văn bản nghị luận

  • Thread starter minhtrang1999
  • Ngày gửi
  • Replies 2
  • Views 2,602

H

heobayby125

cam nghi ve tinh than yeu nuoc cua nhan dan ta

\Rightarrow
Đất nước ta từ buổi đầu dựng nước và giữ nước đã trải qua 4000 năm lịch sử với biết bao cuộc kháng chiến vĩ đại, hào hùng của dân tộc. Nhưng trong đó, phải nói đến lòng nồng nàn yêu nước của dân ta. Đó là một truyền thống quý báu của dân tộc, chính nó là nguồn động lực lớn để chúng ta đánh thắng mọi kẻ thù.
Chúng ta phải tự hào là con rồng cháu tiên. Tự hào là người dân Việt, tự hào về lịch sử vĩ đại của dân tộc ta. Đặc biệt chúng ta phải ghi nhớ đến công lao vô cùng to lớn của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của dân tộc anh hùng qua các thời đai.
Trong lịch sử phong kiến có: khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40, chiến thắng sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, Quang trung đại phá quân Thanh, Phan Bội Châu và cuộc cách mạng Đông Dương, ... với tình yêu nước sâu sắc, họ đã đánh tan sức mạnh của giặc ngoại xâm. Không gì có thể quý hơn và quan trọng hơn lòng yêu nước.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã chiến đấu hết mình và đã có những cuộc chiến vô cùng hào hùng, oanh liệt. Nhưng, để có tuyền tiến vững chắc thì hậu phương cũng phải chắc chắn. Đó cũng là nhờ công lao to lớn của những người phụ nữ, trẻ em và ngay cả đến người già. Và chính những nguyên nhân đó đã tạo nên Cách mạng tháng tám thành công 1945 và chiến thắng Điện Biên Phủ làm chấn động toàn cầu. Đấy cũng là lòng yêu nước của nhân dân ta.
Còn trong kháng chiến chống đế quốc Mĩ thì sao? Nhân dân và bộ đội ta đã chiến thắng kẻ thù một cách vẻ vang, vì đó là ngày giải phóng miền Nam 30-4-1975. Đấy là ngày không thể quên được đối với người dân Việt. Đó là do đâu? Chỉ có câu trả lời đó là lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta và cũng là tiếng nói của dân tộc.
Khi hòa bình lập lại, đất nước ta bước vào thời kì đổi mới. Xây dựng đất nước giàu mạnh. Để nước ta có thể sánh vai bằng Hoa Kì, Trung Quốc, Nhật Bản, v.v... những nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới. Và cũng là để biết ơn những người có công lao to lớn với tổ quốc và dân tộc.
Qua đây, chúng ta đã hiểu thêm hơn nữa về tinh thần yêu nước của nhân dân ta qua mọi thời đại. Vì vậy nó mãi là truyền thống quy sbáu của dân tộc ta trước đây và mãi mãi về sau.;);):D
 
H

hiensau99

Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV là lịch sử chống quân xâm lược phương Bắc. Đó là lịch sử của 2 lần chiến thắng quân Tống, 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông hùng mạnh và 10 năm gian khổ chống quân Minh ... mà những chiến công hiển hách Bạch Đằng, Như Nguyệt, Chi Lăng ... vẫn còn vang dội đến tận ngày nay. Chính vì vậy, văn học thời kì đó đã phản ánh khá rõ nét tư tưởng yêu nước cùng lòng tự hào sâu sắc của dân tộc ta, nhất là qua ba văn bản Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ và Nước Đại Việt ta.

Trước hết, trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã bày tỏ ý nguyện muốn dời đô từ Hoa Lư về Đại La để đóng đô ở nơi “trung tâm trời đất,mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”, để “trên vâng mệnh trời, dưới hợp lòng dân”. Như vậy, tư tưởng yêu nước đã được thể hiện ở việc gắn liền sự bền vững của một triều đại với ý nguyện của muôn dân. Khi nhìn lại các triều đại trước, ông đã rất đau xót cho số vận quá ngắn ngủi, để cho “trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi”. Từ đó ta thấy rằng, xây dựng đất nước là đem lại hạnh phúc, thái bình cho dân. Xưa nay, thủ đô là trung tâm về văn hoá , chính trị của một đất nước . Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của một dân tộc. Thủ đô có ý nghĩa rất lớn . Dường như lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có các cuộc dời đô như thế . Mỗi lần dời là một thử thách của cả dân tộc. Đó phải là quyết định của người có đầu óc ưu tú nhất thời đại . Có thể nói, với trí tuệ anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời, Lý Công Uẩn đã chỉ ra lợi thế về lịch sử, địa lý, hình thế núi sông, về sự thuận tiện trong giao lưu văn hóa và phát triển mọi mặt của thành Đại La, nhưng ông cũng không quên chỉ ra những thuận tiện cho nhân dân. Đặc biệt, ông khẳng định “đây quả thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước,cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Những lời lẽ ấy tuy giản dị nhưng lại thấm đẫm niềm tự hào khi nói về đất nước, thể hiện một khao khát mãnh liệt đó là thống nhất giang sơn về một mối. Trong lời khẳng định ấy, ta còn đọc được khí phách của một dân tộc: Đại La sẽ là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Giá trị chủ yếu của bài là tư tưởng yêu nước. Tiếng nói của tác giả là tiếng nói của nhân dân, của thời đại và khát vọng về một đất nước độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh .

Tiếp theo triều đại nhà Lí rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh L í Thái Tổ , nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình ở thời đại nhà Trần với đầy những chiến công oanh liệt. Những người lãnh đạo thời kì này đều ghi tên mình vào sử sách . Trần Quốc Tuấn , tác giả “Hịch tướng sĩ” là một ví dụ . Đọc “Hịch Tướng Sĩ” -một áng thiên cổ hùng văn, ta cứ ngỡ như được nghe tiếng nói của cha ông , của non nước . Nó nồng nàn một tinh thần yêu nước ,nó biểu hiện một lòng căm thù giặc sâu sắc , một ý chí quyết chiến quyết thắng quân thù không chỉ là của riêng Trần Quốc Tuấn mà là kết tụ trong đó những ý nguyện tình cảm của dân tộc. Trước tai hoạ đang đến gần: quân Mông - Nguyên đang lăm le xâm lược lần thứ hai với quy mô chưa từng thấy hòng không cho một ngọn cỏ của nước Đại Việt được mọc dưới vó ngựa của 50 vạn quân , Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch” để kêu gọi tướng sĩ một lòng , chuẩn bị đương đầu với cuộc chiến sống còn . Những lời lẽ đanh thép mà chan chứa tình cảm , những lí lẽ sắc bén mà đi vào lòng người đã làm thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và ý thức dân tộc ở các tướng sĩ, chỉ ra tình hình nguy ngập của đất nước, chỉ ra cho tướng sĩ thấy tội ác của bọn sứ giặc, và những việc cần làm để chống giặc. Ông đã tự bày tỏ lòng mình, lòng căm giận như trào ra đầu ngọn bút, thống thiết và sâu lắng: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Nỗi đau của Trần Quốc Tuấn chính là nỗi đau của dân tộc khi độc lập tự do của đất nước bị xâm phạm, là tinh thần của một thời đại “sát thát”, lòng yêu nước của tác giả cũng là của cả dân tộc Đại Việt anh hùng. Cùng với sự phê phán nghiêm khắc thái độ và hành động sai trái của tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn còn chỉ bảo ân cần những việc cần làm, đó là đề cao cảnh giác, “huấn luyện quân sĩ,tập dượt cung tên”. Đó là xác định duy nhất một con đường là tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước, mang lại tự do cho nhân dân.

Kế thừa và phát triển tư tưởng yêu nước , lòng tự hào dân tộc trong “Hịch tướng sĩ”, vào năm 1428 sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kết thúc thắng lợi, Nước Đại Việt ta (trích Bình Ngô đại cáo) của Nguyễn Trãi được công bố-một bản hùng ca đồng thời qua thi pháp, ngôn từ không chỉ là một áng văn nghị luận mẫu mực mà đã thể hiện hệ tư tưởng yêu nước hoàn thiện ở một tầm cao mới. Với giọng văn đầy hào khí, Nguyễn Trãi đã nêu cao sức mạnh quật cường của dân tộc "Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô - Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã", qua dẫn liệu này chúng ta thấy nước Đại Việt đã hội đủ các điều kiện để trở thành một dân tộc quốc gia văn hiến:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục bắc nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có

Những điều trên cho ta thấy rõ niềm tin của dân tộc vào cuộc kháng chiến chính nghĩa, niềm tự hào trước truyền thống oanh liệt của dân tộc. Theo quan điểm của tác giả thì chống xâm lược là chính nghĩa, cứu dân cứu nước là đại nghiã. Đây có thể xem là một nguyên lý đạo đức, đã góp phần hình thành nên hệ tư tưởng yêu nước truyền thống của nhân dân ta. Trong Nước Đại Việt ta, nổi bật là việc nhấn mạnh đến tư tưởng vì dân, quan tâm trước hết đến đời sống nhân dân, đến hạnh phúc của mọi người. Đây chính là một tư tưởng lớn nhất đã được thiên cổ hùng văn này thể hiện:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Ý tưởng đó là sự nối tiếp lời tâm huyết trong di chúc của Trần Hưng Đạo cho Vua Trần: "Khoan thư sức dân. Lấy kế bền gốc sâu rễ là thượng sách giữ nước". Đây chính là tư tưởng chính trị quan trọng trong chính sách quản lý đất nước.

Qua ngôn ngữ thể hiện trong ba văn bản trên,tư tưởng yêu nước đã được phản ánh rất rõ nét:

- Yêu nước, trước hết cần khẳng định nước ta là một dân tộc, quốc gia văn hiến, có đầy đủ các quyền, ngang hàng với quốc gia dân tộc khác,đặc biệt là "Bắc quốc".

- Cơ sở tư tưởng yêu nước thể hiện qua việc tố cáo tội ác dã man của quân xâm lược để nung nấu ý chí căm thù giặc, đồng thời tô đậm những chiến công mà tổ tiên đã giành được trong lịch sử để không ngừng nâng cao ý thức tự hào dân tộc.

- Yêu nước đi đôi với xả thân cứu nước kiên quyết giành và giữ vững chủ quyền dân tộc. Đây là nguyên tắc đạo đức trong lối sống của người Đại Việt.

- Yêu nước là tôn trong sự sống (hiếu sinh) của mình cũng như của người khác, luôn thể hiện tính bao dung của người Việt. Từ đó mục tiêu của cuộc chiến đấu là giành được độc lập cho dân tộc, đem lại hòa bình, hạnh phúc cho muôn dân.

- Yêu nước còn là yêu dân (thân dân), tức là quan tâm đến đời sống nhân dân, tạo điều kiện giúp họ sống khá hơn.Đây cũng là kế sách trong trị vì, quản lý đất nước.

Nhờ hình thành nền văn học phong phú, mang đậm tính chất dân gian và đặc biệt là nhờ sự hình thành nền văn học yêu nước, mà nổi lên là những áng thiên cổ hùng văn (như đã nêu ở trên) nên những giá trị văn hóa nói chung và giá trị tinh thần thời kỳ Đại Việt nói riêng đã được thể hiện và lưu truyền.Đây chính là sức mạnh của lịch sử dân tộc Việt Nam, là sự tự hào, là sự tiếp ứng sức mạnh cho các thế hệ. Ngày nay,chính các giá trị tinh thần ấy phải được biến thành xung lực mạnh mẽ, góp phần xây dựng đất nước.

2. Lớp trẻ hiện nay như tôi,như bạn chưa một lần có cơ hội gặp Bác và mãi mãi không bao giờ có cơ hội nghe giọng nói của Người. Thế nhưng,qua lời kể của ba, của mẹ,của những bậc đi trước và của cả lịch sử dân tộc Việt Nam,ta hiểu được một chân lý:nếu không có Bác Hồ kính yêu sẽ không có một Việt Nam độc lập, không có một Việt Nam đang từng ngày hội nhập và phát triển cùng nhân loại.
Những mẫu chuyện về tấm gương đạo đức vĩ đại của Bác ngày qua ngày được truyền tụng, được kể lại như những bài học về cách làm người,về chữ tài, chữ đức trong cuộc sống mọi thời đại.Mỗi khi nghe kể,được biết đến hơn bao giờ hết,tôi thấy yêu,thấy kính và thương vô ngần vị Chủ tịch Nước vĩ đại mà giản dị,gần gũi
Tôi nhớ một câu chuyện nhỏ về con người của Bác ở một khía cạnh rất bình thường, "Vào một buổi chiều Việt Bắc,trời đông im ắng và cô quạnh,bà Trường Chinh có dẫn một cô con gái lên thăm Bác.Lúc tiễn hai mẹ con ra đầu dốc,Người cứ đứng nhìn theo mãi.Khi quay về, các đồng chí thấy mắt Bác long lanh ướt. Bác bảo với mọi người:
" - Chúng ta, ai cũng đều mong ước một gia đình ấm cúng. Người cách mạng là người giàu tình cảm, lại càng quý trọng cuộc sống gia đình, chẳng qua đây không phải là lúc để thực hiện điều đó, đành phải chịu đựng mà thôi. Ta chưa lo được gia đình nhỏ thì hãy lo cho gia đình lớn đã vậy..."
"Gia đình lớn" của Người, của cách mạng là nhân dân, là đại dân tộc Việt Nam. Người đã bỏ qua những niềm hạnh phúc riêng của mình mà dành trọn cuộc đời cho những niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Cuộc đời của Người mồ côi mẹ từ năm lên chín., mười năm sau giã biệt người cha già, ra đi tìm đường cứu nước, anh mất rồi chị mất, Bác đều không có điều kiện chăm lo. Dù rất quý trọng tình cảm gia đình, dù biết rằng sự lựa chọn nào cũng mất mát nhưng Bác - con người vĩ đại của dân tộc - đã lựa chọn một cuộc sống không chỉ cho riêng bản thân mà cho mọi người, mọi tầng lớp, mọi giai cấp. Có thể, giây phút nào đó bất chợt trong đời Người, Bác của chúng ta đã đối mặt với sự cô đơn của một người xa xứ, xa gia đình nhưng điều tuyệt vời nhất là Bác đã để lại những tình cảm lớn hơn sưởi ấm lòng mình, là động lực giúp con người Hồ Chí Minh vươn lên, vượt lên tất cả. Con người ấy, vốn chẳng phải thần thánh mà chỉ đơn giản là một con người có tầm vóc cao quý và một trái tim vô biên với dân tộc, với thế giới.
Ngày mà Người vĩnh viễn ra đi với hồn thiêng sông núi, câu cuối cùng mà Người gửi lại cho Đảng, cho dân tộc: Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dânnnn. Chữ dânnnn luôn ở vị trí trung tâm trong Bác, luôn ở vị thế cao nhất trong tâm tưởng Người. Và chính tình yêu thương bao la, chân thành và tha thiết ấy đã tạc nên tượng đài vị Chủ tịch Nước bất tử trong lòng mỗi người con Việt Nam.
Ngày hôm nay, tôi đang viết những lời cảm nhận chân thành nhất về Người Cha kính yêu của nhân dân Việt Nam trong tư thế của thế hệ trẻ năng động, hội nhập. Từ bé, trong tôi đã thấm nhuần lời dạy của Bác: Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần ở công học tập của các cháuuuuuuu. Học tập và sống tốt. Đó là điều duy nhất tôi có thể làm và làm tốt. Chỉ cần biết cố gắng, gìn giữ ước mơ hoài bão, vươn tới tương lai bằng chính đôi chân của mình, là một học sinh giỏi, năng động trong các phong trào, thể hiện và chứng tỏ đầy đủ bản lĩnh của thế hệ trẻ 9X, sống với chính mình, hết mình với cuộc đời bằng tất cả phẩm chất của một con người chân chính. Tôi tin rằng khi tôi làm được, bạn làm được, tất cả chúng ta đều sẽ rất tự hào: Chúng ta là thế hệ trẻ Hồ Chí Minh!
Cuộc sống ngày nay, có những người lãnh đạo mà tôi biết, khoảng cách giữa họ với dân là rất lớn, tiếng nói của dân là rất xa, tâm tư nguyện vọng của dân là một khoảng trắng. Nhưng với Bác kính yêu thì không! Một con người đã khước từ tất cả mọi thứ thuộc về cái "tôi" riêng mà vun đắp cho cái "ta" chung, một con người mà tôi, bạn, nhân dân Việt Nam và cả thế giới phải cúi đầu lẫn quỳ gối

 
Last edited by a moderator:
Top Bottom