Những kỷ niệm êm đềm với mẹ tôi
Tôi thật là người may mắn, vì được sinh trưởng trong một gia đình có cha mẹ là người hiền lành đạo hạnh. Tôi đã có dịp viết vài bài ngắn về cha mẹ của mình, nhân dịp ngày lễ của Cha và ngày lễ của Mẹ trong mấy năm gần đây.
Nay tôi lại muốn ghi lại thêm chi tiết về một số kỷ niệm êm đềm với người mẹ yêu quý của mình, để cho các con tôi và các cháu con của mấy anh chị em của tôi có dịp hiểu biết thêm về người bà nội, bà ngoại của các cháu
Lúc mẹ tôi mất vào năm 1952, thì tôi đã được 18 tuổi, đủ trưởng thành để ghi nhớ đầy đủ về những lời mẹ tâm sự, chỉ bảo dẫn dắt cho mình trong suốt thời kỳ niên thiếu của tôi tại quê nhà ở làng Cát Xuyên thuộc tỉnh Nam Ðịnh.
Lối cư xử thuận hòa của mẹ đối với họ hàng nội ngoại
Mẹ tôi là trưởng nữ của ông bà ngoại, mà chịu thiệt thòi vì khi lớn lên, thì phải phụ giúp cha mẹ để chăm sóc các em. Do vậy mà không được đi học ở đâu cả. Bà có nói với tôi: “Bà ngoại tính cho mẹ đi học chung với con gái của cụ Thượng Hoánh ở quê Lục Thủy, nhưng ông ngoại lại không muốn cho con gái phải đi xa gia đình. Vì thế mà mẹ đã không được đi học chung với các bạn ở quê ngoại...” Nếu mẹ tôi được đi học, thì sẽ học cùng với mấy bà cô của Bác Sĩ Vũ Ngọc Hoàn.
Bà cụ còn kể: “Hồi mẹ mười mấy tuổi, thì hay dẫn em là các cậu và dì đi chơi trong làng. Và bố của tụi con chú ý, tìm cách giúp đỡ việc này chuyện nọ. Do đó mà bố con gây được cảm tình đối với mẹ, và từ đó mà nên duyên vợ chồng...”
Mẹ còn nói là bà cảm phục cái tính tháo vát và cả quyết của bố tôi. Bà có lần dặn tôi như sau: “Là người con trai, con phải tập được cái tính quyết đáp của bố con ấy. Bố con biết cân nhắc tính toán công việc đâu ra đấy. Và đến khi đã quyết định về chuyện gì, thì nhất quyết làm cho bằng được...”
Ông nội của tôi là thầy đồ dạy chữ nho, nên gia đình thanh bạch, chứ không được phong lưu sung túc, so với bên ngoại. Mẹ tôi có lần kể lại: “Bà nội con rất khéo dạy mấy cô chú. Mỗi khi nhà có khách đến ăn cơm, thì bà cụ không cần phải lên tiếng, mà chỉ cần nháy mắt ra hiệu là mấy cô chú biết ý ngay, để ăn nhín lại và nhường phần cơm cho khách...”
Bố tôi lại là trưởng nam, nên có trách nhiệm lớn đối với cả dòng họ, và như vậy mẹ tôi là con dâu trưởng thì cũng phải lo quán xuyến công việc của cả đại gia đình. Bà luôn giữ vững cái đạo làm con như lời bà ru hát cho lũ em của tôi, cụ thể như câu: “Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.” Bà cô Lý Rụ hay nói với tôi: “Mẹ anh rất cẩn thận, mỗi lần có việc phải về bên ngoại, thì bà đều nhắc nhở cô coi giùm việc này chuyện nọ trong nhà, dù lúc đó cô vẫn còn nhỏ tuổi. Và mẹ anh bao giờ cũng chỉ đi vắng một chốc lát thôi, để còn trở về lo lắng công việc nhà. Cô luôn nhớ cái đức tính đàng hoàng của mẹ anh lắm vậy đó...” Tôi thấy các cô em của bố tôi đều tỏ ra quý mến mẹ tôi, chứ không hề có chuyện gì căng thẳng gay cấn như dân gian thường nói về mối liên hệ khó khăn giữa ”người chị dâu với các em gái của chồng.” Chứng cớ là hồi phải chạy loạn Việt minh cộng sản năm 1951-52, thì mẹ tôi đã đến ở tại nhà bà cô Phó Tích tại thôn Phú Yên-Ngọc Cục cho đến ngày mẹ qua đời ở tại đó luôn vào cuối năm 1952.
Ðối với bên ngoại cũng vậy, tôi thấy các cậu là em của mẹ, thì ai nấy đều quý mến mẹ tôi. Ông ngoại làm đến chức Chánh Tổng, gia thế cơ ngơi có phần tên tuổi uy tín trong vùng. Nhưng mẹ tôi không bao giờ tỏ ra kiêu kỳ hách dịch đối với bất kỳ một ai. Người hay lui tới chuyện trò với mẹ là cậu Lý Ðạc là em kế liền với mẹ, tôi thấy hai chị em thường luôn rất tâm đắc với nhau. Hai cậu khác là cậu Tú và cậu Dung, thì cũng đều thuận thảo ăn ý với mẹ tôi. Là người chị cả, mẹ luôn biểu lộ sự yêu thương tận tình đối với các người em của mình.
Còn bà dì Tổng Huỳnh, thì dì mất khi tôi còn quá nhỏ, nên tôi không nhớ được chuyện nào của dì. Nhưng chú Tổng Huỳnh thì thường đến cư ngụ ở nhà tôi vào lúc thu hoạch vụ lúa mỗi năm hai kỳ, do các thửa ruộng của ông bà ngoại chia cho chú dì ấy.
Lòng đạo hạnh sâu sắc của mẹ
Mẹ tôi quả thật là người sống một cuộc đời rất đạo hạnh, khoan hòa nhân ái. Bà nêu một tấm gương tốt cho tất cả anh chị em chúng tôi là phải biết “mến Chúa và yêu người,” phải “giữ phép công bằng,” phải “có lòng bác ái.” Bà rất siêng năng đọc kinh vào các buổi sáng, trưa, chiều tối. Gần như lúc nào rảnh rỗi, mẹ đều thầm thĩ nguyện kinh. Sáng sớm, trước khi đến nhà thờ dự lễ, thì tại nhà mẹ cũng bảo tôi đọc mấy kinh, xét mình ăn năn tội. Và sau khi dự Thánh lễ, mẹ thường ở lại đọc kinh tiếp ở nhà thờ, thật lâu sau rồi mới về nhà. Bà thuộc đủ mọi thứ kinh, nhờ có trí nhớ đặc biệt hơn người. Còn nhỏ tuổi, tôi cũng làm biếng chuyện cầu kinh y hệt như mấy người trẻ tuổi khác, nhưngvì yêu thương mẹ, nên bao giờ mẹ nhắc thì tôi đều đọc kinh theo với bà.
Lòng đạo hạnh vững vàng của mẹ như thế, thì được truyền lại cho các anh chị lớn tuổi, để rồi lan đến lớp em nhỏ chúng tôi. Tôi vẫn nhớ lời mẹ nhắc nhủ là: “Các anh chị lớn có bổn phận phải làm được cái tấm gương tốt lành để cho các em còn nhỏ noi theo. Phải biết thực hành cái chuyện ‘lá lành đùm bọc lá rách’... Ở nhà có hai người yếu đuối bệnh tật, đó là chị Chắt và cô Thanh, thì các anh chị em đều thay phiên nhau chăm sóc chu đáo tận tình. Tôi rất cảm động với sự yêu thương đằm thắm của các chị Chỉnh, chị Cao và chị Bá đối với tôi, khi các chị còn sanh tiền. Các chị đã qua đời, nhưng cái tình đùm bọc âu yếm đó đối với các em, thì không bao giờ tôi lại quên được.
Nhiều buổi tối, tôi kéo võng cho mẹ, thì bà cụ tỉ tê chuyện trò với tôi về đủ mọi sự việc trong làng nước. Mấy lần bà cụ nhắc là: “Con xem gia đình đó ở trong làng mình, con cháu họ không sao mà khá được, bởi lý do là xưa kia người cha của họ làm ăn thất đức, chuyên cái nghề ‘xui nguyên giục bị trong các vụ kiện cáo,’ chuyên ‘đâm bị thóc, chọc bị gạo’ để ******* cả hai phía. Vì thế mà bây giờ con cháu họ bị mắc ‘cái nạn quả báo,’ làm ăn thất bại không ngóc đầu lên được, mà còn bị mang tiếng xấu với làng với nước nữa...”
Bà cụ hay dùng những câu văn câu thơ có vần điệu mà dạy dỗ chúng tôi. Ðiển hình như câu: “Ăn mày là ai? Ăn mày là ta. Ðói cơm rách áo, hóa ra ăn mày.” Hay các câu: “Cờ bạc là bác thằng bần. Cửa nhà bán hết, mang thân vào tù,” “Ðói cho sạch, rách cho thơm,” “Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau” v.v...
Những đau khổ vào tuổi cuối đời của mẹ
Mẹ tôi vốn người thể tạng yếu đuối, nhưng cuối đời bà chịu nhiều điều buồn phiền sầu khổ. Vào giữa năm 1947, thì cậu Dung là em út của mẹ bị Việt Minh sát hại và quăng xác xuống sông Trì Chính Phát Diệm, nên mẹ tôi khóc lóc than vãn thảm thiết trong nhiều bữa về cái chết tức tưởi này của cậu. Sau đó không bao lâu, thì vào cuối năm 1947 lại đến lượt cậu Lý Ðạc là em kế của mẹ cũng bị bệnh mà qua đời. Rồi vào mùa Xuân năm 1948 sau đó, bố tôi lại bị Việt Minh bắt đi và chẳng bao lâu sau thì không được tin tức gì nữa, vì chiến tranh mỗi ngày lan rộng tại vùng đồng bằng sông Hồng. Từ đó, ngày đêm mẹ thường ưu tư, lo lắng, ban đêm ngủ rất ít. Bà cụ hay phát phiền và thở dài trước những nghịch cảnh đớn đau xảy ra dồn dập đối với gia đình như thế.
Tôi thương mẹ vô cùng, nhưng nào biết làm gì khác hơn là ngửa mặt lên trời mà cầu xin Chúa thương xót đến mẹ và cả gia đình giữa cơn hoạn nạn tai ương đó. Các anh chị tôi cũng đều xúm lại an ủi mẹ lúc đó. Chị Cao mẹ của anh Ðại, Lương vì nhà ở gần, nên hay lui tới thăm nom mẹ. Các chị khác như chị Chỉnh, Bá, Mưu cũng như anh Tâm đều chăm sóc cho mẹ rất chu đáo, hiếu nghĩa. Vì thế mẹ đã có được sự thanh thản an tâm trước lúc ra đi, vì mẹ tin tưởng rằng các anh chị lớn tiếp tục thay mẹ để lo lắng cho các em còn nhỏ dại, nhất là cô Thanh, cô Liên và chú út Tế vào năm 1952 thì vẫn còn quá nhỏ tuổi.
Lại nữa, mẹ cũng được khuây khỏa vì thấy các con mình hòa thuận bảo bọc yêu thương, gắn bó đằm thắm với nhau. Vì thế mà trong nội bộ gia đình có sự yên ấm hạnh phúc, dù bên ngoài xã hội thời đó cuộc chiến tranh khói lửa vẫn đang đến hồi gay cấn, đẫm máu tàn bạo, hận thù chồng chất giữa đồng bào ruột thịt với nhau.
Những điều quý báu tôi học được từ nơi mẹ
Mẹ tôi tuy không được đi học, không biết đọc, biết viết, nhưng bà có một trí nhớ tuyệt vời. Mẹ làm tính nhẩm rất nhanh và chính xác. Mẹ cũng sắp xếp, quản lý cắt đặt công việc làm ăn trong nhà đâu ra đấy. Bà cũng khôn ngoan trong cách đối xử giao tế với họ hàng thân tộc, cũng như đối với làng nước. Nhờ vậy, mà tôi cũng như các anh chị em đều được thừa hưởng cái phần trí tuệ tinh anh của mẹ. Và riêng tôi, thì do có điều kiện học hành nhiều năm, nên tôi đã thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp trong học tập nơi trường ốc, cũng như trong công việc sau này ngoài xã hội.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là mẹ đã truyền lại cho anh chị em chúng tôi một cái lòng đạo hạnh vững vàng, một tinh thần lương hảo sâu sắc và tấm lòng nhân ái vị tha cao quý. Từ trên 50 năm nay, tôi đã dấn thân vào các loại công tác xã hội để giúp đỡ bà con kém may mắn như những nạn nhân chiến cuộc, những người bị đàn áp bóc lột, bị dày xéo nhân phẩm... Ðó là tôi noi theo tấm gương trong sáng của cha mẹ đã để lại cho tôi. Tôi áp dụng đúng theo lời khuyên nhủ của mẹ, cụ thể là: “Mến Chúa thì phải yêu người, phải chia sẻ cái ăn cái mặc với những ai đang thiếu thốn.” Và việc tôi làm, thì đều được các anh chị em trong nhà khuyến khích và hỗ trợ nâng đỡ cho tôi suốt bao lâu nay.
Nói vắn tắt lại, tôi thật biết ơn mẹ vì đã chỉ bảo hướng dẫn tôi biết đi theo “đường ngay nẻo chính” của sự thuận hòa yêu thương đối với tất cả mọi người, từ trong gia tộc ra đến ngoài xã hội. Mẹ đã qua đời trên 58 năm rồi, nhưng các đức tính nhân ái đạo hạnh của mẹ vẫn còn hiển lộ qua cuộc sống của mỗi người con của mẹ là các anh chị em yêu quý của tôi.
Và tôi luôn tự nhủ mình phải luôn cố gắng để xứng đáng với công lao trời biển của mẹ đã hết lòng hy sinh chăm sóc cho mình cả về vật chất cũng như tinh thần. Nhớ đến mẹ, tôi luôn cảm động rưng rưng nước mắt, mà trong lòng thì tràn ngập niềm yêu thương mến phục đối với một nhân cách cao quý rất mực như thế trên cõi đời nhiều chông gai nghịch cảnh này.
Với niềm tin vào cuộc sống mai sau, tôi phấn khởi, tràn trề hy vọng sẽ được gặp lại bà mẹ muôn vàn yêu quý của mình, sau ngày tôi lìa xa cõi thế gian tạm bợ này nữa vậy.