[văn 8] thuyết minh về một danh lam thắng cảnh

U

uyenun00

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

[U[văn 8] thuyết minh về một danh lam thắng cảnh][/U]
Đề 1:Thuyết minh về đền Voi Phục
Đề 2:Thuyết minh về chùa Trấn Quốc

giúp mình 2 đề này nha,mình cần gấp.Cho mình bài văn hoàn chỉnh,nếu không có thì dàn ý chi tiết cũng được:)
thanks những bạn nào giúp mình!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!! !!!!!!!!!!:)
 
H

hocgioi2013

Đền Voi Phục là một ngôi đền trong Thăng Long tứ trấn của thành Thăng Long (nay là Hà Nội ) , trấn giữ phía tây thành. Ngoài cửa đền có đắp hai con voi quỳ phục dưới đất, nên gọi đền là Voi Phục.

Đền được dựng năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 7 (1065) đời Lý Thánh Tông ở góc phía tây nam thành Thăng Long cũ thuộc địa phận làng Thủ Lệ nay là công viên Thủ Lệ. Gọi là Thủ Lệ vì dân ở đây được miễn nhưng khoản phu phen tạp dịch để chuyên phục dịch việc cúng tế ở đền. Xưa trước cửa đền có hồ rộng dài, cũng gọi là hồ Linh Lang, tương truyền thuyền rồng nhà vua có thể từ hoàng cung đi tới khu vực đền bằng đường đó.

voiphuc.jpg

Đền Voi Phục qua một bức ảnh cũ

Đền thờ Linh Lang đại vương, thánh Linh Lang – một cái tên chung của nhiều ông thánh trong các đền miếu nước ta. Thần Linh Lang vương được nhân dân tôn thờ ở khá nhiều đền, đình khác nhau trên mảnh đất Thăng Long như Kim Mã, Cống Vị, Liễu Giai… và ở các tỉnh khác như Hà Tây, Hải Phòng, Thanh Hóa…

Có nhiều huyền tích về thần Linh Lang, trong đó phổ biến truyền thuyết đây là hoàng tử Hoằng Chân con vua Lý Thái Tông do một bà phi người làng Bồng Lai (Đan Phượng) sinh ra ở Trị Chợ Thủ Lệ. Hoàng tử đã tham gia trận đánh quân Tống xâm lược trên phòng tuyến sông Cầu và hi sinh tại đó.

Còn có thần tích kể rằng , Cảo Nương là một Cung phi của vua Lý ra tắm ở hồ Tây bị rồng cuốn lấy người, về có mang sinh ra hoàng tử trên mình có 28 vết vảy rồng và 7 hàng chấm sáng long lanh như ngọc trên ngực. Vua bèn đặt tên cho là Linh Lang và xây dựng điện cho hai mẹ con ở ngay bên bờ hồ Linh Lang. Lớn lên Linh Lang xin đi cầm quân đánh thắng quân Tống. Vua muốn nhường ngôi cho nhưng chàng từ chối, về ở Trại Chợ, sau bị bệnh từ trần hóa con rồng đem cuốn quanh phiến đá rồi đi xuống hồ Tây biến mất. Vua bèn cho lập đền thờ ở ngay nơi ở của hoàng tử và phong thần, là Linh Lang đại vương. Trong đền có hòn đá, có hai vết lõm, như thể chứng thực huyền tích nói rằng khi Linh Lang sắp hóa kiếp đã nằm gối đầu lên tảng đá đó.

Thần Linh Lang đã bị bao phủ bởi một tấm màn huyền tích dày đặc, nhưng lần dở lại những trang sử có thể thấy thần Linh Lang là một nhân vật lịch sử có thật, đó là hai hoàng tử nhà Lý đã theo Lý Thường Kiệt chống quân xâm lược Tống bên bờ sông Như Nguyệt và đã hy sinh. Hoằng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn một lần đem 400 chiến hạm và vài vạn quân đi chống cự với quân Tống. Tống quân phải lui binh, quân ta đuổi theo lên bờ. Quân Tống chạy, tướng giặc là Quách Quý và Yên Dạt đem quân ra ứng cứu. Do tiến quá sâu vào trận địa giặc nên quân ta bị phản công mạnh, quân ta yếu thế thiệt hại mấy nghìn người, phải rút lui. Tới sông, chiến thuyền bị bắn chìm, quân ta lại chết đuối thêm nữa, hai hoàng tử cũng tử nạn.

Và đền Linh Lang được lập để nghi nhớ công lao của hai người anh hùng chống giặc ngoại xâm được nhân dân linh hóa thành thần Linh Lang biến thành giao long bò xuống nước và biến mất.

Trải qua những biến thiên của lịch sử và nhiều lần trùng tu nay đền không còn hình dáng cũ: Đền chính là địa bàn trận phục kích quân Pháp của quân dân ta ngày 21-12-1873 và ngày 18-5-1882 (ngày 2 tên quan 5 giặc là Villers và Henri Rivière đã tử trận). Năm 1947, giặc Pháp mở rộng chiến tranh, đánh lên Sơn Tây, đã đốt trụi đền Voi Phục. Đến năm 1953, dân vùng này đã quyên góp tiền và xây dựng lại, song không được như cũ. Từ năm 1954 đến nay cũng đã có nhiều đợt tu sửa nhỏ.

Đầu năm 1994, nhân dân Thủ Lệ đã quyên góp đúc lại quả chuông chiều cao 93cm, đường kính miệng 70cm, thân chia 4 múi, mỗi múi có 2 hàng chữ Hán đúc nổi "Tây trấn thượng đẳng". Đường vào đền có nhiều cây cổ thụ, đền được xây cạnh hồ Thủ Lệ, có khuôn viên rộng rãi, cây cối xanh um tùm nên được coi là một cảnh đẹp của thủ đô Hà Nội. Trong đền có 2 pho tượng đồng, hòn đá to có vết lõm, Cửa đền có đắp hai con voi quỳ dưới đất vì vậy quen gọi là đền Voi Phục. Đường vào có những cây muỗm, cây si lâu đời, sau đến có những bụi nứa, di tích một vùng rừng cổ.

Lễ hội đền Voi phục được tổ chức vào khoảng ngày 9 - 11/2 âm lịch. Đây là hội rước lớn với cờ quạt, chiêng trống, lọng, tàn, tán nối nhau thành hàng dài cùng phường bát âm và đội sênh tiền rất nhộn nhịp.
nguồn sưu tầm
 
H

hocgioi2013

Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía Nam của Hồ Tây, là một trong những danh thắng bậc nhất ở kinh thành Thăng Long đời nhà Lê, nay thuộc quận Ba Đình (Hà Nội).

Đánh giá cao những giá trị lịch sử, tôn giáo cũng như cảnh quan của ngôi chùa, trước kia, Viện Viễn Đông Bác Cổ đã từng xếp chùa Trấn Quốc là công trình lịch sử thứ 10 trong Toàn xứ Đông Dương.

Tháng 4/1962, chùa Trấn Quốc được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Tương truyền, chùa được xây dựng từ thời tiền nhà Lý Nam Đế (năm 541-547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng với tên gọi “Khai Quốc” (nghĩa là mở nước).

Dưới triều vua Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan đã nhiều lần đến chùa cùng các vị cao tăng đàm đạo.

Đến đời vua Lê Thái Tông (năm 1434-1442), nhà vua đổi tên chùa là chùa An Quốc.

Hàng năm, nước sông Hồng lên to xói mòn làm lở bãi sông. Cho nên, năm 1615 đời vua Lê Kính Tông, dân làng Yên Phụ dời chùa vào gò đất Kim Ngưu (cá vàng).

Đến đời vua Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa (1681-1705), chùa được đổi tên là Trấn Quốc. Bức hoành phi đề chữ “Trấn Quốc Tự” treo tại gian đại bái hiện nay được làm từ thời đó.

Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời Vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Nổi tiếng linh thiêng lại là danh thắng bậc nhất kinh kỳ, chùa Trấn Quốc xưa thường là nơi các vua chúa ngự giá đến vãng cảnh và cúng lễ vào những ngày rằm, lễ Tết.

Đặc biệt, vào đời Lý và đời Trần, nhiều cung điện đã được xây dựng tại đây như cung Thúy Hoa, điện Hàm Nguyên phục vụ cho việc nghỉ ngơi, thư giãn của nhà vua.

Trải qua rất nhiều đợt trùng tu, diện mạo của chùa có nhiều thay đổi. Song quy mô và kiến trúc còn giữ được đến nay là kết quả của đợt trùng tu năm 1815 với một diện tích khá rộng khoảng hơn 3.000m 2, gồm một vườn tháp phía mặt tiền, nhà tổ, nhà khách, hai dãy hành lang tả hữu và thượng điện.

Ngôi chùa cổ kính này hiện còn lưu giữ khá nhiều hiện vật có giá trị như bộ tượng thờ ở thượng điện. Đây là những pho tượng được tạo tác tỉ mỉ, trau chuốt và mang nét đẹp đặc trưng riêng. Đáng nói nhất là pho tượng Thích Ca nhập Niết bàn được đánh giá là bức tượng Niết bàn đẹp ở Việt Nam.

Trong khuôn viên của chùa có cây bồ đề 50 năm tuổi do Tổng thống Ấn Độ tặng năm 1959 nhân chuyến thăm chính thức của Tổng thống tại Việt Nam.

Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc đó, chùa Trấn Quốc ngày nay không chỉ nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử đến hành lễ mà còn là điểm thu hút khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước./.
nguồn sưu tầm
 
U

uyenun00

Đền Voi Phục là một ngôi đền trong Thăng Long tứ trấn của thành Thăng Long (nay là Hà Nội ) , trấn giữ phía tây thành. Ngoài cửa đền có đắp hai con voi quỳ phục dưới đất, nên gọi đền là Voi Phục.

Đền được dựng năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 7 (1065) đời Lý Thánh Tông ở góc phía tây nam thành Thăng Long cũ thuộc địa phận làng Thủ Lệ nay là công viên Thủ Lệ. Gọi là Thủ Lệ vì dân ở đây được miễn nhưng khoản phu phen tạp dịch để chuyên phục dịch việc cúng tế ở đền. Xưa trước cửa đền có hồ rộng dài, cũng gọi là hồ Linh Lang, tương truyền thuyền rồng nhà vua có thể từ hoàng cung đi tới khu vực đền bằng đường đó.

voiphuc.jpg

Đền Voi Phục qua một bức ảnh cũ

Đền thờ Linh Lang đại vương, thánh Linh Lang – một cái tên chung của nhiều ông thánh trong các đền miếu nước ta. Thần Linh Lang vương được nhân dân tôn thờ ở khá nhiều đền, đình khác nhau trên mảnh đất Thăng Long như Kim Mã, Cống Vị, Liễu Giai… và ở các tỉnh khác như Hà Tây, Hải Phòng, Thanh Hóa…

Có nhiều huyền tích về thần Linh Lang, trong đó phổ biến truyền thuyết đây là hoàng tử Hoằng Chân con vua Lý Thái Tông do một bà phi người làng Bồng Lai (Đan Phượng) sinh ra ở Trị Chợ Thủ Lệ. Hoàng tử đã tham gia trận đánh quân Tống xâm lược trên phòng tuyến sông Cầu và hi sinh tại đó.

Còn có thần tích kể rằng , Cảo Nương là một Cung phi của vua Lý ra tắm ở hồ Tây bị rồng cuốn lấy người, về có mang sinh ra hoàng tử trên mình có 28 vết vảy rồng và 7 hàng chấm sáng long lanh như ngọc trên ngực. Vua bèn đặt tên cho là Linh Lang và xây dựng điện cho hai mẹ con ở ngay bên bờ hồ Linh Lang. Lớn lên Linh Lang xin đi cầm quân đánh thắng quân Tống. Vua muốn nhường ngôi cho nhưng chàng từ chối, về ở Trại Chợ, sau bị bệnh từ trần hóa con rồng đem cuốn quanh phiến đá rồi đi xuống hồ Tây biến mất. Vua bèn cho lập đền thờ ở ngay nơi ở của hoàng tử và phong thần, là Linh Lang đại vương. Trong đền có hòn đá, có hai vết lõm, như thể chứng thực huyền tích nói rằng khi Linh Lang sắp hóa kiếp đã nằm gối đầu lên tảng đá đó.

Thần Linh Lang đã bị bao phủ bởi một tấm màn huyền tích dày đặc, nhưng lần dở lại những trang sử có thể thấy thần Linh Lang là một nhân vật lịch sử có thật, đó là hai hoàng tử nhà Lý đã theo Lý Thường Kiệt chống quân xâm lược Tống bên bờ sông Như Nguyệt và đã hy sinh. Hoằng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn một lần đem 400 chiến hạm và vài vạn quân đi chống cự với quân Tống. Tống quân phải lui binh, quân ta đuổi theo lên bờ. Quân Tống chạy, tướng giặc là Quách Quý và Yên Dạt đem quân ra ứng cứu. Do tiến quá sâu vào trận địa giặc nên quân ta bị phản công mạnh, quân ta yếu thế thiệt hại mấy nghìn người, phải rút lui. Tới sông, chiến thuyền bị bắn chìm, quân ta lại chết đuối thêm nữa, hai hoàng tử cũng tử nạn.

Và đền Linh Lang được lập để nghi nhớ công lao của hai người anh hùng chống giặc ngoại xâm được nhân dân linh hóa thành thần Linh Lang biến thành giao long bò xuống nước và biến mất.

Trải qua những biến thiên của lịch sử và nhiều lần trùng tu nay đền không còn hình dáng cũ: Đền chính là địa bàn trận phục kích quân Pháp của quân dân ta ngày 21-12-1873 và ngày 18-5-1882 (ngày 2 tên quan 5 giặc là Villers và Henri Rivière đã tử trận). Năm 1947, giặc Pháp mở rộng chiến tranh, đánh lên Sơn Tây, đã đốt trụi đền Voi Phục. Đến năm 1953, dân vùng này đã quyên góp tiền và xây dựng lại, song không được như cũ. Từ năm 1954 đến nay cũng đã có nhiều đợt tu sửa nhỏ.

Đầu năm 1994, nhân dân Thủ Lệ đã quyên góp đúc lại quả chuông chiều cao 93cm, đường kính miệng 70cm, thân chia 4 múi, mỗi múi có 2 hàng chữ Hán đúc nổi "Tây trấn thượng đẳng". Đường vào đền có nhiều cây cổ thụ, đền được xây cạnh hồ Thủ Lệ, có khuôn viên rộng rãi, cây cối xanh um tùm nên được coi là một cảnh đẹp của thủ đô Hà Nội. Trong đền có 2 pho tượng đồng, hòn đá to có vết lõm, Cửa đền có đắp hai con voi quỳ dưới đất vì vậy quen gọi là đền Voi Phục. Đường vào có những cây muỗm, cây si lâu đời, sau đến có những bụi nứa, di tích một vùng rừng cổ.

Lễ hội đền Voi phục được tổ chức vào khoảng ngày 9 - 11/2 âm lịch. Đây là hội rước lớn với cờ quạt, chiêng trống, lọng, tàn, tán nối nhau thành hàng dài cùng phường bát âm và đội sênh tiền rất nhộn nhịp.
nguồn sưu tầm

ở cái câu gạch chân,chữ màu xanh,là nhưng hay những
 
Top Bottom