(Tiếp)
2. Dằn vặt đau đớn vì mình không làm được người anh hùng nơi hòn tên mũi đạn như bao nghĩa sĩ Cần vương khác, Nguyễn khuyến hết sức cảm phục hành động xả thân vì nghĩa lớn của các bạn bè đồng liên và thẹn cho mình còn “dủng dẳng” (thoan tuần) không theo được họ (Đêm xuân thương con thiêu thân). Về mặt này Nguyễn Khuyến là một con người cô độc, ông luôn sợ mọi người không hiểu và coi thường mình. Nỗi niềm đau đớn cho mình là kẻ bỏ cuộc, chạy làng luôn dằn vặt ông cho đến tận những ngày cô đơn cuối đời.
“Cờ dang dở cuộc không còn nước
Bạc chưa thâu canh đã chạy làng”
Nguyễn Khuyến trở về vườn Bùi, nơi anh khóa Thắng (tên của nhà thơ lúc nhỏ khi đi thi Hội không đỗ đổi thành Khuyến) đã hăm hở bước chân vào con đường hoan lộ, quyết giật cho được ngôi vị cao nhất chốn trường ốc. Đó là sự trở về không hề đơn giản chứa đựng trong đó biết bao nhiêu dằn vặt nghĩ suy. Bởi một con người khác trong ông vẫn còn hăm hở với đời lắm, chừng vẫn còn nuối tiếc muốn “đan tay vào hội lạc”, không muốn vứt bỏ một cách dễ dàng những gì mình phải khó nhọc bao năm trời mới giành giật được từ cuộc đời. Nhưng may mắn thay cho lịch sử văn học dân tộc, “con người thứ hai” lớn hơn, con người đầy nhân cách và trách nhiệm với non sông đất nước, con người tỉnh táo trước thực tế lịch sử trong Nguyễn Khuyến đã chiến thắng. Sự trở về vườn Bùi của Tam nguyên Yên Đổ là sự thể hiện sáng rõ của một nhân cách, là sự bất hợp tác với kẻ thù dân tộc. Và cao hơn là sự từ bỏ phần nào nhưng không kém day dứt với tư tưởng trung quân đã lỗi thời, với một hệ tư tưởng đã không còn hấp dẫn. Trở về làng quê là tìm về với sự thanh thản của cõi lòng, để quên đi những dằn vặt đớn đau.
Văn học luôn song hành cùng lịch sử nhưng văn học cũng có những quy luật riêng của mình. Không phải cứ giai đoạn nào xã hội thịnh vượng thì văn học phát triển hơn các giai đoạn lịch sử khác. Chính là vào những thời điểm khốn cùng nhất, khi dân tộc tưởng chừng như bị hủy diệt trước quân thù, hoặc khi Tổ quốc rên xiết trước nạn nội chiến, hay khi kẻ thống trị ra mặt phản động, dìm dân tộc và người tri thức trong những bước đường cùng thì lại là lúc xuất hiện những tác phẩm văn học và những tác giả vào loại kiệt xuất nhất. Cuộc đời của một nhà văn cũng vậy, lúc mà anh ta đạt đến đỉnh cao của danh vọng, giàu sang phú quý thì chưa chắc đã phải là lúc bút lực của anh ta thu phục được nhiều người đọc nhất, có khi lại là lúc văn phong nhạt nhẽo hơn cả. Nhưng chính vào lúc anh ta phải từ bỏ tất cả, lúc mà tưởng chừng cuộc đời nhấn chìm anh trong đau khổ thì lại là lúc những tác phẩm nghệ thuật bất hủ được thai nghén. Các nhà nghiên cứu văn học đều đánh giá rất cao hành động trở về Yên Đổ của Nguyễn Khuyến, coi đó là một bước ngoặt quan trọng nhất của đời ông. Chính bắt đầu từ đó những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà thơ ra đời và còn đọng lại mãi trong lòng bao thế hệ. Chính vị Tam nguyên về vườn ấy, chính con người từ đỉnh cao danh vọng vốn áo mũ xênh xang ấy nay đã trở về hòa mình cùng người dân nghèo “chân lấm tay bùn”, chân đi đất mình bận bộ quần áo thôn quê:
“Vườn Bùi chốn cũ,
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây
Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây
Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế ”
(Trở lại vườn cũ)
Nguyễn Khuyến đã bỏ lại sau mình những tầm thường, trích cú, những vay mượn ồn ào, những vần thơ quý phái tẻ nhạt, đưa văn học về với cội nguồn dân tộc, với làng quê, với người nông dân nghèo khó vất vả.
Nhưng nếu không có những ngày vinh quang sôi kinh nấu sử ở chốn kinh đô, không tắm mình trong không khí văn chương bác học, quý phái chốn quan trường, không tiếp thu tự do những giá trị nhân bản truyền thống thì cũng khó mà có được những vần thơ vừa sang trọng, uyên bác, vừa gần gũi, dân giã nơi vườn Bùi. Không có những ngày ấy thì Nguyễn Khuyến có lẽ giỏi lắm cũng chỉ là một anh đồ quèn có vài ba bài thơ hài hước mà giá trị không vượt quá khỏi luỹ tre làng. Có nhiều người đối lập hai thời kỳ làm quan và ở ẩn, coi nhẹ thời kỳ trước trong cuộc đời Nguyễn Khuyến; nhưng mặc dù giữa hai thời kỳ đó có sự khác nhau về chất song giữa chúng lại có mối quan hệ biện chứng liên kết nhau. Giai đoạn lều chõng đi thi rồi làm quan chính là thời gian nhà thơ làng Yên Đổ góp mặt với đời, học hành hết sức mình, bôn ba đây đó, tiếp xúc và chứng kiến bao sự đời, tham gia vào các biến cố lịch sử, xã hội, mở rộng tri thức và tầm mắt. Chính vì vậy khi về ở ẩn mình nơi thôn xóm, tầm nhìn và trí tuệ của ông không hề bị bó hẹp trong giới hạn của lũy tre làng, nó vẫn bắt nhịp cùng với thời đại và góp phần tạo nên sự phát triển liên tục cho văn học dân tộc.
Sự trở về Yên Đổ là một bước ngoặt quyết định quan trọng trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Khuyến. Và thơ văn ông chính là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa những cái tinh hoa của văn học bác học dân gian được chắt lọc từ ngàn đời của dân tộc. Ở mỗi một thời kỳ của lịch sử văn học, nhất là ở những giai đoạn phát triển rực rỡ thường xuất hiện những tài năng có năng lực kết hợp ở mức độ cao hơn tinh hoa của văn học dân gian và văn học bác học. Văn học dân gian chính là cội nguồn nuôi dưỡng văn học dân tộc, giúp văn học dân tộc thoát khỏi những bế tắc và ràng buộc. Nhưng cũng chính văn học bác học với những tri thức thông minh, bác cổ đã góp phần vô cùng quan trọng gìn giữ, phát huy, sáng tạo giúp cho văn học dân gian phát triển.
Sự kết hợp quan trọng nhất trong văn học Việt Nam bắt đầu từ Nguyễn Trãi, ông đã tạo ra một bước ngoặt và sự khởi đầu hết sức quan trọng cho văn học dân tộc, trong đó thể hiện rõ sự kết hơp thuần nhuyễn giữa trí tuệ bác học và dân gian, đem lại cho văn học tinh thần của thời đại và hơi thở của dân tộc điều mà trước đó còn mờ nhạt.
Nguyễn Du cùng với Truyện Kiều đã làm một bước tổng hợp lớn tiếp theo có giá trị khẳng định sự lớn mạnh của văn học dân tộc, một lần nữa đưa văn học dân tộc lên đỉnh cao mới. Sự kết hợp lần này là hết sức lớn cả về chất lượng và quy mô đã góp phần tạo nên một giai đoạn văn học rực rỡ.
Bước tổng hợp ở Nguyễn Khuyến có phần khiên tốn hơn nhưng không phải là không có những thành tựu mới mẻ tạo nên một dáng vẻ riêng biệt. Ông không có những “thiên cổ hùng văn”, những tác phẩm dài tầm cỡ, ông đặc biệt thành công ở những thể loại nhỏ - ở đó tinh hoa của nền thơ ca gần một ngàn năm của dân tộc được chắt lọc, chưng cất của từng câu chữ tạo nên những tác phẩm như có ma lực hấp dẫn và gần gũi ngay cả với những người nông dân bình thường. Sự gần gũi và dân giã đó, những bậc thi hào trước ông cũng khó có thể có được.
Sự trở về của Nguyễn Khuyến cũng chính là sự trở về với nhân dân, sự hòa mình với môi trường sống, môi trường văn học vốn gần gũi với ông từ thủa lọt lòng. Và cũng chính ở đó những phẩm chất vốn tiềm tàng trong con người thơ của ông được phát huy và phát hiện trở lại. Thơ ông là sự kết hợp thuần nhuyễn của nhiều phẩm chất thơ ca: dân gian và bác học, trữ tình và trào phúng, v.v. là sự hội tụ nhiều phẩm chất của thơ ca dân tộc và của các bậc thi hào trước ông. Điều đó đã khiến cho giọng điệu trong thơ Nguyễn Khuyến trở nên đa dạng, là sự kết hợp, đan xen, hòa trộn của nhiều màu sắc thẩm mỹ. Nguyễn Khuyến cũng là người viết được rất nhiều thể loại thơ trữ tình, trào phúng, các thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn, tứ tuyệt, lục bát, song thất lục bát. Ông còn là một nhà soạn câu đối vô địch, là người viết báo nói có biệt tài và đầy sáng tạo, một dịch giả suất sắc, thơ Nôm, thơ Hán của ông đều rất hay.
Ở đây có thể nói đến một sự trở về mang tính triệt để hơn so với truyền thống. Khác với Nguyễn Trãi khi về Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm khi về Bạch Vân Am, Nguyễn Du khi bôn ba trong thiên hạ, Nguyễn Khuyến trở về vườn Bùi và sống thật sự đời sống của người dân. Ông không có tâm trạng day dứt ở-đi, đi-ở, ở ẩn chỉ là tạm lánh của Nguyễn Trãi, hay như thế ở ẩn để làm thầy thiên hạ của Trạng Trình. Ông dứt áo về quê là về hẳn, bởi làm quan ở thời buổi ông đồng nghĩa với làm tay sai cho giặc, nhà thơ chỉ còn một chút băn khoăn là chưa trả hết được ân nghĩa cho nhà vua và triều đình đã tôn vinh ông nhưng ông cũng chẳng còn vua hiền để thờ phụng, mọi điều học được từ sách vở thánh hiền đều đã trở nên vô dụng. Vì vậy ông Tam nguyên trở về với dân chúng Yên Đổ mà chịu rất ít sức ép của tư tưởng chính thống. Ông thật sự trở về với vườn cà, luống cúc đúng với nghĩa đen của nó. Đó là một sự trở về triệt để cả trong tư tưởng lẫn trong nghệ thuật.
(Còn nữa)