Văn [ Văn 9] Kịch Bắc Sơn - Nguyễn Huy Tưởng.

M

maunguyet.hilton

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

BẮC SƠN
NGUYỄN HUY TƯỞNG

I.Kiến thức cơ bản:


A. Giới thiệu:

1.Tác giả:

Nguyễn Huy Tưởng sinh ngày 6 tháng 5 năm 1912 trong một gia đình nho giáo ở làng Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội.
Năm 1930, ông tham gia các hoạt động yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải Phòng. Năm 1935 ông làm thư ký nhà Đoan (Thuế quan) ở Hải Phòng, sau đó quay về Hà Nội. Năm 1938 ông tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ và phong trào hướng đạo sinhHải Phòng. Năm 1943 ông gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật và được bầu làm Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó ông tiếp tục hoạt động ở Hà Nội, Nam ĐịnhPhúc Yên.
Tháng 61945, Nguyễn Huy Tưởng tham gia ban biên tập tạp chí Tiên Phong của Văn hóa cứu quốc. Tháng 8 năm đó, Nguyễn Huy Tưởng đi dự Đại hội quốc dân ở Tân Trào. Ông còn là đại biểu văn hóa cứu quốc, giúp biên tập các tờ báo Cờ giải phóng, Tiên Phong. Tiếp đó ông giữ chức vụ Tổng thư ký Ban Trung ương Vận động đời sống mới. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nguyễn Huy Tưởng trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Hội văn hóa cứu quốc.
Nguyễn Huy Tưởng là đại biểu Quốc hộikhóa 1 năm 1946. Tháng 4 năm đó, vở kịch Bắc Sơn của ông được công diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội đem lại thành công lớn. Tháng 7, ông được bầu là Phó thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam. Tháng 12 năm 1946, toàn quốc kháng chiến, ông tổ chức và đưa Đoàn văn hóa kháng chiến lên Việt Bắc. Tiếp tục hoạt động văn hóa, ông là ủy viên Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam, thư ký toà soạn Tạp chí Văn nghệ và tham gia tiểu ban Văn nghệ Trung ương Đảng.
Năm 1951, ông tham gia chiến dịch biên giới. Trong hai năm 1953, 1954 ông công tác giảm tô trong cải cách ruộng đất. Sau hòa bình 1954, ông làm Uỷ viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1. Ông là người sáng lập và là giám đốc đầu tiên của Nhà xuất bản Kim Đồng.
Nguyễn Huy Tưởng mất ngày 25 tháng 7 năm 1960 tại Hà Nội. Năm 1995, Hội Đồng Nhân Dân thành phố Hà Nội đã đặt tên cho một đường phố của thủ đô là đường Nguyễn Huy Tưởng. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.


2.Tác phẩm:

Bắc Sơn (công diễn 6 tháng 4/ 1946),là vở kịch nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng,là tác phẩm mở đầu của kịch nói cách mạng.
Tác phẩm mang ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và sức mạnh cảm hóa của cách mạng và quần chúng.

...
 
Last edited by a moderator:
M

maunguyet.hilton

B.Gỉảng văn:



1.Tóm tắt xung đột trong kịch"Bắc Sơn":



-Ta và địch: Thái, Cửu >< Pháp (Quan, lính, việt gian(Ngọc))

-Gia đình Thơm: Thơm >< Ngọc (Người vợ hiền lành, trung thực >< Người chồng hèn nhát, phản bội)



2.Nhân vật Thơm:


a) Hoàn cảnh:




-Thơm: cô gái người Tày ở Bắc Sơn, con gái lớn của cụ Phương, chị của Sáng, vợ của

Ngọc (Nho lại – văn thu hành chính) .

-Thơm quen sống an nhàn, được chồng chiều, nên khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, Thơm thờ ơ, dửng dưng, trong khi cha và em là quần chúng tích cực của cách mạng .

-Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, cha và em hi sinh, mẹ gần như hóa điên, bỏ nhà đi lang thang, Ngọc ngày càng lộ rõ là một tên Việt gian có nhiều tiền mua nhà, cho Thơm ăn diện.

-Bản chất của Thơm là trung thực, thương người, tự trọng, rất quý cán bộ cách mạng: thầy giáo Thái –người cán bộ có trách nhiệm củng cố phong trào.



b)Tâm trạng và hành động




-Khi cha và em hi sinh, mẹ hóa điên, Thơm bị ám ảnh dày vò tâm trí, luôn day dứt, ân hận

-Đối với chồng, nghe nói Ngọc làm Việt gian, Thơm tỏ ý nghi ngờ nhưng qua đối thoại với Ngọc và tìm hiểu, Thơm đã biết rõ sự thật, nhưng được chồng chiều chuộng cho tiền ăn diện sung sướng nên Thơm vẫn có níu kéo chút hi vọng Ngọc không phản bội Tổ quốc

•Tình huống bất ngờ:Thái, Cửu – hai cán bộ cách mạng bị Pháp truy đuổi chạy nhầm vào nhà Thơm.

+ Mới đầu Thơm ngạc nhiên lo lắng về sự đột ngột xuất hiện của hai người, nhưng khi hiểu ra hai người đang bị truy đuổi, đang trong tình huống nguy cấp buộc Thơm phải có quyết định dứt khoát, mau lẹ: giấu hai người trong buồng → quyết đoán, thông minh, khôn ngoan, không sợ hiểm nguy vì trước đây Thơm đã quý trọng thầy giáo Tháivà tính tình của Thơm lương thiện, trung thực.

—>Thơm đã thoát khỏi trạng thái day dứt, trù trừ để đứng vào quần chúng có cảm tính với cách mạng.



c)Khi Ngọc về:



-Thơm đã khéo léo, khôn ngoan, bình tĩnh đóng kịch để Ngọc không nghi ngờ; Qua nói chuyện, Thơm càng nhận rõ bộ mặt Việt gian và sự xấu xa của chồng. Phần cuối, Thơm đã luồn rừng cả đêm để báo tin cho đội du kích tránh tây, vẫn hi vọng ở Ngọc, vẫn thích nhàn nhã, chưa hoàn toàn ghét bỏ, chưa căm thù Ngọc, tác giả xây dựng tâm lí nhân vật rất phù hợp .

-Qua nhân vật Thơm: ngay cả khi cách mạng khó khăn, bị kẻ thù đàn áp khốc liệt, cách mạng vẫn không thể bị tiêu diệt, nó vẫn có thể thức tỉnh quần chúng, cả những người ở vị trí trung gian.

3.Các nhân vật khác :



a) Ngọc:
là một anh nho lại, địa vị thấp kém nhưng nuôi tham vọng ngoi lên về quyền lực đị vị, về tiền tài.Khi cách mạng nổ ra, bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở Bắc Sơn bị đánh đổ, Ngọc thù hận cách mạng,rắp tâm làm tay sai cho giặc, gián tiếp giết cha và em vợ, ra sức truy lùng Thái và Cửu. Để che dấu bản chất và hành động, Ngọc ra sức chiều chuộng vợ.

→ Kết quả: Ngọc bị chính đạn tây bắn chết



b) Thái, Cửu: là chiến sĩ cách mạng trong tình thế nguy cấp đã chạy vào nhà thơm

-Thái: bình tĩnh, sáng suốt, cũng cố lòng tin của Thơm vào cách mạng.

-Cửu: hăng hái nhưng nóng nảy, thiếu chín chắn, nghi ngờ Thơm, định bắn Thơm, sau đó hiểu và tin Thơm.





C.Tổng kết:


-Nghệ thuật: xây dựng tình huống éo le, bất ngờ, bộc lộ rõ xung đột và thúc đẩy hoạt động phát triển.Ngôn ngữ đối thoại, nhịp điệu, giọng điệu khác nhau phù hợp với từng đoạn của vở kịch. Xung đột nội tâm trong Thơm: thể hiện được tâm lí và tính cách nhân vật.

-Nội dung :
khẳng định sức thuyết phục chính nghĩa của cách mạng .




Thân!
 
Last edited by a moderator:
L

leo345

DÀN Ý:

I. Mở bài :

-Bắc Sơn là vở kịch đầu tiên về đề tài cách mạng của Nguyễn Huy Tưởng, được công diễn năm 1946, những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám.

- Vở kịch thành công ở việc tạo dựng xung đột kịch qua các tuyến nhân vật khác nhau, làm rõ quá trình chuyển biến của nhân vật Thơm theo cách mạng.

II. Thân bài :

1. Tổng :

- Tóm tắt diễn biến chính của vở kịch .

- Giới thiệu đoạn trích : xung đột cao trào có ý nghĩa quyết định để nhân vật Thơm nhận rõ bộ mặt Việt gian của Ngọc - chồng cô, kiên quyết và mưu trí bảo vệ cán bộ bị truy đuổi.

2. Phân :

a. Thái độ nghi ngờ của Thơm về Ngọc :

- Thái độ được thể hiện qua màn đối thoại giữa hai vợ chồng Thơm - Ngọc. Ngôn ngữ giàu kịch tính và hành động kịch được tổ chức chặt chẽ cho thấy rạn nứt trong niềm tin của Thơm với chồng. Nhưng Thơm vẫn còn ngây thơ, hy vọng không phải là sự thật .

- Sự gian ngoan, xảo quyệt và hèn nhát của Ngọc (tránh ánh mắt của Thơm, vu vạ cho giáo Thái là việt gian,...). Bên cạnh đó là tâm địa xấu xa, cơ hội, loá mắt vì đồng tiền nhơ bẩn mà làm tay sai cho kẻ thù.

- Nỗi đau khổ, ân hận của Thơm.

b. Tình huống kịch tính :

- Thái và Cửu - hai chiến sĩ Bắc Sơn bị kẻ thù truy đuổi chạy nhầm vào nhà Thơm.

- Cách xử trí tình huống : Cửu nôn nóng, nghi ngờ Thơm trong khi Thái tỏ rõ sự điềm tĩnh tin tưởng vào phẩm chất của Thơm.

- Thơm xúc động và lo lắng trước tình thế nguy nan của hai chiến sĩ, quyết che chở họ như người em gái ân cần.

c. Thơm đối phó với Ngọc :

- Cuộc đối thoại thể hiện rõ sự khôn khéo nhằm che mắt tên Việt gian lợi hại, nhưng ngoài mặt lại tỏ vẻ ân cần của người vợ vô tư trước việc làm của chồng.

- Thơm tìm cách cảnh tỉnh Ngọc nhưng không thay đổi được tham vọng điên cuồng đã thành bản chất của Ngọc.

- Bằng hành động mưu trí, Thơm đã tỏ rõ tấm lòng với cách mạng, không do dự như trước, đứng hẳn về những người khởi nghĩa.

3. Hợp :

- Đánh giá về ý nghĩa tình huống kịch.

- Sự thành công của nhà văn trong việc tạo dựng tính cách nhân vật sinh động, tự nhiên để giúp hiểu hơn về tấm lòng nhân dân với cách mạng trong giờ phút nguy nan.

III. Kết bài :

Thành công của tác phẩm cũng là nền tảng phát triển cho kịch về đề tài cách mạng. Đặc biệt, giá trị của vở kịch tạo được niềm tin cho nhân dân vào cách mạng trong những ngày chính quyền cách mạng còn non trẻ.

BÀI VIẾT THAM KHẢO :

Bắc Sơn là vở kịch nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, là tác phẩm mở đầu của kịch nói cách mạng. Tác phẩm đã giúp chúng ta hiểu về ý nghĩa cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và sức mạnh cảm hoá của cách mạng với quần chúng . Đoạn trích hồi IV của vở kịch Bắc Sơn đã tạo được những xung đột kịch điển hình, qua đó tái hiện sinh động chân dung các chiến sĩ cách mạng và tấm lòng của Thơm - nhân vật trung tâm của vở kịch.

Thơm là con của cụ Phương và là chị của Sáng, hai chiến sĩ tham gia vào khởi nghĩa Bắc Sơn. Nhưng cô còn là vợ của Ngọc, một tên Việt gian đã dẫn quân Pháp về tấn công làng Vũ Lăng, đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa, gây thiệt hại nặng nề cho cách mạng . Trong trận chiến đấu không cân sức, cụ Phương và Sáng đã hy sinh anh dũng. Ngọc cố tình che giấu vợ về hành động theo giặc vì hắn sợ bị trừng trị. Mặt khác, hắn lại ôm tham vọng có thật nhiều tiền thưởng của Pháp vì thành tích bắt cán bộ. Một tình huống trớ trêu đầy bất ngờ khi những người bị hắn lùng bắt là Thái và Cửu lại lọt vào chính ngôi nhà của vợ chồng Thơm - Ngọc. Chính trong thời điểm này, người xem được chứng kiến một sự chuyển biến dứt khoát của Thơm, mưu trí đánh lừa Ngọc, bảo về an toàn cho các chiến sĩ cách mạng.

Màn kịch bắt đầu bằng những đối thoại giữa Thơm và Ngọc . Lúc này, qua lời đồn đãi, Thơm đã bắt đầu nghi ngờ Ngọc làm tay sai cho giặc Pháp. Bản tính của một người vợ yêu chồng, nhẹ dạ cả tin và trong sáng khiến cho đến tận lúc ấy cô không hề tin vào những dư luận chung quanh . Cộng vào đó, Ngọc vốn là kẻ xảo trá và khéo nịnh vợ nên cô nàng không có cơ sở để nghi cho Ngọc là kẻ phản động . Những lời nói lấp lửng của Ngọc cho thấy hắn cố tình che giấu và chột dạ lo sợ hành động gian manh của mình bị phát giác. Khi Thơm nhìn, hắn đã hoảng hốt :"Mắt cứ như mắt chú đấy !" (chú tức là cụ Phương - bố của Thơm). Khi Thơm tỏ ý nghi Ngọc đi bắt giáo Thái - chiến sĩ Bắc Sơn đang bị giặc truy lùng, hắn đã lu loa lấp liếm bằng những lời nói đánh trống lảng. Nhưng chính thái độ của hắn đã vạch trần bản chất hèn nhát và gian xảo :"Thơm nhìn chồng, vô ý thức y quay mặt nhìn đi chỗ khác". Dù từ trước đó, Thơm cũng là con người thờ ơ với thời cuộc , an phận thủ thường, nhưng bản thân cô không thể không chịu sự tác động của cha và em trai, biết việc đánh Tây là đúng đắn. Bởi thế, gặp ánh mắt của Ngọc lảng tránh, cô nói thẳng :"Đã làm rồi, thì thôi đi, hay ho gì cái việc ấy". Lời nói ấy cho thấy Thơm là một con người sẵn sàng khoan dung, tha thứ nhưng không chấp nhận chồng là một kẻ xấu xa. Ngọc là kẻ có nhiều tham vọng, bị đồng tiền làm mờ mắt và dựa vào thế lực của Pháp hòng kiếm chác danh vị giàu sang. Có lúc, Thơm đã tận hưởng những cám dỗ vật chất Ngọc đem lại, nhưng giờ phút này, nàng đã dần dần thấy rõ hơn bộ mặt thật của Ngọc và những đồng tiền nhơ nhuốc hắn đem về. Bởi vậy, cô rất dứt khoát :"Làm việc ấy để có tiền thì chết đói, chết rách còn hơn. Anh thằng Sáng đừng cho tôi tiền nữa, tôi không cần tiền ấy". Nhưng Ngọc cũng thể hiện sự gian xảo, mập mờ khi tung hoả mù lừa Thơm bằng việc vu khống trắng trợn giáo Thái là mật thám. Bởi thế, lòng Thơm hoang mang chưa quyết, lẫn lộn trắng đen. Bản thân cô hẳn phải mong muốn lời đồn không là sự thật, nhưng lương tâm và linh tính mách bảo lại khiến cô đau khổ trăm phần. Kết lại lớp kịch thứ nhất của hồi này, ta thấy Thơm cầm trên tay kỷ vật là khẩu súng lục của cha mà khóc. Đó là thái độ ân hận và báo hiệu một sự chuyển biến tích cực cho tính cách nhân vật :"Chú ơi ! Mé ơi ! Chỉ tại con thôi ! Con có biết đâu !". Những xung đột kịch hình thành từ chính sự giằng xé nội tâm của nhân vật, đòi hỏi phải được làm sáng tỏ :"Đã chắc gì những lời đồn !...Nhưng tiền thì lấy đâu mà lắm thế!".

Tình huống đầy bất ngờ mở đầu lớp hai của hồi bốn như bổ sung thêm cho thái độ ngả về phía cách mạng của thơm. Màn đối thoại giữa ba nhân vật :Thơm - Thái - Cửu đã làm nên tình huống thử thách. Chính vào thời điểm này, ta nhận ra vai trò của Thái khi ngăn Cửu manh động định rút súng bắn Thơm, khi biết vào nhầm nhà của kẻ đang lùng bắt mình. Sự bình tĩnh của người cán bộ dạn dày ấy đã cảm hoá được Thơm. Vì đây là lần đầu tiên cô được tiếp xúc với nhân vật rất được mọi người tin yêu, ca ngợi. Những gì cô chứng kiến càng khẳng định cho niềm tin vào ngừời cách mạng. Mặc dù Thơm chưa hiểu hết về công việc cách mạng nhưng dẫu sao cô cũng là con của một liệt sĩ Bắc Sơn, đó cũng là cơ sở để giáo Thái khẳng định lòng tin :"Tôi biết cô Thơm. Anh đừng nghi ngờ dòng máu cụ Phương. Tôi tin như thế. Nghe giọng nói thì biết là thật hay không thật chứ.". Nhưng điều trớ trêu, vào chính thời điểm ấy, Ngọc đã dắt quân Pháp lùng bắt Thái và Cửu. Tình thế khẩn cấp không cho phép do dự và cũng là lúc Thơm chứng minh cho tấm lòng ngay thẳng của mình. Trong hoàn cảnh ấy, Thơm thể hiện thái độ hốt hoảng, cuống quýt gần như khóc, nghẹn ngào. Tâm trạng ấy không phải là do sợ cho bản thân mà chính là đan xen nỗi lo lắng về sinh mạng những chiến sĩ đang ở trong nhà mình, cùng nỗi uất ức khi thấy tận mắt :"Có cả Tây. Ngọc cũng đi vào đấy". Thơm đã đứng hẳn về phía cách mạng khi hành động ngoan ngoãn và mau lẹ, thân mật như một người em gái để quyết tâm bảo vệ họ.

Không chỉ che giấu cho những người cách mạng, Thơm còn phải thể hiện hết sự khôn khéo và bình tĩnh để đánh lạc hướng Ngọc. Trong giờ phút này, khi biết rõ bộ mặt thật của Ngọc, cô đã đóng một vai kịch bất đắc dĩ nhưng cũng rất tỉnh táo như nhằm vạch rõ chân tướng của Ngọc. Màn đối thoại lần thứ hai giữa Thơm và Ngọc tạo được sự hồi hộp căng thẳng của một cuộc đấu trí. Giờ phút này, không chỉ tìm cách che chở cho những cán bộ cách mạng đang ẩn nấp ngay trong buồng của mình, nói to nhằm đánh động cảnh báo để họ đề phòng kẻ địch, Thơm cong muốn Ngọc bộc lộ chân tướng Việt gian nên cô vờ như muốn níu giữ, vừa tìm cách vuốt ve lòng tự ái của Ngọc. Quả thật, giờ phts này, Ngọc bộc lộ rõ đọng cơ theo giặc của mình. Hoá ra, chỉ vì những tính toán ích kỷ, cá nhân : mua nhà, tậu ruộng, chạy hàm cửu phẩm để vênh vang với thiên hạ nên Ngọc đã trở thành nô lệ cho chính những tham vọng của mình. Anh ta quả là một con người đáng giận hơn đáng thương. Bởi lẽ, đã có lúc anh ta tự độc thoại để như đáp lại một sự bứt rứt trong lòng, có lẽ vì ân hận trước việc làm của mình đã gây nên cái chết của những người thân yêu của vợ, làm tan cửa nát nhà, nhưng lời lẽ của Ngọc lại là một sự nguỵ biện :"Đằng nào chúng nó cũng bị bắt, mình chả bắt thì cũng người khác bắt, bắt sớm lại đỡ khổ". Để rồi cuối cùng, những toan tính nhỏ nhen đã thắng thế trước tình cảm, hắn không thèm đếm xỉa đến sự quan tâm lo lắng thực sự của Thơm mà sấp ngửa chạy theo ảo vọng giàu sang. Bởi thế, dù lời lẽ của Thơm có xa xăm, bóng gió, nhằm cảm hoá Ngọc cũng không ngăn cản nổi anh ta, cuối cùng, cô phải bộc lộ thái độ sốt ruột cùng lời nói sẵng như muốn tách xa khỏi Ngọc. Dù vậy, bề ngoài vẫn phải tỏ ra vui vẻ để tránh sự sinh nghi. Có thể nhận ra trong màn đối thoại này, những lời của Thơm không hề bày tỏ cảm xúc của người vợ thương chồng như lúc đầu mà cô đang phảo gắng gượng chịu đựng vai trò người vợ trước một tên Việt gian đầy tham vọng . Kết lại hồi kịch là khoảnh khắc thở phào sung sướng như trút được gánh nặng của Thơm :"May thế!". Đó cũng là tín hiệu cho ta biết cô đã thực sự đứng về phía cách mạng, không còn là người thờ ơ đứng ngoài cuộc như trước.

Màn kịch với những tình huống đột biến liên tục trong bối cảnh ngôi nhà của Thơm đã tạo nên những bước ngoặc tâm trạng dứt khoát của nhân vật. Qua đó, chúng ta nhận ra một con người có lòng tự trọng, ngay thẳng, tuy còn có lúc ngây thơ, cả tin nhưng khi biết rõ sự thật đã lột xác để trở thành một con người bình tĩnh, can đảm, quyết tâm bảo vệ cách mạng đến cùng. Nguyễn Huy Tưởng đã thành công trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật kịch qua ngôn ngữ và hành động kịch rất tự nhiên.

Bắc Sơn đã có sức cuốn hút công chúng bởi lẽ tác phẩm đem lại hình ảnh chân thực về những chiến sĩ cách mạng trong những ngày sục sôi của khởi nghĩa Bắc Sơn. Qua đó, nhà văn còn khẳng định tấm lòng của nhân dân không rời xa cách mạng ngay cả trong giờ phút nguy nan nhất . Qua hình tượng nhân vật Thơm, công chúng còn có dịp chứng kiến sức cảm hoá của cách mạng với quần chúng . Chính mối quan hệ này đã làm nên sức sống lâu bền của tác phẩm.
 
Top Bottom