[Văn 9]: Bài thơ Bếp Lửa

  • Thread starter tinhtinh_thichchuoi
  • Ngày gửi
  • Replies 5
  • Views 9,319

T

tinhtinh_thichchuoi

Last edited by a moderator:
R

run1996

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt cả cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “ Bếp lưả” được ông sáng tác năm 1963 khi đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước.
Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “ biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được.
Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng không để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Chính “mùi khói” ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ.
Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cách đồng xa ?”
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ ? Cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một chân trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa ... của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,... Thi sĩ bổng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn qúit không rời.
Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh
Vẫng vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“ Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!’
Cuộc sống càng khó khăn, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ - Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữa Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con qúy cháu.
Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn lửa:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.
Những dòng thơ cuối của bài thư cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cũng là bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản:
“ Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”
Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.
“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”
Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.
“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.
“Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”.
Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người.
Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Xa vòng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trời mới, chính tình cảm cuả hai bà chaú đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu nhỏ cuả bà ngàu xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn nhớ về góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đưá cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả đưá chaú đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.
Bài thơ " Bếp lưả" sẽ sống maĩ trong lòng bạn đọc nhờ sưc truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những ngươì đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng cuả chúng ta ...
 
N

nh0x_p3rs0n4ljty_9x

Bạn nói thề thì ai mà hiểu được .. Cho tớ xin cái đề bài đi ...
 
M

mysteriousgirl97

Cảm nhận bài thơ "Bếp lửa"

Bằng Việt là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông không nhiều, nhưng đều viết về những kỉ niệm và ước mơ tuổi trẻ. Năm 1963, ông sáng tác bài thơ "Bếp lửa" khi đang du học ở Liên Xô. Tác phẩm thể hiện nỗi nhớ của người cháu về người bà gắn liền với bếp lửa trong quá khứ, đồng thời ca ngợi tình cảm bà cháu thiêng liêng, bất diệt.
Mở đầu bài thơ là cảm xúc khơi nguồn của tác giả. Ở nơi xa xứ, bắt gặp chiếc lò sưởi, người cháu bỗng nhớ về bếp lửa trong quá khứ, để rồi hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm lại hiện lên trong tâm trí cháu. Người cháu nhớ những buổi sáng sớm bà nhóm bếp, ngọn lửa cứ "chờn vờn", khiến bà phải dùng đôi bàn tay gầy guộc để che chắn cho ngọn lửa cháy lên.
"Một bếp lửa...
....nắng mưa"
Từ trong màn sương của kí ức, người cháu nhớ về những kỉ niệm với bà trong quá khứ rõ ràng hơn. Ấn tượng mạnh mẽ nhất không thể quên trong lòng người cháu về bà và bếp lửa là lúc cháu 4 tuổi. Đó là năm đất nước ta lâm vào nạn đói khủng khiếp có một không hai: người chết như ngả rạ ngoài đường, người ta phải đốt lên những đống rơm để xua đi tử khí của ma đói khỏi vào nhà. Người cha phải đi kéo xe suốt ngày khiến người khô rạc để kiếm tiền lo cho gia đình. Những lúc ấy, bà vẫn nhóm bếp để duy trì bữa ăn, duy trì cuộc sống. Cháu luôn ở bên bà, cùng bà nhóm lửa. Cái cảm giác khói bếp làm cay mắt vẫn còn. Đến tận bây giờ, khi nghĩ lại cháu vẫn thấy sống mũi cay cay.
"Lên 4 tuổi...
...còn cay"
Trong suốt quãng đời niên thiếu, cũng là khi giặc Pháp quay trở lại xâm lược, cháu vẫn luôn sống cùng bà. Tất cả những người khỏe mạnh, trong đó có cha mẹ của người cháu, đều lên đường tham gia kháng chiến. Vì vậy, bà thay cha mẹ, thầy cô chăm sóc, dạy dỗ cháu những điều hay lẽ phải. Nhớ nhất là khi tu hú kêu trên những cánh đồng. Tiếng tu hú sao mà tha thiết, mà khắc khoải, nó gợi con người ta nhớ quê, nhớ người thân. Sợ cháu nhớ cha mẹ, bà đã kể cho cháu những chuyện hồi còn ở Huế.
"Tám năm...
...chăm cháu học"
Mỗi khi thấy bà nhóm bếp, tình thương bà lại dấy lên trong lòng cháu. Nhưng người cháu vẫn còn nhỏ, chưa giúp bà được nhiều. Vì thế, cháu luôn mong có ai đó sẽ cùng mình đỡ đần bà.
"Nhóm bếp lửa nghĩ...
....đồng xa?"
Khi thực dân Pháp càn quét qua làng, chúng đốt nhà, cướp bóc của dân. Ngôi nhà của 2 bà cháu bị đốt "cháy tàn cháy rụi". Hàng xóm trở về giúp đỡ bà dựng tạm túp lều để ở. Dù cháu còn bé, nhưng cháu vẫn hiểu được hoàn cảnh của 2 bà cháu lúc này rất khó khăn. Ấy vậy mà khi người cháu viết thư cho cha, bà lại dặn cháu nói dối"Cứ bảo nhà vẫn được bình yên". Lúc đầu, cháu không hiểu tại sao bà lại xui mình nói dối. Nhưng giờ đây, khi đã lớn, cháu mới hiểu rằng đó chính là tình yêu thương, đức hi sinh bà dành cho con cháu. Để làm yên lòng người ở chiến trường, bà sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn gian khổ.
" Năm giặc...
...bình yên" "
Trong suy nghĩ của người cháu, hình ảnh bà và bếp lửa mang ý nghĩa biểu tượng. Việc nhóm bếp cứ lặp đi lặp lại trong mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm. Điều đó cứ nối tiếp nhau theo thời gian mưa nắng. Trong lòng bà có một ngọn lửa của tình yêu. Một ngọn lửa của niềm tin và ngày mai chiến thắng ko bao giờ dập tắt được. Bà là người nhóm lửa, lại là người giữ lửa và truyền lửa.
"Rồi sớm...
..dai dẳng..."
Trong suốt cuộc đời bà, bà luôn chịu thương, chịu khó, luôn giữ thói quen dậy sớm để nhóm bếp lo cho bữa cơm gia đình. Điệp từ "nhóm" kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác làm dậy lên niềm yêu thương, niềm vui tâm tình trong lòng cháu. Đồng thời cũng diễn tả tình yêu thương bà dành cho cháu qua những lần nhóm bếp. Bếp lửa là một hình ảnh bình thường trong cuộc sống mỗi ngày, nhưng đối với cháu, nó đã trở thành thiêng liêng bất diệt bởi nó nuôi dưỡng tâm hồn cháu lớn khôn
"Lận đận...
..tuổi nhỏ"
Tình cảm bà dành cho cháu thật lớn lao và cao đẹp. Nó đã khiến người cháu phải xúc động mà thốt lên :
"Ôi kì lạ và thiêng liêng-bếp lửa!"
Ngọn lửa của bà "kì lạ" vì nó không bao giờ bị dập tắt, nó ko còn chỉ là hình ảnh tả thực mà đã trở thành ngọn lửa của tình thương. Ngọn lửa ấy sẽ sống mãi trong lòng người cháu cũng như người bà
Trở về với thực tại, bà và bếp lửa trở thành nỗi nhớ da diết khôn nguôi trong lòng cháu. Người cháu đang du học ở một đất nước có điều kiện, cuộc sống văn minh, hiện đại. Thói thường, con người sẽ dễ dàng quên đi quá khứ khổ đau. Nhưng với nhà thơ, mỗi khi bắt gặp hình ảnh bếp lửa thì nỗi nhớ quê, nhớ bà lại trỗi dậy trong lòng. Bởi thế mà tác giả đã đặt thành một câu hỏi như khẳng định tình cảm thường trực của mình:
"Giờ cháu đã..
...lên chưa?..."
Tình bà cháu được diễn tả bằng những yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Ngôn ngữ và hình ảnh trong bài rất giản dị, gắn liền với cuộc sống thôn quê. Hình ảnh ẩn dụ "bếp lửa" xuyên suốt bài thơ đã thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm: bếp lửa là lòng bà, là tình bà. Thể thơ tự do với những câu thơ dài dễ bộc lộ cảm xúc cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tâm tình như tiếng lòng, thể hiện nỗi nhớ của người cháu về bà ở nơi xa. Các phương thức biểu đạt có sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa biểu cảm, tự sự, miêu tả, nghị luận khiến cho mạch cảm xúc được bộc lộ sâu sắc. Đó chính là những yếu tố tạo nên sự thành công của bài thơ.
Bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt là nỗi nhớ của người cháu ở nơi xa về người bà và bếp lửa trong quá khứ. Trong nỗi nhớ đó, là tình cảm bà cháu rất cảm động và thiêng liêng. Tác phẩm là một bài ca đẹp về tình cảm gia đình, tình bà cháu. Đó chính là tình yêu quê hương, đất nước trong sáng và cao đẹp của con người VN. Bài thơ như tiếp thêm sức mạnh cho những người con xa xứ vượt lên muôn vàn khó khăn để hướng về cội nguồn. Trên con đường bước vào cuộc sống, ta nguyện mang theo tình cảm của bà làm hành trang để ta vững vàng hơn, trưởng thành hơn.
 
Q

quynhnhu26022001@gmail.com

chuyển bài thơ Bếp lửa

Tôi đặt chân lên đất nước Nga thấm thoắt đã được bốn tháng rồi. Ở đây đang là mùa đông. Sáng sáng, tôi thường vén rèm cửa sổ căn phòng kí túc xá sinh viên từ tầng năm để nhìn ra ngoài. Tuyết rơi trắng xóa mái vòm nhà thờ cổ kính, trên ngọn cây và mặt đường. Tôi rùng mình ớn lạnh trong mấy lớp áo len, áo khoác dày sụ. Trong tâm tưởng tôi hiện lên hình ảnh một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm ở quê nhà. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi chập chờn trên vách bếp. Ôi, trải qua bao mưa nắng thời gian mà bếp lửa ấp iu nồng đượm gắn liền với người bà kính yêu của tôi vẫn lung linh trong kí ức đứa cháu đang sống xa quê hương, đất nước.

Quá khứ lần lượt hiện lên như một cuốn phim quay chậm. Lên bốn tuổi, tôi đã quen mùi khói. Đó là năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra khiến cho hơn hai triệu người chết đói. Đây là hậu quả của chính sách cai trị tàn ác, vô nhân đạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở Việt Nam giai đoạn này. Giống như bao gia đình nông dân khác, gia đình tôi cũng đói mòn đói mỏi. Cha tôi đi đánh xe ngựa chở hàng thuê. Cả người lẫn ngựa khô rạc mà đồng tiền kiếm được chẳng đáng là bao. Cảnh đau thương, tang tóc diễn ra khắp chốn. Người ta phải đốt những đống rạ, đống trấu lớn để hơi nóng xua bớt đi tử khí. Xóm làng điêu tàn ngập trong mùi khói. Nghĩ lại, đến giờ sống mũi tôi vẫn cay cay, nước mắt muốn ứa ra.

Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Đảng và Bác Hồ lãnh đạo nhân dân vùng lên đánh Pháp đuổi Nhật, giành lấy chính quyền, chấm dứt ách nô lệ kéo dài gần thế kỉ. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Chính phủ lâm thời được thành lập và lãnh tụ Hồ Chí Minh là vị Chủ tịch đầu tiên. Cả dân tộc hân hoan, phấn khởi trong niềm hạnh phúc vô bờ của cuộc sống tự do, độc lập.



Không lâu sau, thực dân Pháp quay lại cướp nước ta một lần nữa. Đảng và Bác Hồ kêu gọi toàn dân trường kì kháng chiến. Cha mẹ tôi gửi gắm tôi cho bà ngoại để tham gia vào sự nghiệp chống xâm lăng.

Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà; sớm sớm, chiều chiều quấn quýt bên bà trước bếp lửa hồng. Bà rủ rỉ kể cho tôi nghe về những ngày lưu lạc ở Huế. Tháng năm, nghe tiếng chim tu hú kêu mà khắc khoải nhớ quê nhà. Cha mẹ tôi công tác xa, biền biệt không về. Quanh quẩn ra vào chỉ có hai bà cháu nên bà đã dồn tất cả tình yêu thương cho đứa cháu bé bỏng là tôi. Bà dạy tôi điều hay lẽ phải. Bà là người thầy đầu tiên dạy tôi tập đọc, tập viết những chữ đầu tiên trong cuộc đời. Tôi lớn dần lên trong vòng tay bao bọc của bà. Mỗi lần nghe tu hú kêu, tôi lại thầm hỏi: “Tu hú ơi! Sao mày chẳng đến ở cùng bà mà cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa như vậy?”

Cuộc kháng chiến chống Pháp đã bước vào giai đoạn quyết liệt. Giặc Pháp đánh tràn ra mọi nơi. Chúng đi đến đâu cướp sạch, đốt sạch, giết sạch đến đó, gây ra tội ác ngút trời đối với dân ta. Giặc càn vào làng tôi, mấy trăm ngôi nhà bị đốt cháy tàn, cháy rụi. Sau những ngày tản cư, dân làng lầm lụi kéo về, dựng lại những ngôi nhà đơn sơ trên nền đất vương vãi tro than. Họ giúp bà cháu tôi dựng tạm túp lều tranh nho nhỏ góc vườn. Bà bình tĩnh dặn tôi: "Bố mẹ cháu ở chiến khu, bận nhiều việc lắm. Nếu có viết thư, cháu nhớ viết rằng ở nhà, mọi chuyện vẫn bình thường để bố mẹ yên tâm". Tôi hiểu lòng bà, càng thêm yêu quý bà hơn. Ngày lại qua ngày, bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa niềm tin vào một ngày chiến thắng; các con sẽ trở về đoàn tụ.
bep lua bang viet van 9
Suốt cuộc đời gian nan, lận đận, bà tôi tần tảo, chăm lo cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cõi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm lòng tôi, khơi dậy những tâm tình thiết tha của thời thơ dại.

Giờ đây, tôi đã trưởng thành, được Tổ quốc chắp cho đôi cánh để bay vào bầu trời thênh thang của tri thức và khoa học. Bàn chân tôi đã in dấu trên những nẻo đường xa xôi. Mắt tôi đã được nhìn thấy nhiều điều mới lạ. Nhưng tôi không bao giờ quên hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở quê nhà. Tôi ao ước được về ngay bên bà, ôm chặt lấy bà mà thủ thỉ: "Bà ơi! Bà kính yêu của cháu ơi! Bà chính là người giữ lửa, truyền lại ngọn lửa của sự sống và niềm tin bất diệt cho các thế hệ con cháu của mình!". Hình ảnh người bà kính yêu cùng bếp lửa hồng mãi mãi theo tôi suốt cả cuộc đời.
:):)@-)@-)@-)@-):):):D:D:D:D:):)
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom