí !

1. Có 5 ngôi nhà, mỗi nhà một màu khác nhau.
2. Trong mỗi nhà có một người ở, mỗi người có quốc tịch khác nhau.

3. Mỗi người thích uống một loại nước khác nhau, mỗi người hút một loại thuốc lá khác nhau và nuôi một loài vật khác nhau trong nhà của mình.
Câu hỏi đặt ra là: Ai nuôi cá ?
Biết rằng:
a. Người Anh sống trong nhà màu đỏ.
b. Người Thuỵ điển nuôi chó.
c. Người Đan mạch thích uống chè.
d. Người Đức hút thuốc lá nhãn Rothmanns.
e. Người Nauy sống trong ngôi nhà đầu tiên.
f. Người sống trong nhà xanh thích uống cà phê.
g. Người hút thuốc lá Winfield thích uống bia.
h. Người sống trong nhà vàng hút thuốc lá Dunhill.
i. Người hút thuốc lá Pall Mall nuôi vẹt trong nhà của mình.
j. Người sống trong ngôi nhà ở chính giữa thích uống sữa.
k. Người hút thuốc lá Marlboro sống bên cạnh người nuôi mèo.
l. Người hàng xóm của người hút Marlboro quen uống nước.
m. Người hút thuốc lá Dunhill sống bên cạnh người nuôi ngựa.
n. Ngôi nhà của người Nauy nằm bên cạnh nhà màu tím.
o. Ngôi nhà màu xanh nằm kế và bên trái (phía trước) nhà màu trắng.

Anhxtanh đã nghĩ ra bài toán trên ở thế kỷ trước. Ông khẳng định rằng "98%" người trên thế giới không thể giải được bài toán đố này. Chúc bạn may mắn!
 
T

thienannancy

Tiểu sử Anhxtanh
Anbe Anhxtanh - Người làm nên cuộc cách mạng thế giới vật lý
Anbe Anhxtanh (1879 - 1955)

Anbe Anhxtanh là nhà khoa học số 1 của thế kỷ 20. Thuyết tương đối của ông được đánh giá là “một trong những thành tựu vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng của nhân loại”. Bằng học thuyết của mình, Anhxtanh đã làm thay đổi sâu sắc sự hiểu biết của nhân loại về thế giới vật lý.

Đúng 11h30 phút ngày 14 tháng 3 năm 1879, Anbe Anhxtanh ra đời tại thị trấn Um nước Đức trong một gia đình Do Thái. Cậu bé Anhxtanh có cái đầu rất to, xương đầu lại còn dô ra nữa. Thuở bé mẹ cậu rất lo sợ cậu bị ... thiểu năng trí não bởi vì đến 4-5 tuổi cậu vẫn chưa biết nói. Ông bố đã mời nhiều bác sỹ đến khám, họ kết luận là cậu bé hoàn toàn khoẻ mạnh và phát triển bình thường. Thuở thiếu thời, Anhxtanh rất lặng lẽ, thường đơn độc đắm mình triền miên trong mơ ước hoặc suy tư, trò chơi mà cậu ưa thích là dùng các mẩu gỗ hoặc mẩu giấy chắp thành các hình phức tạp. Khi đi học, Anhxtanh rất ưa thích các môn tự nhiên và triết học. Ông chú ruột của cậu là Jacôp tặng cho cậu cuốn sách “Hình học thần thánh” của ơclit, cậu lập tức đọc một mạch cho đến trang cuối cùng. Tính cách của cậu bé Anhxtanh rất khác thường, với những vấn đề thắc mắc không những cậu buộc mình phải làm sáng tỏ nó là gì mà còn đào sâu tìm hiểu thêm vì sao lại như thế. ở trên lớp, thầy giáo thường không nhẫn nại chờ được mà phải gõ thước vào bảng thôi thúc Anhxtanh trả lời câu hỏi nhanh lên vì cậu luôn suy nghĩ chu đáo rồi mới chịu trả lời. Khi thầy không hỏi, bỗng nhiên Anhxtanh hỏi lại những điều “kỳ quái” mà cậu đã từng suy nghĩ rất sâu. Thầy giáo thường bị đỏ mặt vì không trả lời được. Các thầy giáo không thích tính cách Anhxtanh, cậu không chịu học những môn học thuộc lòng, thành tích học tập của cậu thường đứng cuối lớp.

Tháng 10 năm 1896 Anhxtanh 17 tuổi, cậu đã thi đỗ vào trường Đại học liên bang Zurich (Thuỵ Sỹ), đó là một trường ĐH nổi tiếng ở Trung Âu.

Ở ĐH Zurich, Anhxtanh rất say mê làm việc trong phòng thí nghiệm và phớt lờ những giờ lên lớp. Hồi đó máy quang điện rất quý, ắc-quy cũng hiếm nhưng trong phòng thí nghiệm của trường ĐH lại có rất nhiều máy đo điện, sinh viên có thể tự do đến làm thí nghiệm. Anhxtanh vùi đầu vào nghiên cứu, cậu say mê nghiên cứu về vấn đề bụi vũ trụ mà theo cậu là một mệnh đề quan trọng của vật lý lý thuyết, cũng là một “con hổ” đang cản đường tiến lên của ngành vật lý.

Sau nhiều đêm trăn trở, Anhxtanh đem bản thảo của mình đến gặp giáo sư Uây-pơ - một giáo sư trong trường ĐH Zurich. Giáo sư nhận bản thảo một cách hờ hững, vốn trong lòng ông không ưa cậu sinh viên hay bỏ học này, nên khi lật xem vài trang bản thảo, thấy suy nghĩ của Anhxtanh xa rời thực tế, giáo sư Uây-pơ trả bản thảo cho cậu và nói: “Anhxtanh, cậu rất thông minh nhưng nhược điểm là không muốn học ai cả”. Nói rồi giáo sư bỏ đi.

Mùa thu năm 1900, Anhxtanh tốt nghiệp ĐH. Đây là thời kỳ long đong nhất của ông bởi ông lâm vào cảnh thất nghiệp. Ông từng khao khát được giữ lại trường làm trợ giáo nhưng muốn thế cần phải có các giáo sư giới thiệu mà chẳng vị giáo sư nào chịu giới thiệu một sinh viên người Do Thái không chịu thuần phục và hay có những suy nghĩ lạ hoắc này, hơn nữa thành tích tốt nghiệp của Anhxtanh cũng không thuộc loại xuất sắc. Vì kế sinh nhai, Anhxtanh phải bôn ba khắp nơi tìm kiếm việc làm.

Vào tháng 6 năm 1902 Anhxtanh đã xin được một công việc ổn định là làm giám định kỹ thuật ở Cục bản quyền Becnơ (Thụy Sỹ) với mức lương 3500 frăng Thụy Sỹ một năm. Không phải lo lắng về cái ăn cái mặc nữa, từ đây ông có thể yên tâm nghiên cứu những vấn đề vật lý mà ông yêu thích. Năm 1903, Anhxtanh kết hôn với Mivela là bạn học cũ, năm sau họ sinh một con trai.

Năm 1905, kỳ tích và vinh quang đã đến với ông. Năm đó Anhxtanh 26 tuổi, ông dồn thời gian rỗi để viết bốn luận văn vĩ đại hoàn thành việc chuẩn bị lý luận cho cụoc cách mạng vật lý thế kỷ 20.

Anhxtanh hoàn thành luận văn “Phương pháp xác định mới về độ lớn của phân tử”, ông trích phần “Nghiên cứu sự khuếch tán và nội ma sát của các chất trung tính trong dung dịch loãng để xác định độ lớn thực tế của nguyên tử” gửi cho ĐH công nghiệp liên bang Zurich. Trong bốn luận văn thì luận văn này mỏng hơn cả.

Luận văn thứ hai bàn về “Thuyết quang lượng tử”. Trước kia khi nghiên cứu “Hiệu ứng quang điện”, Niutơn cho rằng ánh sáng là do các hạt cấu thành, trong lịch sử khoa học gọi đó là “thuyết hạt ánh sáng”. Đến đầu thế kỷ 19 các nhà khoa học lại cho rằng ánh sáng không phải do các hạt cấu thành mà là một lọai sóng dao động. Về sau lý thuyết điện-từ của Macxoen tiến thêm một bước đã chứng minh tính dao động sóng của ánh sáng. Học thuyết này có tên là “Động học sóng của ánh sáng”. Lúc ấy Anhxtanh đã từ một góc độ mới mẻ bàn về sự bức xạ và năng lượng của ánh sáng. Anhxtanh cho rằng ánh sáng là do những hạt rời rạc (lượng tử) cấu thành. Kết luận này ngay Anhxtanh cũng cảm thấy “rất cách mạng”. 16 năm sau nhờ luận văn này Anhxtanh giành được giải Nôben vật lý.


Luận văn thứ ba nghiên cứu về “Chuyển động Brao”. Ngược lại thời gian, vào năm 1827 hôm đó nhà thực vật học Brao người Anh làm thí nghiệm rắc phấn hoa vào nước, sau đó dùng kính hiển vi quan sát. Brao phát hiện một hiện tượng rất lạ: phấn hoa chuyển động không ngừng giống như vô số các sinh linh li ti đang nhảy múa. Chuyển động kỳ lạ này được gọi là “chuyển động Brao”. Mấy chục năm sau để giải thích hiện tượng này các nhà khoa học đã mất nhiều công sức nhưng chưa lý giải được thấu đáo. Anhxtanh bằng nhãn quan độc đáo của mình đã nắm ngay được bản chất của vấn đề: Đó chính là các phân tử nước vô cùng nhỏ bé đang nhảy múa. Hồi đó rất nhiều người còn chưa tin vào sự tồn tại của phân từ và nguyên tử thì Anhxtanh ngược lại đã đi sâu nghiên cứu chuyển động của phân tử. Ông cho rằng phân tử nước rất nhỏ, dùng kính hiển vi không thấy được nhưng phân tử nước vận động không ngừng. Do sự va chạm với các phân tử nước mà phấn hoa có chuyển động Brao không quy tắc. Anhxtanh còn dùng phương pháp tóan học tính được độ lớn của phân tử và hằng số Avôgađrô - số lượng phân tử trong một chất khí bất kỳ ở trạng thái tiêu chuẩn. Như vậy Anhxtanh đã có những căn cứ hết sức thuyết phục để chứng minh sự tồn tại của phân tử. Ba năm sau nhà vật lý người Pháp là Faylan đã chứng minh được định luật của Anhxtanh về chuyển động Brao.
__________________



Luận văn thứ tư được công bố trên Tạp chí Vật lý học là “Bàn về điện động lực học của các vật thể động”, đó là luận văn đầu tiên về thuyết tương đối. Với luận văn dày 30 trang này Anhxtanh đã làm nên thay đổi về bản chất quan niệm về thời gian và không gian. Trước thế kỷ 20 Niutơn là chúa tể của vương quốc vật lý, cơ học Niutơn được xây dựng trên cơ sở thời gian tuyệt đối và không gian tuyệt đối. Niutơn cho rằng trong bất kỳ điều kiện nào độ dài thời gian đo được luôn luôn như nhau, không thể có kết quả thứ hai. Niutơn cho rằng thời gian và không gian là tuyệt đối, không liên quan đến bất kỳ sự vật nào ở thế giới bên ngoài, vậy làm sao biết được sự tồn tại của nó? Lấy ví dụ nếu thời gian phát tiếng của một máy ghi âm trên mặt đất đo được là một giờ thì thời gian phát tiếng của máy ghi âm đó trên mặt trăng đo được cũng là 1 giờ, đó là theo nguyên lý thời gian tuyệt đối của Niutơn. Nhưng Anhxtanh cho rằng một người ở mặt đất mà đo thời gian phát xong cuốn băng đó trên mặt trăng thì kết quả không phải là 1 giờ mà có thể hơn hoặc kém một giờ. Như vậy thời gian là tương đối, tức là độ dài thời gian đo được trong những điều kiện khác nhau là khác nhau. Đến những năm 30 từ các thí nghiệm kích phát nguyên tử hyđrô người ta đã chứng minh được thời gian bị kéo dài. Về không gian cũng tương tự, độ dài theo phương chuyển động của cái thước chuyển động với tốc độ nhanh cũng bị rút ngắn lại so với cái thước ở trạng thái nằm yên. Đó là thuyết tương đối hẹp.

Luận văn về thuyết tương đối hẹp này của Anhxtanh đã nhanh chóng thu hút sự hứng thú mạnh mẽ của một bộ phận các nhà khoa học có kiến thức cao trong giới vật lý. Qua luận văn này họ nhận được những thông tin mới mẻ về cuộc cách mạng trong vật lý.

Tuy nổi tiếng vậy nhưng cuộc sống của Anhxtanh vẫn chẳng có gì thay đổi: Hàng ngày 9 giờ ông đến cơ quan làm những việc sự vụ. Sau giờ làm việc ông đến làm thuê cho xưởng làm dấm.


Nhiều học giả nổi tiếng đinh ninh Anhxtanh phải là một giáo sư, họ tìm gặp ông và rất ngạc nhiên khi thấy ông chỉ là một viên chức quèn, đầu tóc rối bù, áo sơ mi nhăn nhúm. Vị giáo sư nổi tiếng Plăng đã phải kêu lên: “Làm sao lại có thể chà đạp nhân tài đến thế. Một thiên tài sắp phát động một cuộc cách mạng trong vật lý, một Côpecnic của thế kỷ 20 mà lại phải làm những việc lặt vặt của một công chức hạng ba ở Cục bản quyền, thật bất công”.
Năm 1909, nhờ giáo sư Klein tích cực giới thiệu, ĐH công nghiệp liên bang Zurich đã mời Anhxtanh làm giáo sư, lương 4500 frăng một năm. Anhxtanh rất vui vì bây giờ ông đã có thể nuôi được gia đình bằng việc nghiên cứu vật lý.

Danh tiếng Anhxtanh ngày càng lớn. Mùa hè năm 1913 Plăng và Lơnxtow ở Viện khoa học Prusi (Đức) đã mời Anhxtanh về làm giáo sư ĐH Beclin, Viện sỹ Viện khoa học Prusi và Cục trưởng Cục nghiên cứu vật lý với mức lương rất hậu hĩnh. Anhxtanh đã nhận lời. Với những thiết bị nghiên cứu vào loại bậc nhất và điều kiện vật chất đầy đủ, Anhxtanh đã đưa thuyết tương đối đi vào con đường phát triển huy hoàng. Chỉ hai năm sau khi ở Beclin, năm 1916 ông đã hoàn thành luận văn có tính tổng kết về thuyết tương đối: “Cơ sở thuyết tương đối rộng” và đưa ra giả thuyết hữu hạn vô biên của không gian vũ trụ, đã tổng kết sự phát triển của thuyết lượng tử, đã lần đầu tiến hành khám phá sóng lực hấp dẫn được công nhận là đỉnh cao của lý luận vật lý thế kỷ 20. Về sau Anhxtanh căn cứ trên phương trình chuyển động của thuyết tương đối đã đưa ra ba dự đoán lớn:

· Tia sáng bị cong đi trong trường lực hấp dẫn của mặt trời

· Quy luật chuyển động của sao Thủy ở điểm gần mặt trời nhất: sau mỗi vòng quay quanh mặt trời, vị trí điểm gần mặt trời nhất của sao Thủy bị biến đổi một ít.

· Tia quang phổ trong trường lực hấp dẫn bị dịch chuyển về phía ánh sáng đỏ (phía sóng dài)

Ngày 29/5/1919, các nhà thiên văn người Anh thông qua quan sát nhật thực đã chứng minh tính chính xác của Thuyết tương đối rộng của Anhxtanh: Tia sáng bị uốn cong trong trường lực hấp dẫn của mặt trời, không gian là không gian cong, học thuyết mới về lực hấp dẫn hoàn toàn chính xác. Hai dự đoán sau cũng lần lượt được nghiệm chứng. Anhxtanh nhanh chóng trở thành thần tượng được cả thế giới sùng bái, từ khắp nơi trên thế giới lời mời gửi đến Anhxtanh như những đợt sóng triều. Ông đã đến nhiều nơi trên thế giới để thuyết trình về thuyết tương đối, ông được mệnh danh là “Niutơn của thế kỷ 20”.

Năm 1933, để phản đối chế độ phát xít Đức, Anhxtanh đã rời bỏ nước Đức đến định cư ở thành phố Prinxetôn nước Mỹ. ở Mỹ Anhxtanh đã có nhiều bài diễn thuyết cho hòa bình của nhân lọai. Ông đã sống 22 năm ở Mỹ. Ngày 18 tháng 4 năm 1955 Anhxtanh đx vĩnh viễn ra đi, hưởng thọ 76 tuổi. Thế giới mất đi một nhà khoa học kiệt xuất nhất, nhân lọai mất đi một người lương thiện nhất. Ông mất đi nhưng tên tuổi ông đã trở lên bất tử, đúng như lời ông nói: “Chúng ta chết đi nhưng sự nghiệp sáng tạo chung của chúng ta sẽ còn mãi mãi”.
 
T

thienannancy

Chào các bạn , chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ những bài vật lý 8 khó và hay nhé !

bài 1 : 2 bến sông AB dọc theo 1 con sông dài 9 km .có 2 cano xuất phát cùng lúc , cđ ngược chiều nhau và có cùng vận tốc là v .. khi gặp nhau trao cho nhau 1 thông tin nhỏ ( thời gian ko đáng kể ) rồi lập tức quay lại điểm xuất phát ban đầu . hiệu tổng thời gian của 2 cano (tổng của 1 cano : tg đi và tg về nơi xp ban đầu ) là 1,5 h .nếu vận tốc của 2 cano là 2v thì hiệu trên là 0,3 h . tính vận tốc của cano .
bài 2: Đĩa xe đạp R=10cm , chiều dài đùi đĩa là OA=d=16cm,bán kính líp là r=4cm , đường kính bánh xe là 60cm .
1/ a, tay quay bánh xe nằm ngang , muốn khởi động cần 1 lực F=400N
Tính lực cản của mặt đường lên xe ( Fc)
(Fc tiếp tuyến ở mặt đường vs bánh xe )
b, tính lực căng của xích kéo
2/ người đi xe trên quãng đường dài 20km .Tác dụng một lực lên bàn đạp như câu a trên 1/10 mỗi vòng quay
a, tính công A trên cả quãng đường
b, tính công suất biết t = 1h
 
L

longcongtruong

người Đức nuôi cá.
chi cần sắp xếp các giữ kiện rồi ngẫm nghĩ một thời gian la ra thôi mà(khoảng vài năm hoặc cả đời)
 
Y

yen8anamhong

hỏi

Một cái búa máy có quả nặng có khối lượng là 100 kg rơi từ độ cao 5 m xuống cọc móng khiến cho cọc móng thụt sâu 20cm . Tính lực cản của đất với cọc biết rằng khi đóng vào cọc búa máy truyền 80% công của nó vào cọc.
:-\"
 
Top Bottom