[Văn 9] Đề Chuyện Người Con Gái Nam Xương

A

atdeptrai

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Câu 1 : Giá trị nhân đạo trong truyện " Người con gái Nam Xương "

Câu 2 : Cảm nhận về số phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua các tác phẩm văn học trung đại đã học

Chú ý: Nhan đề: [VĂn 9] Nội dung bài cần hỏi
 
Last edited by a moderator:
C

cherrynguyen_298

1 . GT nhân đạo
- niềm cảm thương sâu sắc đối vs số phận oan nghiệt của người phụ nữ dưới chế độ fog kiến
- đề cao, trân trọng vẻ đẹp con người
- khẳng định vẻ đẹp là bất tử
 
A

atdeptrai

?

1 . GT nhân đạo
- niềm cảm thương sâu sắc đối vs số phận oan nghiệt của người phụ nữ dưới chế độ fog kiến
- đề cao, trân trọng vẻ đẹp con người
- khẳng định vẻ đẹp là bất tử
bạn có thể viết thành một bài văn không ? mình cần 1 bài văn chứ ko phải các i chính
 
B

boboi

minh st

Dàn bài
* Mở bài:
Giới thiệu khái quát về giá trị nhân đạo của tác phẩm " chuyện người con gái Nam Xương"- Nguyễn Dữ.
B- Thân bài:
Ý1. Tác giả ca ngợi vẻ đẹp của con người qua vẻ đẹp của Vũ Nương
- Vũ Nương có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam:
+ Ngay từ đầu tác giả đã giới thiệu nàg là cô gái xinh đẹp, vì xinh đẹp nên nàng đựoc Trương Sinh yêu mến và cưới làm vợ
+ thuỳ mị, nết na, kéo léo: biết chồng là người đa nghi nàng luôn giữ gìn khuôn phép không để xảy ra bất hòa, lời lẽ tiễn đưa chồng ra lính rất dị dàng và ân cần
+ nàng còn là người phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, thủy chung: Đối với chồng rất mực dịu dàng, đằm thắm thuỷ chung; đối với mẹ chồng rất mực hiếu thảo, hết lòng phụ dưỡng; đối với con rất mực yêu thương.
Dẫn chứng: " Mỗi khi thấy bướm lượn đày vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngân được"-> nỗi mong nhớ chồng da diết"
Lời nói của bà mẹ trước khi qua đời đã khẳng định về phẩm chất hiếu thảo của Vũ Nương " Xanh kia quyết không phụ con, cũng như con đã không phụ mẹ" ( Chú ý phân tích quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong xã hội Pk để làm tăng thêm ý nghĩa của câu nói)
+ Vũ nương là người phụ nữ trong sáng, có tấm lòng bao dung độ lượng: Khi bị vu oan, nàng đã dùng cái chết để tự minh oan cho mình và chứng minh tấm lòng trong sạch của nàng, khi trở về trên kiệu hoa nàng k một lời oán trách Trương Sinh mà còn rất ân tình " Đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa"

Ý2. Tác giả bày tỏ niềm cảm thông trước số phận bất hạnh của người phụ nữ, mà đại diện là Vũ Nương
- Vũ Nương đẹp người, đẹp nết mà lại phải chịu bi kịch gia đình. Nàng phải chịu tiếng đời nhuốc nhơ. Nàng cố minh oan với chồng, nhưng sự độc đoán của Trương sinh- lễ nghi phong kiến đã không cho nàng lên tiếng. Thất vọng và đau đớn nàng đã phải tìm đến cái chết để minh oan cho mình.
- Ngòi bút của tác giả đã lột tả hết sự đau đớn tột cùng của Vũ Nương khi tìm đến cái chết. Phải chăng tác giả hiểu thấu nỗi đau đó, cảm thông với nỗi bất hạnh đó của Vũ Nương ?
Ý 3. Vì cảm thông với Vũ Nương, tác giả đã lên tiếng bênh vực cho người phụ nữ, tố cáo xã hội phong kiến bất công với chế độ trọng nam khinh nữ, một chế độ bất công cướp đi quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ.
+ tác giả cho ta thấy bộ mặt của xã hội PK, của chế độ gia trưởng độc đoán mà đại diện là Trương sinh- một kẻ ghen tuông mù quáng.
+ chính sự độc đoán của Trương Sinh đã đẩy Vũ Nương đến cái chết. Qua cái chết của Vũ Nương, tác giả lên án chế độ trọng nam khinh nữ của XHPK.
* Kết bài: Khẳng định ý nghĩa giá trị nhân đạo của tác phẩm.
 
B

boboi

them nua ne bn


Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được. Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời đại mới.
 
B

boboi

Câu 1 : Giá trị nhân đạo trong truyện " Người con gái Nam Xương "

Câu 2 : Cảm nhận về số phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua các tác phẩm văn học trung đại đã học


Nhà thơ Huy Cận từng viết :

“Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”.

Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương:

“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Chả thế mà chị em miền núi lại than rằng “Thân em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi!”, còn chị em miền xuôi lại than mình như con ong cái kiến. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, trong Truyền Kì mạn lục, đặc biệt là trong Đọc Tiểu Thanh Kí (Nguyễn Du), các đoạn trích Chinh Phụ Ngâm (Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm) và Cung Oán Ngâm (Nguyễn Gia Thiều).

Thời đại phong kiến trọng nam khinh nữ, đầy rẫy những sự bất công oan trái. Bị ảnh hưởng và phải chịu đựng nhiều nhất chính là người phụ nữ. thế nhưng, những người phụ nữ ấy vẫn luôn xinh đẹp, nết na, giàu lòng thương yêu và hết mực quan tâm đnế mọi người xung quanh. Ta có thể bắt gặp lại hình ảnh của họ qua các tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.

Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách. Đều là đẹp nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt.Trong tác phẩm ” Bánh trôi nước” của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, hiện lên hình ảnh người con gái “vừa trắng lại vừa tròn”, một người mang vẻ bề ngoài đầy đặn, tròn trịa. Đó là vẻ đẹp tự nhiên, dân dã, không chăm chút mà mộc mạc, tự nhiên nhưng không kém phần duyên dáng với làn da trắng mịn màng. Đấy chính là vẻ đẹp của người con gái lao động hay lam hay làm, đầy mạnh mẽ chốn thôn quê. Ta cũng bắt gặp người phụ nữ như thế xuất hiện trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Vũ Thị Thiết cũng giống như cô gái trong “Bánh tôi nước”, là một người phụ nữ tư dung tốt đẹp, chăm chỉ siêng năng,… khiến Trương Sinh phải đem lòng thương mến mà bỏ ra trăm lạng vàng rước nàng về làm dâu.

Từ những cô gái quê chân chất đến tiểu thư đài các con của viên ngoại “gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung” đều mang vẻ đẹp thật đáng yêu, đáng quý. Như Thúy Vân và Thúy Kiều trong tác phẩm lớn của đại thi hào Nguyễn Du “Truyện Kiều”, là hai tiểu thư cành vàng lá ngọc, thông minh xinh đẹp “mai cốt cách, tuyết tinh thần’. Tuy mỗi người một vẻ nhưng ai cũng vô cùng xinh đẹp, dáng vẻ thanh thoát, yêu kiều như nhành mai, còn tâm hồn lại trắng trong như băng tuyết, thanh cao, kiều diễm và quý phái…

Những người phụ nữ đẹp là thế, vậy mà đáng tiếc thay họ lại sống trong một xả hội phong kiến thối nát với bộ máy quan lại mục ruỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp họ lại càng đau khổ, lại càng phải chịu nhiều sự chén ép, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ “hồng nhan bạc phận”. Đớn đau thay số phận của nàng Vũ Nương! Chỉ vì muốn con vui, muốn bớt buồn,giải khuây khi sống cô đon vò võ nuôi con nên nàng đã lấy cái bóng, nói với con đó là cha. Nhưng nàng đâu thể ngờ, chính điều này đã gây ra cho nàng bao nỗi bất hạnh, tủi nhục, bị chồng nghi oan mà phải trầm mình xuống sông tự vẫn! với nàng, để minh oan, không còn cách nào khác nữa. Nàng đã cùng đường mất rồi! Giá như cái xã hội này có một chút công bằng, để cho lời nói của người phụ nữ có giá trị thì chắc chuyện đáng tiếc này đã không xảy ra. nàng không phải chịu uất ức, không phải lấy nước sông để rửa trôi nôõinhơ nhục mà chồng nàng áp đặt.

Vâng, số phận người phụ nữ thời xưa phải chịu bao nhiêu oan khuất, bất hạnh. Bị vu oan, bị nghi ngờ mà không thể giãi bày, không thể minh oan cho bản thân. Số phận của họ ở thế bị động, phải phụ thuộc vào người khác – những gã đàn ông chỉ lấy phụ nữ làm thứ mua vui, tiêu khiển. Họ không làm chủ đựoc số phận của chính họ:

“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Những câu ca dao than thân của người phụ nữ với cụm từ bắt đầu quen thuộc “Thân em…”. Số phận người phụ nữ, lúc thì như “hạt mưa sa”, lúc thi như “tấm lụa đào”…Dù được dân gian ví với điều gì, thì người phụ nữ cũng đều chung một số phận đau khổ gian nan. Họ không biết sẽ sống ra sao, sẽ bị dòng đời đưa đẩy trôi nổi đến phương trời nào? Sẽ sống sung sướng nơi “đài các” hay lại làm lụng vất vả nơi “ruộng cày”? Đối với họ, quãng đời phía trước vô cùng mịt mù, chẳng biết được điều gì sắp xảy đến, sẽ “vào tay ai”… Có khi lấy phải người chồng vô dụng, người phụ nữ yếu đuối sẽ phải chịu nhiều cực khổ

Trong văn học trung đại Việt Nam khi viết về người phụ nữ, một mặt vẫn có sự kế thừa tư tưởng của văn học dân gian, song mặt khác, “Hồng nhan bạc phận” cũng được xem là tư tưởng chủ đạo của các tác giả. Nàng Vũ Nương hiếu thảo, đảm đang, chung thuỷ thì bị ngờ oan là ngoại tình, đến nỗi phải lấy cái chết để minh oan – mà khi chết đi rồi trong lòng vẫn mang nặng nỗi oan uổng đó (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ). Người cung nữ xinh đẹp, tài hoa, khát khao hạnh phúc thì bị nhà vua bỏ rơi, sống cô đơn, mòn mỏi, lạnh lẽo nơi cung cấm, chôn vùi tuổi thanh xuân trong cung điện thâm u (Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều). Người phụ nữ chỉ có một khát vọng rất bình thường là được chung sống cùng với người chồng thân yêu, song lại rơi vào cảnh đau đớn “tử biệt sinh li”, đằng đẵng chờ đợi không biết có ngày gặp lại. (Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn). Nàng Kiều của Nguyễn Du xinh đẹp tài hoa là thế, nhưng lại bị dập vùi trong cảnh “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, liên tiếp bị đầy đọa cả về thể xác lẫn tinh thần để rồi phải thốt lên (thực tế là sự đầu hàng hoàn cảnh) rằng: “Thân lươn bao quản lấm đầu/ Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!”. Đây không chỉ là bi kịch của riêng nàng Kiều, mà còn là bi kịch chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Mặt khác văn học trung đại Việt Nam, bước đầu đã phản ánh được quan niệm về con người cá nhân trong xã hội. Nhiều nhân vật nữ trong giai đoạn này cũng thể hiện sự phản kháng, sự tố cáo xã hội cũ, nêu lên nhiều suy nghĩ, nhiều quan điểm chống đối lại quan điểm của xã hội phong kiến (tiêu biểu hơn cả là thơ Hồ Xuân Hương). Đặc biệt văn học đã chú ý khám phá nội tâm nhân vật. Các tác giả (Nguyễn Dữ, Nguyễn *** Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương..) khi mô tả người phụ nữ, thường để cho nhân vật bộc bạch trực tiếp những nỗi đau khổ, những niềm riêng tư (sự tự ý thức về mình): “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều – Nguyễn Du), hoặc bộc lộ những phản ứng: “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”… (Hồ Xuân Hương). Có thể khẳng định rằng cảm giác mất mát hạnh phúc và nỗi khát khao hạnh phúc là hai tâm trạng, hai nỗi niềm thường gặp nhất ở các nhân vật nữ trong văn học trung đại Việt Nam.
(ST)
 
Top Bottom