Bài thơ bắt đầu là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”  và kết thúc bài thơ cũng là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà  ?” khiến cho nỗi niềm của tác giả được đẩy thêm tầm vóc. Những câu hỏi  tu từ trong bài dường như cứ xoáy lên mỗi lúc một cao hơn ? Cảnh vật thì  đẹp nhưng những hình ảnh về mảnh vườn xanh mướt, về bến sông trăng, về  con thuyền và cả mối tình của tác giả dường như vô tình làm nhòe đi để  tạo nét mênh mang, phù hợp với tâm trạng của nhà thơ – một con người  đang ở giữa hai bờ của sự sống và cái chết. Cảnh thật lung linh, huyền  ảo, đầy thơ mộng nhưng lồng vào đấy là tâm trạng của chủ thể trữ tình  thì cũng trở nên buồn, buồn nhưng mà có hồn. 
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê  đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương  của một nhà thơ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng  với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác  họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy  là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán  trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống  hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ  ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt  lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao  năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day  dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn  ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp  như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc  đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau  thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ, mà trong đó thơm  ngát nhất, thanh khiết nhất là “Đây thôn Vĩ Dạ”.
         “Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cảnh liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”.
“Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ tuyệt bút này đã từng gây ra biết bao tranh  luận bởi cái hay của nó không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn hay ở nghệ  thuật từ âm điệu, câu chữ, hình ảnh đến cả nghệ thuật tả cảnh ngụ tình  được vận dụng một cách thành thạo và khéo léo, nhưng cảnh thì ít mà tình  thì nhiều cho nên cả bài thơ là một âm điệu du dương được gảy lên từ  tiếng lòng của chính nhà thơ. Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng  từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc – người  yêu đơn phương mà ông đã thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa – một người con  gái dịu dàng thướt tha của thôn Vĩ xứ Huế. Nhưng bức tranh thôn Vĩ mà  Hoàng Cúc gửi cho tác giả chỉ là cái cớ trực tiếp để nảy sinh thơ, còn  động lực và cội nguồn sâu xa làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn  lâu rồi, chỉ chờ đến cơ hội là nó sẽ bộc phát. Đó là vẻ đẹp của một dáng  Huế yêu kiều – nơi đã khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con  gái và cũng là nơi để lại một mối tình đơn phương trong lòng tác giả:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”
Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cho bao văn nghệ sĩ, không ít  người đã có những sáng tác xúc động về xứ Huế mộng mơ này: “Đã bao lần  đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay là “Trở lại  Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ  sông…”, Huế có trong câu hát, có trong lòng mọi người và nay lại có  trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang nhiều  sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới  thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh  bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà  sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Không phải của  Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết vối  Huế của thi nhân mà vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải này. Thật sự ở  thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà tác giả đã giục giã mọi người  đến đấy? Ba câu thơ tiếp theo sẽ vẽ ra một hình tượng chung – một mảnh  vườn thông Vĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng  tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức  tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và  Huế nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn  cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân  chín” của tác giả:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”.
Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”,  “nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” đã tỏa sức nóng  cho bức tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong và sáng đang trải dài trên  những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh  khắc đặc biệt, gắn liền với cái “nắng mới lên” trong trẻo, tinh khôi,  thật cụ thể và đầy gợi cảm trong buổi sớm mai.
Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm  mới nên bao giờ cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu  tiên chiếu rọi xuống làng quê, chiếu thẳng vào những vườn cây tươi mát,  sum sê làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những  viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mượt:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ sử dụng đại từ phím chỉ “ai” để nói đến con người xứ Huế. Câu  thơ có vẻ đẹp thật long lanh, vì có sắc “mướt” chăng? Hay vì được sánh  với “ngọc” chăng? Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc lấp lánh đang tỏa vào  không gian cái sác xanh của mình. Khung cảnh đơn sơ nhưng vô cùng lộng  lẫy, chỉ bằng một vài từ gợi tả “mướt quá” và so sánh “xanh như ngọc”  Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh quê rực rỡ, chan hòa sự sống. Qua đó  chứng tỏ, nhà thơ là một ngòi bút có tài quan sát tinh tế và trí tượng  phong phú. Và cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi có sự hiện diện của  con người, nhưng người ở đây không phải toàn diện từ đầu đến chân mà chỉ  là khuôn mặt “chữ điền” kín đáo, dịu dàng và phúc hậu:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ở đây có hơi hướng Á Đông cổ điển, mặt chữ “điền” là khuôn mặt đượm nét  phúc hậu đoan trang, nếu nói “lá trúc che ngang” thì chỉ có thể nói về  một cô gái có vẻ đẹp rất Huế. Cô gái e lệ đứng thấp thoáng sau những lá  trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên  và con người hài hòa với nhau đã tạo nên cái thần thái, cái hồn của Vĩ  Dạ - một Vĩ Dạ vốn thơ mộng. Và đối với tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, đó là  thôn Vĩ của tình yêu và hoài niệm.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Thực tại phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với  hai hình ảnh đối lập: “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió  trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc  Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó  đã tự làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường  của mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của  nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió  tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình và  người yêu và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây  giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy  giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp  một tâm hồn đau buồn, u uất:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám  tẻ nhạt. Với biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình  ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong  lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn  vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày  của người dân nơi đây: một lối sống êm đếm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa  bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến  mặt đất, từ đất, gió, mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau  những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn  xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng  tưởng. 
Trên cái xu thế đang trôi đi, chảy đi, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dòng “về” với mình, ấy là “trăng”:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay? ”
Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò  trăng, một con thuyền đầy trăng…Không gian “bến sông trăng” nghe sao mà  quen thuộc đến thế: “Bến sông trăng ôi nỗi nhớ đã đi qua mong tìm đến,  biết khi nào được gặp lại em yêu hỡi. Trong cái lãnh cung của sự chia  lìa, vốn không có “niềm trăng và ý nhạc” nên nhà thơ ao ước có trăng về  như một niềm khao khát, một tri âm, một vị cứu tinh. Không biết thuyền  có chở trăng về kịp cho người trên bến đợi hay không ? – đó là một câu  hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Tác giả  hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc  đời mình. Giờ đây đối với ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn  tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của  mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đau đớn, gây nên nỗi xót thương cho  người đọc. Bằng câu hỏi tu từ “có chở trăng về kịp tối nay ?” cùng với  hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc khoải, bồn chồn,  vừa như hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại.  Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc  Tử khi vọng nhớ về thôn Vĩ Dạ.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?”
Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ là đến hình bóng đẹp của người “khách  đường xa”. Điệp từ “khách đường xa” kết hợp với nhịp thơ 4/3 thể hiện  nỗi niềm trông ngóng đến da diết của tác giả. Đây còn là cách nói về nỗi  cách xa nhưng không chỉ có không gian mà còn có sự xa cách về tâm hồn  và tình cảm. Có thể “đường xa” là xa về không gian, về thời gian nhưng  cũng có thể là “đường đến trái tim xa”, cho nên tất cả chỉ gói gọn trong  một chữ “mơ” duy nhất. Hình ảnh “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn  không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong  cõi mộng tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Mà tại sao  lại “nhìn không ra” ? Có lẽ là do màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá  hòa lẫn vào làn sương mờ ảo. Thật ra “nhìn không ra” không phải là không  nhìn ra, đây chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng – trắng một cách  kì lạ, bất ngờ. Và hình như giữa giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có  một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?”