Văn 11 : Nghị luận văn học

A

anhvippro1209

Tu Tinh

Hồ xuân hương 1 nữ thi sĩ tài ba với phong cách sáng tác thơ nôm tả cảnh ngụ tình sâu sắc cùng ý tứ chân thành nhằm giãi bày tâm sự lòng mình theo giới nghiên cứu hiện còn khoảng 40 bài thơ nôm tương truyền là của hxh nữ sĩ còn có tập thơ lưu hương kí, hxh là một hiện tựơng khá độc đáo trong lịch sử văn học việt nam đó là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình. Nổi bật trong sáng tác của hồ xuân hương là tiếng nói thưong cảm đối với phụ nữ, là sự khẳng định đề cao vẻ đẹp và khát vọng sống khát vọng hạnh phúc mãnh liệt trong trái tim họ. và một lần nữa ta bắt gặp điều đó qua những câu thơ rất đỗi chân thành trong bài thơ tự tình 2 trong chùm thơ tự tình dc viết nên từ những cung bậc tình cảm dừơng như đang làm rối bời tâm trạng nhà thơ
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Mảnh tình san sẻ tí con con
Tình là gì ai biết không ? tình là vầng dương tình là ngàn sao hay tình chỉ là vầng trăng khuyết, câu hát vang lên bằng một câu hỏi tu từ hỏi đời rằng trên thế gian còn gì hạnh phúc bằng tình yêu hay có gì làm lòng ngừơi đau khổ bằng thất bại trong tình cảm, nỗi đau khổ đó không chỉ làm bão giông trong bao trái tim ngừoi đời và trong đó có trái tim hồ xuân hương, nỗi cô đơn đã dằn vặt làm thao thức tác giả trong cái yên ắng và lạnh lùng của đêm khuya
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nứơc non
Trong cái tĩnh mịch u buồn của đêm giá lạnh thoáng nghe tiếng trống canh văng vẳng từ môt chòi canh xa vọng đến báo hiệu đã nữa đêm, tiếng trống mỗi lúc một dồn dập hơn xa đến gần càng lúc như nhanh hơn trôi theo từng khoảnh khắc của thời gian và rút ngắn tuổi đời của một ng phụ nữ “hồng nhan” nhưng “trơ” đi trứơc cuộc đời trứoc cảnh vật tựa như gỗ đá đã bị mất hết cãm giác vì bao nỗi phiền muộn đợi chờ một thứ hạnh phúc mong manh, giọng thơ trĩu xuống tăng thêm nỗi chán chừơng và cái cô đơn đang bủa quanh tác giả.Cách sử dụng đão ngữ nhấn mạnh thêm sự trơ trọi bẽ bàng và tủi hổ. Trứơc cuộc đời trứơc duyên phận hẩm hiu ng phụ nữ ấy chua xót cho chính mình, thân phận lẻ loi mong manh giữa bao vùi dập của cái xã hội đầy bất công thị phi ngang trái. Thân phận hồng nhan bây giờ phải trải qua những đêm dài cay đắng cho tấm lòng thủy chung vì cuộc tình dang dở.Tiếng thở dài ngao ngán và ý nguyện muốn thoát khỏi nỗi sầu muộn dấy lên trong lòng nhưng cuối cùng cũng rơi vào bế tắc, dừong như nghịch cảnh khôg buông tha cho ng phụ nữ ấy, mựợn rựou quên đi nhưng lại càng nhớ
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Chén rựơu cầm hững hờ trên tay mặc cho hương nồng của rựơu phả vào mặt xộc vào mũi, tác giả mong rượu có thể giải tỏa hộ nỗi lòng của mình, mong cơn say mau tìm đến để đưa ng đến một nơi yên bình dù trong thời gian ngắn ngủi cũng đỡ hơn khi phải một mình đối diện nỗi cô đơn đang giày xéo tâm can.Nhưng say rồi lại tỉnh cứ chập chờn chập chờn mơ hồ trong cái vòng lẩn quẩn.Thời gian thì cứ trôi tác giả lúc thì tỉnh để nhận ra cái éo le của cuộc đời lúc thì chìm vào cơn say quên đi bao tuyệt vọng, mong mỏi phút giây nào đếy có thể gạt dc tất cả qua một bên để sống với những khao khát của chính mình nhưng mong ứơc bé nhỏ ấy cũng bị cuốn phăng đi vô tình.Nỗi buồn tủi bắt đầu xâm chiếm, bao đêm dài thao thức đợi chờ nhưng vô vọng, chờ nhiều đợi nhiều mà hạnh phúc chẵng bao nhiêu trong khi cái xuân thì ngày càng rời xa tác giả. Vầng trăng xuất hiện để làm chứng nhân cho bao cuộc tình mà sao khi tác giả thấy trăng thì lại không dc tròn đầy mà là hình ảnh đối lập là khuyết, phải chăng cuộc tình này cũng thế chẵng bao giờ có một cái kết trọn vẹn.Đến bao giờ thì trăng mới tròn đến khi nào thì hạnh phúc mới trong tầm tay và bao lâu nữa thì nỗi cô đơn này thôi xuất hiện làm xót lòng.Tác giả khao khát và mong chờ, nỗi niềm đó nhân lên theo ngày tháng, nhưng càng hi vọng thì càng đau khổ, bi kịch có bao giờ dc kết thúc cho những ng phụ nữ quá lứa lỡ thì cùng tình duyên ngang trái trong cái xhpk ngày xưa.Nỗi buồn dâng đầy trong lòng rồi lan tỏa ra không gian khắp bốn bề, khẽ đưa mắt nhìn ra khoảng trống trứoc mặt những hình ảnh thiên nhiên đập vào mắt và như hòa vào tâm trạng nhuốm nỗi buồn phiền của tác giả
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
câu thơ tả cảnh với cấu trúc tương phản hình ảnh những đám “rêu” bé nhỏ yếu ớt với sức mạnh “xiên ngang” cả lớp đất dày vưon lên với sức sống mãnh liệt hay “đá mấy hòn” nhưng lại có khả năng đâm toạc chân mây trứoc mắt.Thái độ phản ứng khá mạnh mẽ trứoc duyên tình lận đận thể hiện qua cả gịong thơ ngang ngạnh phản kháng và ấm ức.Thiên nhiên trong mắt nhà thơ tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mãnh liệt.Ta thấy rõ dc tác dụng của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở hai câu thơ này, dừơng như có một điểm giống nhau giữa tâm hồn thơ và những hình ảnh thiên nhiên ấy. Rêu và đá bé nhỏ là thế nhưng chúng giống nhau ở sức sống mạnh mẽ vô cùng và nhà thơ cũng vậy. Dù trong hoàn cảnh xót xa nhưng tâm hồn lúc nào cũng tràn đầy một niềm hy vọng, bi kịch dẫu đắng cay nhưng bằng cả nghị lực tác giả vẫn cố gắng gựơng mong chờ vựơt qua để đến bến bờ bình yên cho mình.2 câu thơ hay ẩn dụ dc khát vọng rất lớn không chỉ của riêng hxh mà là tiếng lòng chung của bao số phận hồng nhan hẩm hiu về một cuộc đời hạnh phúc hơn.Dâng tràn trong họ là tất cả hy vọng mong chờ bằng cả niềm tin dù bao nghịch cảnh.Nhưng đáng buồn thay vòng xoay cuộc đời một lần nữa làm ng rơi vào bế tắc.Cuộc đời nhà thơ là những thắng ngày buồn tủi không chỉ một mà đến 2 lần ng đều là vợ lẽ và âu cũng vì vậy mà bao phẫn uất kết tụ đến hồi bộc phát khi thực tại vẫn là bao chua xót não nề.Khao khát dc yêu thương dc sống hạnh phúc như nhữgn ng phụ nữ bình thừơng nhưng càng vô vọng, đêm đã khuya mà nhà thơ vẫn còn trằn trọc thao thức ưu tư, nỗi đau bị dồn tụ khi tác giả nhìn lại chính mình thì cũng là lúc nỗi cô đơn đâng đầy hơn bao giờ hết trong tâm trạng chán chừờng và mệt mỏi thậm chí là thất vọng với sự thực trứơc mắt
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Tiếng lòng than thở của nhà thơ vang lên qua từ “ngán” dc rõ nét hơn.Mùa xuân có đi rồi cũng đến ngaỳ sẽ quay về với thiên nhiên nhưng còn tình duyên thì mới bao giờ trở lại với con tim chung tình đang chịu nỗi đau.Tuổi xuân ng phụ nữ trôi nhanh nhưng cũng không bằng cuộc tình dang dở, hạnh phúc ngắn ngủi để rồi bây giờ chỉ còn nhà thơ quạnh hiu trong nỗi cô đơn đang ngấm buốt tê lòng.Tình duyên lỡ làng tan vỡ như mảnh vụn chỉ dành nhà thơ dc một chút nhưng lại phải “san sẻ” để còn trong nhà thơ là “tí con con”.Buộc lòng cam chịu cảnh ngộ đơn chiếc đang ngày đêm trải qua sự đợi chờ mỏi mòn.Nỗi đau như thế chưa đủ hay sao mà còn tình cảm nhận dc chẳng những quá ít mà còn quá vô tình
quá hờ hững. Câu thơ tả thực nỗi chua chát ngấm từ trong lòng. Nỗi trống trải cô đơn làm tác giả chán nản nới những mong chờ mà đáp lại chỉ là sự lành lùng tàn nhẫn. Mổi từ như một giọt nứoc mắt rưng rưng chỉ chực trào ra theo những tủi hờn trách móc.Có mấy ai hiểu dc những gì đang hành hạ tâm hồn mỏng manh của ng, thấu chăng nơi đây đang có bóng hình chờ và đợi.Đau lắm nhưng cũng phải tự nén lòng và nuốt nghẹn đắng vào trong.Cuộc đời thì cứ đùa cợt trêu đùa với những ng làm vợ lẽ, phải chịu bao phân biệt và bất công có ai thấu hiểu dùm
cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
cầm lòng làm mứơn mứơn không công
Cả bài thơ là muôn vàn sắc thái tình cảm của nhà thơ có buồn có hờn có giận có chua chát có lúc phản kháng dữ dội nhưng rồi chán chừơng vì thất vọng. Tiếng thơ táo bạo chân thành thễ hiện khát vọng mưu cầu hạnh phúc lứa đôi của bao hồng nhan torng xhpk bấy giờ, qua đó đã dẫn dắt cho ng đọc đi vào thế giới tâm hồn đa dạng của họ và thấy dc cũng như có cơ hội cảm thông với bao nỗi buồn mà họ phải gánh chịu .Ngôn ngữ thơ mang đậm chất dân gian dc sử dụng khéo léo giàu sức biểu cảm tinh tế. Tài thơ nôm cua hxh còn thể hiện qua việc viết thơ đừong luật bằng tiếng việt thật tài tình quả không hổ danh là bà chúa thơ nôm.
 
A

anhvippro1209

Mùa thu là đề tài vô tân của thơ ca .Có nhiều nhà thơ mượn mùa thu dể nói lên cảm xúc của mình. Xuất sắc nhất có nhà thơ Nguyễn Khuyến. Ông được mệnh danh là nhà thơ lành cảnh quê hương Việt Nam của mùa thu Việt Nam. Bởi ông nổi tiếng với ba bài thơ: Thu điếu, thu ẩm, thu vịnh. Tiêu biểu nhất là bài thơ “ Thu điếu”.

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Đây là bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đương luật, có bốn phần : đê, thực, luận, kết đầy đủ như những bài thơ đường luật khác nhưng bài thơ này không thể phân tích theo cấu trúc đó. Vì nếu phân tích như vậy sẽ làm cho bài thơ này khô cứng. Chúng ta sẽ không thấy được tâm trạng của tác giả trước cảnh vật, tâm tư của tác giả trước cuộc đời, sẽ không thấy được cảnh đẹp mùa thu của làng quê Việt Nam, sẽ không thấy được đặc sắc của miền quê Bắc bộ...mà nhà thơ đã gửi gắm trong đó. Vì vậy chỉ có thể thưởng thức bài thơ theo mạch cảm xúc, không gian thời gian , cảm xúc, đường nét...

Trước hết chúng ta tìm hiểu cảnh thu của quê hương làng cảnh VN qua cái nhìn của Nguyễn Khuyến. Tác giả cảm nhận cảnh thu với nhiều điểm nhìn khác nhau . Cảnh thu được đón nhận từ gần đến xa, rồi từ xa đến gần: từ chiếc thuyền câu, mặt ao, bầu trời; rồi từ bầu trời trở về ngõ trúc rồi trở lại ao thu quay lại thuyền câu. Với cách nhìn ấy không gian mùa thu, cảnh sắc màu thu được mở ra nhiều hướng thật sinh động

Cũng chính nhờ điểm nhìn đó mà bức tranh mùa thu trở nên thơ mộng với màu sắc đường nét.. thông thường tính nổi bật của mùa thu là chiếc lá vàng. Tuy nhiên trong bài thơ chỉ toàn một điệu xanh: màu xanh trong của nước, màu xanh biếc của sóng, màu xanh ngắt của da trời, màu xanh rợp của ngõ trúc, màu xanh mới thấy nổi bật một màu vàng của chiếc lá rơi , làm cảnh mùa thu trở nên sinh dộng

Cũng chính nhờ điểm nhìn đó mà bức tranh mùa thu trở nên thơ mộng với màu sắc đường nét.. thông thường tính nổi bật của mùa thu là chiếc lá vàng. Tuy nhiên trong bài thơ chỉ toàn một điệu xanh: màu xanh trong của nước, màu xanh biếc của sóng, màu xanh ngắt của da trời, màu xanh rợp của ngõ trúc, màu xanh mới thấy nổi bật một màu vàng của chiếc lá rơi , làm cảnh mùa thu trở nên sinh động một cảnh độc đáo, mãi hến sau này người đọc lại thưởng thức được một “tiếng thu” của Lưu Trọng Lư:” Lá thu rơi xao xạc” cũng hay, cũng đặc sắc nhưng chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến đã làm cho mùa thu Bắc Bộ, mùa thu Việt Nam trở nên có hồn thơ hơn. Còn nói về đườn nét, chuyển động thì lại hết sức nhẹ nhàng , sâu lắng...mang cái thanh bình yên ả của làng quê khi đất trời bước vào thu. Sáng thì “ hơi gợn tí” còn chiếc lá vàng chỉ “khẽ đưa vèo”. Trên trời những tầng mây “ lơ lững” không muốn trôi, dưới ao những con cá khẽ đớp động chân bèo. Đặc trưng của gió thu : gió heo may thổi nhè nhẹ. Cũng từ đó ta nhận ra đi câu chỉ là cái cớ thực chất là đi du noạn, đi ngấm cảnh để thả hồn mình vào thiên nhiên...

Không gian của mùa thu là một đặc điểm không kém phần quan trọng. Không gian mùa thu trong bài: tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng.

“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Câu thơ cũng đã cho thấy một cảnh mùa thu với những chuyển động đều, rất nhẹ, rất khẽ sóng” hơi gợn tí”, mây thì “lơ lững” lá chỉ “ khẽ đưa”. Trong một bầu không khí yên lặng đó thì ở dưới có vài con cá đớp động dưới chân bèo. Càng làm tăng thêm sự yên lặng đến nổi nghe cả tiếng cá ăn mồi. Tác giả đã dùng nghệ thuật lấy “động” để tả “ tĩnh”nghĩa là nói cảnh không có âm thanh thì không đúng, mà có đó là tiếng cá đớp. Những âm thanh này không làm cho cảnh vật thêm sôi động lên mà ngược lại càng vắng lặng yên ắng. Ta liền tưởng đến bài thơ “ Qua đèo ngang” của Bà Huyện Thanh Quan. Trong một cảnh đèo ngang vắng vẻ thưa người với những tiếng chim rừng, chim đa đa, chim quốc. Những âm thanh ấy không làm cảnh vật thiên nhiên nhộn nhịp mà còn làm ngược lại làm cảnh đèo ngang thêm buồn, hiu quạnh, thưa người. Đó cũng là một cách mà các nhà thơ nổi tiếng thường hay lấy “động” tả “tĩnh”.

Thực ra mặc dù bài thơ nói về việc tác giả đi câu cá nhưng mục đích của tác giả chỉ mượn việc đi câu cá để đi ngắm cảnh thiên nhiên đi đây đi đó. Tác giả đi ngắm cảnh mùa thu để vơi đi nổi buồn, để không phải lo lắng về những uẩn khúc của sự đời. Nghĩa là qua bức tranh thu ta thấy được tình cảm và tâm trạng của nhà thơ. Đằng sau bức tranh ấy (dả dược cảm nhân tinh tế bằng những nét vẽ đặc trưng nhất), ta hiểu dược tình cảm của nhà thơ tình yêu thiên nhiên, đất nước sự gắn bó thiết tha thiết tha với những gì bình dị ở quê hương. Bài thơ nói đến chiện câu cá, nhưng thực ra tâm hồn nhà thơ dang tĩnh lặng để đón nhận cảnh thu, để chìm đắm trong suy tư về thời thế, về đất nước.. Bởi vì có tĩnh lặng nên mới cảm nhân được độ rơi khe khẽ của lá, đặc biệt là âm thanh rất nhỏ của tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Trong không gian tĩnh lặng của mùa thu cũng nói lên được nỗi buồn cô quạnh, uẩn khúc thầm kín trong tâm hồn của một con người cáo quan về quê ỏ ấn nhung trong lòng vẫn đầy nỗi ưu tư.
 
A

anhvippro1209

Bài ca ngắn đi trên cát dựng lên hình tượng một con người đi giữa một bãi cát mênh mông, mỗi bước chân đều bị lún xuống cát, cho nên hễ tiến lên một bước lại phải lùi lại một bước. Ngay từ đầu, bài thơ đã sử dụng điệp âm, và điệp âm đặt trong cách ngắt nhịp 2/3 liên tiếp trong hai câu thơ năm chữ đã gợi lên cái cảm giác của bước chân người đi luôn luôn bị kéo giật lại:
Trường sa / phục trường sa,
Nhất bộ / nhất hồi khước.
(Cát dài / bãi cát dài,
Mỗi bước / lùi một bước)

Con người đi trong trạng thái bất thường như thế tất nhiên là đi liên miên suốt đời mà không bao giờ thấy đích. Anh ta không còn chút ấn tượng nào về thời gian, về sáng tối. Chỉ có nỗi phiền muộn cứ chất mãi lên trái tim anh :

Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
(Mặt trời đã lặn đi chưa nghỉ,
Bộ hành nước mắt lã chã rơi).

Bài thơ cho thấy, chỉ mới ở tuổi trong ngoài ba mươi, Cao Bá Quát đã cảm nhận được sự bế tắc cùng cực của một loại hình nhà nho không hợp khuôn với chế độ hiện hành. Nhà thơ tự đặt ra một lối thoát là trong cuộc đi vô tận đó, nếu người ta có thể ngủ đi được theo phép “thụy du” của những ông tiên thì may ra mọi nỗi thống khổ mới chấm dứt. Tiếc thay phép thụy du đối với những người vốn đã quá tỉnh lại chẳng có chút gì hiệu lực. Vì thế, càng đi trong sự tỉnh táo thì mọi nỗi oán hận trong lòng người đi chỉ càng thêm chất chồng:

Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng ?
(Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non lội suối giận sao nguôi ?)

Và nhà thơ lại thử làm một phép so sánh giữa loại “hành nhân” đáng gọi là tỉnh kia với vô số những người ngược xuôi vì danh lợi, thì hóa ra số người tỉnh rất ít, còn tất cả bọn họ đều là người say:

Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung;
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu, túy giả đồng.
(Xưa nay phường danh lợi,
Bôn tẩu trên đường đời;
Gió thoảng hơi men trong quán rượu,
Say cả hỏi tỉnh được mấy người ?)

Sự đối lập thức / ngủ và tỉnh / say thực ra chỉ là những biện pháp loại trừ nhằm giới hạn dần và soi tỏ từng bước đặc trưng loại biệt của đối tượng. Và đến đây, cảm hứng về một con người lầm lũi đi không biết tháng biết năm, đi mà không bao giờ tới đích, đi nhưng vẫn cứ như dẫm chân tại chỗ… ở đầu bài thơ được tiếp thêm bởi cái cảm hứng về sự cô đơn tuyệt đối của chính người bộ hành ấy, đã nâng hình tượng trữ tình của bài thơ lên mức một ẩn dụ có sức ám ảnh ghê gớm : người hành nhân ấy vẫn cứ đang mải miết đi, nhưng nhìn lên phía Bắc thì muôn ngọn núi lớp lớp đã sừng sững chắn mất lối; ngoảnh về Nam, núi và sóng hàng muôn đợt cũng đã vây phủ lấy mình. Và nhìn khắp bốn phía, thì nào có còn ai, chỉ còn độc một mình mình đứng trơ trên bãi cát. Bài thơ mở đầu bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc, đều là câu năm chữ, như muốn ném ra giữa cuộc đời một nhận xét chua chát về sự cố gắng tìm đường vô ích. Kế tiếp là hai cặp câu vần bằng dài - ngắn và hai cặp câu vần bằng xen trắc, cùng dài nhưng khác vần, biểu hiện những quặn khúc trong quá trình cọ xát với thực tiễn của chủ thể trữ tình / con người lặn lội tìm đường một cách hoài công :

Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng/
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung/
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng/
Trường sa trường sa nại cừ hà !
Thản lộ mang mang úy lộ đa

Thế rồi ở phần cuối, bài thơ kết thúc bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc bảy chữ, báo hiệu một cái gì đang thắt lại trong tư tưởng, là cái tuyên ngôn “cùng đường” của nhà thơ. Phép điệp âm ở đây lại được sử dụng tiếp, cài vào nhau, đan chéo nhau, đẩy cảm giác nhức nhối đến cùng tột :

Thính ngã nhất xướng “cùng đồ” ca:
Bắc sơn chi Bắc / sơn vạn điệp,
Nam sơn chi Nam / ba vạn cấp;
Quân hồ vi hồ sa thượng lập ?
(Nghe ta ca “cùng đường” một khúc:
Phía Bắc núi Bắc / núi muôn lớp,
Phía Nam núi Nam / sóng muôn đợt;
Sao mình anh trơ trên bãi cát ?)


Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất hết ý niệm về thời gian vì những cuộc đi, lại mất luôn cả ý niệm về phương hướng vì không còn có không gian xoay trở. Đấy là con người mất ý thức về lẽ tồn tại. Nhưng câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, cho nên cần hiểu : trong cảnh ngộ tuyệt vọng, con người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc mắc mà không giải đáp nổi vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất lý do tồn tại của mình.
 
Top Bottom