[văn10]Nguyễn Trãi Ở Ânvà vụ án Lệ Chi viên

S

spamer_no1

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Trong thời gian Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa, Nguyễn Trãi cùng em họ Trần Nguyên Hãn đồng tâm ra giúp sức tụ nghĩa chống quân Minh. Mỗi khi Nguyễn Trãi thảo thư từ, chiếu hịch đều có Thị Lộ ở bên giúp việc sửa chép. Lúc nào, Thị Lộ cũng cần mẫn tươi cười, nhẫn nại, hoạt bát, đoan chính làm việc thông thái nên được mọi người yêu mến, kính nể.
Năm 1428, kháng chiến 10 năm chống giặc phương Bắc toàn thắng, Nguyễn Trãi được tước hầu, làm Thượng thư bộ Lại (trông coi nhân viên, quan lại). Nhưng chỉ một năm sau bị vua ngờ liên can đến nghi án Trần Nguyên Hãn (vốn bị vua nghi ngờ, buộc tội chết, Nguyên Hãn đã nhảy sông tự tử)

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, phong ông tước Quan Phục hầu và cho theo họ Lê của vua.

Sau thắng lợi 1 năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn, một tướng giỏi vốn là dòng dõi nhà Trần định mưu phản, nên sai người đi bắt hỏi tội. Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự vẫn. Vì Nguyên Hãn là anh em họ của Nguyễn Trãi nên ông cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên quan tới tội mưu phản. Sau đó vì không có chứng cứ buộc tội, vua Lê lại thả ông ra. Tuy nhiên cũng từ đó ông không còn được trọng dụng như trước nữa.

Thực chất, cuộc thanh trừng công thần của Lê Thái Tổ có động cơ từ việc muốn thiên hạ hết mong nhớ nhà Trần; đồng thời cũng là cuộc tranh chấp quyền lực thời bình giữa các tướng có xuất thân họ hàng hoặc cùng quê với vua Lê - do Lê Sát đứng đầu - và các tướng xuất thân vùng khác, tiêu biểu là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Hơn nữa đó lại còn là cuộc tranh chấp ngôi thái tử giữa con cả của vua là Lê Tư Tề (người từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và được Nguyên Hãn ủng hộ) với con thứ Lê Nguyên Long (được Lê Sát ủng hộ).

Bị oan khuất, sau khi ra khỏi ngục, ông làm bài Oan thán bày tỏ nỗi bi phẫn, trong đó có câu:

Hư danh thực hoạ thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
Dịch:

Danh hư thực họa nên cười quá,
Bao kẻ dèm pha xót người trung


Nguyễn Trãi cũng đã bị tống giam. Sau đó, nhờ các đại thần can thiệp, ông được miễn truy cứu. Chán cảnh quan trường đầy âm mưu thủ đoạn, ông làm quan một thời gian rồi xin nghỉ việc về Côn Sơn.
Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Những năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính điều hành triều chính. Nguyễn Trãi tham gia giúp vua mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua:

"Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than".
Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.

Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.

Tuy nhiên, trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn ít tuổi nhưng không dễ trở thành vua bù nhìn để Sát khống chế mãi. Năm 1437, nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê Ngân; các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có Nguyễn Trãi. Lúc đó ông đã gần 60 tuổi, lại đảm nhiệm chức vụ cũ, kiêm thêm chức Hàn lâm viện Thừa chỉ và trông coi việc quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả nước chia làm 5 đạo). Thời gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy được tài năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình lại xảy ra tranh chấp.

Vua Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi thái tử cho con mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu Dương Thị Bí và ngôi thứ tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được hoàng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này).

Vụ án vườn vải phức tạp hơn các bác nghĩ nhiều, nguồn gốc sâu xa có thể là âm mưu "giết người diệt khẩu" của bà hoàng hậu Nguyễn Thị Anh.
Có thuyết nói Lê Thái Tông nuôi con của tu hú và Lê Nhân Tông ko phải là con của ông, bà Anh có thai Nhân Tông trước khi lấy Thái Tông nên chỉ 6 tháng sau khi vào cung bà đã sinh rồi. Có 2 giả thuyết, bà Anh trước đó đã quan hệ với 1 người họ Nguyễn, thuýet khác nói là "tình củm" với 1 người thuộc hoàng tộc là Lê Nguyên Sơn, dù thế nào đi nữa thì cái thai kia tác giả ko phải là Thái Tông. Đại thần Đinh Liệt có làm bài thơ "Họa tự trong nhà", dịch nghĩa như sau:


Nhân Tông 6 tháng đã ra hoa
Dòng máu ai đây, quý báu à?
Núp bóng Thái Tông làm linh dược
Thị Anh dùng ngón đổi lòng cha

Điều này có thể khẳng định rõ hơn, khi Nghi Dân cướp ngôi giết bà Anh và Nhân Tông, đã có bài chiếu nói Nhân Tông ko phải là con của Thái Tông. Do đó ong vua Thái Tông vì chơi bời gái gú nhieu mà chết, bà Anh nhanh chóng ra tay trừ diệt Nguyễn Trãi và thân thuộc cũng như giết 2 vien hoạn quan Đinh Thắng, Đinh Phúc để bịt đầu mối.
- Nguyễn Trãi và Thị Lộ bị giết vì họ thường bênh vực "tình dịch" của bà Anh, đó là bà Giao (mẹ vua Thánh Tông)
- 2 hoạn quan bị giết vì họ là người ghi chép ngày giờ vua "zui zẻ" với các phi tần nên có thể họ phát hiện ra sự khác thường trong việc mang thai của bà Anh. Có lẽ họ đã mật báo cho 1 số đại thần, nên Đinh Liệt viết:


Nhân Tông đâu phải máu Nguyên Long
Sáu tháng hoài thai cảnh lạ lùng
Năm tháng ngày giờ, Đinh Thắng chép
Hoàng bào dơ bẩn tiếng ngàn năm
 
S

spamer_no1

*********** Lê thánh Tông và nguyễn thị Lộ có quan hệ như thế nào?
Năm 1433, Thái Tổ Lê Lợi mất, Nguyên Long 10 tuổi, kế ngôi (Lê Thái Tông). Lê Sát làm Đại tư đồ. Nguyễn Trãi được Thái Tông di theo mệnh của Thái Tổ gọi ra phụ chính, chức Gián nghị đại phu.
Theo ''Toàn thư tục biên'', Lê Sát thấy Thái Tông còn nhỉ, thích chơi bời, lười biếng học tập, liền lập một ban văn thần, trong đó có Nguyễn Trãi để thay phiên vào cung Kinh Diên dạy vua học. Việc này khiến Thái Tông vô cùng khó chịu, và bọn họ bị Thái Tông đuổi về. Sẵn lòng tức giận ông khép Lê Sát vào tội lộng quyền, và cho được tự tử tại nhà.
Năm 1438, Thái bảo Ngô Từ đưa ra ý kiến, Thị Lộ vốn dịu dàng khéo léo, học giỏi, văn hay, may ra có thể giúp nhà vua chăm chỉ học hành. Sau khi hội ý với Nguyễn Trãi và Thị Lộ, Ngô Từ đã đưa Thị Lộ vào chầu Thái Tông và được vua chấp nhận, phong là Lễ nghi học sĩ, ngày đêm kề cận tin dùng.
Mồ côi mẹ từ lúc 2 tuổi, đương nhiên Nguyên Long luôn cảm thấy thiếu thốn cũng như thèm khát tình mẫu tử. Năm 1438, Thái Tông (15 tuổi) gặp được Nguyễn Thị Lộ (đã 48 tuổi), lại là một người quen biết, từng chung sống với mẹ mình, đã chứng kiến cảnh mẹ mình hy sinh mạng sống để mình được lên ngôi ngày nay, tự nhiên cậu bé mồ côi kia không khỏi vô cùng xúc động. Tất cả tình thương ấy có lẽ nhà vua đã dồn hết vào Thị Lộ, coi như một bà gì ruột, vớt vát lại những gì đã mất mát từ thuở bé thơ. Về sau, khi Thái Tông đến tuổi 17, 18, sáng chiều nam nữ cận kề, thật cũng khó mà tránh khỏi bị tiếng đời dị nghị ?

Trong bốn năm (từ 1438-1442), nhờ có sự hướng dẫn của Thị Lộ, Thái Tông đã trị vì quốc gia đại sự một cách khoan từ, sáng suốt. Sử thần Vũ Quỳnh khen:''Thị Lộ đã cảm hoá được Lê Thái Tông, thuyết phục vua chăm chỉ đèn sách, lại giúp nhà vua nhiều ý kiến hay để sửa trị nước. Cậu bé bất trị nay đổi thành một ''minh quân'' khác hẳn trước... Ngài lại thể theo lòng trời đất nuôi sống muôn loài, ban hành''chính sách xót thương bất nhẫn'' của bậc đế vương, xử kiện xét tf phần nhiều khoan thứ. Đức ''hiếu sinh'' của ngài là đức của vua Thuấn xưa''.
Việc tranh giành ảnh hưởng triều chính và ngôi vị thái tử ooôử mọi triều đại phong kiến bao giờ cũng có nguồn gốc từ các bà vợ vua. Trong số năm bà vợ của Thái Tông, có bà phi Nguyễn Thị Anh sinh ra Bang Cơ, được phong làm thái tử. Lần đó, bà phi Ngô Thị Ngọc Dao (con gái của Ngô Từ) cũng đang có mang, lại chiêm bao thấy Ngọc Hoàng sai một vị tiên xuống đầu thai vào mình. Biết chuyện, Thị Anh lo sợ một khi Ngọc Dao sinh ra quý tử sẽ chiếm ngai thái tử của Bang Cơ nên đã vu cho Ngọc Dao dính líu đến một việc bùa ngãi, sau đó xui Thái Tông khép bà vào tội ''bị voi đày''.
Nguyễn Trãi nói với Thị Lộ khuyên Thái Tông đừng nghe lời xúc xiểm mà làm việc thất đức. Vua đồng ý, cho phép Thị Lộ đem Ngọc Dao giấu ở chùa Huy Văn. Vài tháng sau, Ngọc Dao sinh ra một người con trai được nhà vua đặt tên là Tư Thành (vua Lê Thánh Tông sau này). Để tránh khỏi Nguyễn Thị Anh mưu hại, Nguyễn Trãi đưa hai mẹ con Ngọc Dao ra An Bang (Quảng Ninh ngày nay). Từ đó, Nguyễn Thị Anh hết sức thâm thù vợ chồng Nguyễn Trãi và Thị Lộ.
Sau khi Thái Tông qua đời, hai tướng của triều đình lúc đó là Đinh Liệt và Trịnh Khả đứng lên tuyên bố Thái Tông đã lập Bang Cơ làm thái tử và uỷ thác cho Trịnh Khả phụ chính. Thế là Bang Cơ mới 2 tuổi đã lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), Thị Anh được ngồi sau rèm nhiếp chính. Nhân việc vua Thái Tông đột tử, Thị Anh liền chùa với bọn gian thần ra lệnh tra tấn Thị Lộ cực kì dã man. Bà bị ép và buộc phải nhận tội đã cùng Nguyễn Trãi âm mưu giết vua. Thế là cả hai cùng thân thuộc bị trảm quyết hết sức tàn nhẫn. Vụ án Lệ Chi Viên dù đã được xét xử nhưng dư luận dân chúng và quan lại trong triều hết sức ngờ vực đặt ra nhiều câu hỏi khó lòng giải đáp.
Thời đó trong dân gian từng lưu truyền nhiều truyền thuyết kì lạ về cuộc đời của Thị Lộ. Trước đây khi dọn vườn, Nguyễn Trãi có giết một bầy rắn con, nay rắn mẹ hiện hình thành Thị Lộ để báo oán.
Năm 1459, Nhân Tông (Bang Cơ) và Từ Tuyên Thái Hậu (Nguyễn Thị Anh) bị hoàng tử Nghi Dân giết để tiếm ngôi. Trong một bài chiếu, Nghi Dân có nói: ''Trẫm là con trưởng của Thái Tông Văn hoàng đế, trước đây đã được giữ ngôi chính ở Đông Cung. Chẳng may tiên đế đi tuần về miền Đông, bỗng băng hà ở bên ngoài. Nguyễn Thái Hâu muốn giữ vững quyền vị, ngầm sai nội quan Tạ Thanh dựng Bang Cơ làm vua, bắt trẫm làm phiên vương. Sau Tạ Thanh tiết lộ việc ấy, lây đến Thái Uý Trịnh Khả và Tư Không Trịnh Khắc Phục, Thái Hậu bắt giết cả để diệt khẩu''.
Tương truyền, khi thuật lại chuyện cũ, Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Dao có dặn vua Thánh Tông rằng: ''Chính Nguyễn Thị Anh đã ngầm sai Tạ Thanh bỏ thuốc độc cho Thái Tông chết, nhưng con nên giữ kín việc ấy''.
Bùi Văn Nguyên trong ''Con người Nguyễn Trãi'' (1984) cho rằng :''Bọn gian thần phía bà phi Nguyễn Thị Anh âm mưu giết hại Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ để giành ngôi vua cho Bang Cơ (Lê Nhân Tông) khỏi rơi vào tay của Tư Thành (sau này là Lê Thánh Tông), người được Nguyên Trãi và Thị Lộ ủng hộ. Đó chính là nguyên nhân sâu xa của vụ án Lệ Chi Viên.
Đến năm 1464, Lê Thánh Tông (1460-1497)lên ngôi. Ngay lập tức, ông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi, truy phong chức Đặc tiến kim tử Vinh Lộc đại phu, tước Tán Trù bá và cho người con trai duy nhất trốn thoát nạn là Nguyễn Anh Vũ làm tri huyện và cấp cho họ Nguyễn một trăm mẫu ruộng để lo việc thờ cúng. Tuy nhiên, đáng tiếc không thấy nhà vua ra lệnh truy lại xem ai đã giết Thái Tông?
Nguyễn Khắc Thuần trong ''Việt sử giai thoại'', tập V lại có ý kiến cho rằng:''Trước đây, vua vẫn thích vợ của quan thừa chỉ Nguyễn Trãi, tên là Nguyên Thị Lộ. Thị Lộ đẹp người lại có tài văn chương. Vua gọi vào cung, cho làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu cận. Khi đi tuần du miền Đông về, qua Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ đàm đạo rồi mất. Các quan bí mật đưa linh cữu về. Ngày 6 thì đến kinh sư, vào đến cung là nửa đêm, lúc ấy mới phát tang. Ai cũng nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua.
Sách ''Khâm định Việt Sử thông giám cương mục'' (chính biên, quyển 17, tờ 23) chép: ''Trước, vợ lẽ của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, đẹp người, hay chữ, vua nghe tiếng, mời đến, phong làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu cận, nhân đó mà cợt nhả với Nguyễn Thị Lộ. Khi vua đi tuần du phía Đông, xa giá quay về đến Lệ Chi Viên thì mắc chứng sốt rét. Thị Lộ vào hầu suốt đêm. Đến sáng thì nhà vua mất. Người ta nói Thị Lộ giết vua, bèn bắt Thị Lộ''.
Nguyễn Khắc Thuần trong ''Viềt sử giai thoại'' có lời bàn: ''Trước đó, vua Lê Thái Tông đã loại bỏ bốn trong số năm bà vợ, còn một bà thì đang bận con thơ, nhân đó mà cho Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ là người xinh đẹp ''ngày đêm hầu cận'', rồi sàm sỡ với bà.
Sau nhiều ngày tuần du mệt nhọc, vua lại thức suốt đêm với một người phụ nữ bên bờ sông, nếu sốt rét không giết chết vua, ắt cũng chẳng thiếu nguyên nhân đủ để giết vua hoặc giả làm cho vua bị bại hoại... Báy giờ, ai cũng nói Thị Lộ giết vua,dẫu chẳng ai thấy bà làm việc thất đức tày trời đó''.
 
Top Bottom