Gia Long và các vị vua tiếp sau ông đều xây dựng nhà nước theo thiết chế quân chủ chuyên chế, tập trung tối đa mọi quyền lực vào trong tay nhà vua nhưng thực chất là tiếp tục thể chế quân chủ đã định hình từ thời Lê sơ đồng thời có sự thay đỏi cho phù hợp với thời thế nhất là trong thời kì có nhiều biến loạn trong nước cũng như tình hình khu vực ngày càng phức tạp.
Cũng như thời Lê, triều Nguyễn gồm có 6 bộ: Bộ Hộ (phụ trách tài chính, kho tàng, vật giá...); Bộ Lại (phụ trách vấn đề tuyển chọn quan lại, ban phẩm tước, soạn thảo chiếu chỉ của nhà vua...); Bộ Lễ (phụ trách việc thi cử, tế tự, phong thần...); Bộ Binh (phụ trách việc tuyển lính, các ngạch võ quan, điều động quân đội và an ninh xã hội..); Bộ Hình (chuyên lo việc soạn luật, thi hành hình phạt và xét duyệt tố tụng...); Bộ Công ( lo việc xây dựng cung điện, đền đài , lăng tẩm, thành lũy, đóng tàu, đắp đường sá...).
Đứng đầu mỗi Bộ là một quan Thượng thư, hai tả hữu tham tri và hai tả hữu thị lang. Ngoài ra còn có các cơ quan chuyên môn như đô sát viện, hàn lâm viện, thái ý viện, quốc tử giám, khâm thiên giám, phủ nội vụ...
Nhận thấy tình hình và đề phòng phản ứng tiêu cực của các quan lại địa phương nên lúc đầu Gia Long chưa có ý định tập trung cao độ vương quyền trong tay mình nên đã cho duy trì những khu vực hành chính lớn như Bắc Thành gồm 13 trấn, Gia Định Thành gồm 5 trấn do các tổng trấn nắm mọi quyền hành chính, tư pháp, quân sự...Miền đất còn lại từ Thanh Hóa đến Bình Thuận chia làm Hữu trực kì ở phía Bắc và Tả trực kì ở phía Nam cùng với dinh Quảng Đức (kinh đô Huế) thì đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của triểu đình.
Đến khi Minh Mạng lên cầm quyền, tính chất chuyên chế phát triển cao cùng với việc hạn chế quyền hành của các cấp địa phương. Theo đó, ông cho tiến hành cuộc Cải cách Hành chính trên cả nước với rất nhiều đổi thay. Nhà nước cho đặt thêm Cơ mạt viện lấy 4 đại thần ở các bộ sung vào để cùng nhà vua bàn bạc các việc quân cơ trọng yếu. Đặt thêm phủ Tôn nhân là cơ quan quản lí công việc của hoàng tộc. Các đơn vị Bắc Thành và Gia Định thành bị bãi bỏ, cả nước chia làm 29 tỉnh đứng đầu mõi tỉnh là các Tổng đốc, dưới tổng đốc là Bố chánh, án sát. Ở phủ có tri phủ, huyện có tri huyện, châu có tri châu.
Ở khu vực thượng du, nhà nước vẫn phải dựa vào các tù trưởng nhưng thường đặt thêm viên quan của triều đình gọi là Chiêu thảo sứ, lại có thêm chức " Lưu quan" nhằm trực tiếp kiềm chế nhân dân, giảm dần quyền hạn của tù trưởng, kiểm soát chặt chẽ nguồn sản vật địa phương.
Về võ ban: trên hết có 5 phủ đô đốc, chir huy 5 quân là trung quân, tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân. Đứng đầu mỗi phủ đô đốc có chức đô thống chưởng phủ sự rồi đến các chức thống chế và chưởng vệ. 5 phủ đô đốc đặt dưới quyền chỉ huy của nhà vua. Vua nắm quyền tối hậu về việc đièu động và di chuyển quân đội.
Như vậy, hệ thống chính trị của vương triều Nguyễn là một thiết chế nhà nước quân chủ nhà nước phương Đông mọi quyền hành tập trung trong tay nhà vua mà rõ nét nhất là từ thời vua Minh Mạng. Sử triều Nguyễn chép " Vua sáng suốt về mặt chính trị; những tờ sớ dâng lên, vua đều xem xét và trực tiếp chỉ bảo cho. Hễ có gì quan trọng tâu lên thì phần nhiều vua tự nghị soạn lấy, hoặc thảo ra rồi giao phó cho, hoặc châu phê vào. Bản châu phê bắt đầu từ đấy mới có".
* Ngoại giao:
- Đối với TQ: thần phục giả vờ, độc lập thực sự . hết sức coi trọng, được điển chế hóa. Chính sách mềm dẻo nhưng cứng rắn về nguyên tắc: chủ quyền quốc gia. - Đối với các nước láng giềng: tiểu tông chủ, đường lối ôn hoa hữu hảo đến mức có thể, ngoại giao đi trước quân sự theo sau ( đối với Xiêm: có quan hệ lâu đời, đặc biệt là Gia Long, quan hề hòa hiếu, rất hậu nhưng không tránh khỏi bất đồng nhất là vấn đề Vạn Tượng và Chân Lâp ) - Đối với phương Tây: xem là Ma Di => Vấn đề ngoại giao phương Tây hết sức phức tạp. Đường lối ngoại giao dù đã giữ vững ổn địnhv ề bang giao, biên cương, bảo vệ ưững chắc chủ quyền lãnh tổ, nhưng chưa thoát khỏi lối tư duy ý thức hệ của nho giáo, bảo thủ trì trệ, chưa bắt kịp xu thế thời đại, không xây dựng được nội lực đối đầu với phương Tây