Mình đang học về chuyên đề này nên cần một số dạng đề và các bài tập về các bài thơ giai đoạn này.
AI GIÚP MÌNH VỚI!
Có thể hữu ích cho chị
1. Văn chương cổ :
Văn chương trung đại có đề cập tới cái Tôi nhưng cái Tôi ấy chỉ một số nhà thơ nhắc tới. Trong Quốc âm thi tập, cái Tôi của Nguyễn Trãi đã hóa thân vào thơ:
Ngoài cửa mận đào là khách đỗ
Trong nhà cam quýt ấy tôi mình
Ai hay, ai chẳng hay thì chớ
Bui một ta khen ta hữu tình
Cái Tôi trong thơ Nguyễn Trãi Một ta khen ta, một Tôi phải đối diện với Tôi, đối thoại với Tôi
Cái Tôi trong thơ bà Huyện Thanh Quan mang một tâm sự u hoài:
...Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân nghoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Cái Tôi trong thơ Hồ Xuân Hương là khát vọng chân chính về tình yêu, hạnh phúc của người phụ nữ vốn bị xã hội phong kiến vùi dập khinh rẽ. Thơ của bà khẳng định được vẻ đẹp thể lực và vẻ đẹp tâm linh của người phụ nữ. Ðó là bài thơ Bánh trôi nước
Cái Tôi trong thơ Nguyễn Công Trứ vừa thách thức vừa thề bồi:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Những câu thơ trên của các nhà thơ đầy tính bản ngã. Tính bản ngã là một trong những nguyên nhân sinh ra tính nhân bản của nền văn học dân tộc
Văn chương cổ chứa đựng tâm sự cái Tôi trữ tình, cái Tôi tiềm ẩn mà thời đại hầu như không chứa nổi, khiến Nguyễn Du phải quay hỏi hậu thế :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Có lúc cái Tôi trong thơ Nguyễn Du cũng muốn cựa quậy, phá phách
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai ...
( Truyện Kiều)
Văn chương bày tỏ khát vọng, ước mơ, phẫn nộ và dự cảm về số phận con người muốn vượt thóat khỏi giới hạn của thời đại. Thế nhưng tư tưởng chính thống của phong kiến là trung quân ái quốc, vua là tuyệt đối, vua không nhìn thấy số phận cá nhân. Nhưng cái nhìn của văn chương không phải là cái nhìn của vua mà là tiếng nói tình cảm khát vọng của nhân dân, từ cá nhân với cá nhân. Chế độ phong kiến không chấp nhận cá nhân, do đó nhà thơ cổ có đề cập đến cá nhân nhưng lại bị tư tưởng phong kiến coi thường khước từ. Các nhà thơ cổ người thì bị coi là nghịch sĩ, người bị coi là nghịch tử và nghịch thần.
Văn học cổ không hiếm sự tích về ý thức cá nhân, về tri âm, tri kỷ, tri ngộ.
Tri: hiểu
Kỷ: là cá tính, cái riêng, chân trời riêng có nhu cầu được hiểu biết và thông cảm
Tri kỷ là hiểu được cá tính của nhau
Tri âm : hiểu được tấm lòng
Tri ngộ: là hiểu được cái ơn
Trong thực tế đời sống và trong văn chương có nhiều cặp quan hệ là bạn tri âm, tri kỷ như Chung Tử Kỳ-Bá Nha, Lưu Bình-Dương Lễ; Nguyễn Khuyến-Dương Khuê; Nam Cao- Tô Hoài
Con người ta thấy đời sống có ý nghĩa chừng nào cái kỷ của mình được người biết đến và được thừa nhận. Chung Tử Kỳ ngồi nghe đàn mà biết được tâm hồn của bạn:
Nga Nga hồ chí tại cao sơn
Dương Dương hồ chí tại lưu thủy
( Tiếng đàn lên cao hồn người đang hướng về non
Tiếng đàn khoan nhặt hồn người gửi nơi dòng nước chảy)
Con người ta sẵn sàng chết khi người khác hiểu mình Sĩ vi tri kỷ giả tử (kẻ sĩ sẵn sàng chết cho người biết mình). Vì vậy có nhiều người chết vì tình yêu, vì kẻ khác không hiểu mình
Nguồn:Sưu tầm