Cảnh ngày xuân:
Thời gian thấm thoát trôi mau, tiết trời đã sang tháng ba, những con én vẫn rộn ràng trên bầu trời trong sáng. Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân. Thảm cỏ non trải rộng đến chân trời, trên nền trời xanh non điểm xuyết vài hoa lê trắng. Màu sắc hài hòa tuyệt diệu gợi nét đặc trưng mùa xuân: Mới mẻ tinh khôi, giàu sức sống (cỏ non) khoáng đạt, trong trẻo( xanh tận chân trời); nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm một vài bông hoa) tô điểm làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn.
Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh:
Các hoạt động của lễ tảo mộ: viếng mộ, quét tước, sửa sang phần mộ người thân...) Hội đạp thanh (đi chơi ở chốn đồng quê).
Phân tích giá trị biểu cảm của các danh từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân: gợi tả cảnh đông vui, nhiều người đi trẩy hội; các động từ (sắm sửa, dập dìu) gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt của cảnh ngày xuân; các tính từ gần xa, nô nức) làm rõ tâm trạng vui tươi của người đi trẩy hội. Hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” đã làm nổi bật không khí hội xuân nhộn nhịp, dập dìu nam thanh, nữ tú quấn quýt cùng đi vui hội xuân.
Khắc họa truyền thống lễ hội văn hóa xa xưa trong tiết Thanh minh.
Cảnh chị em du xuân trở về:
Cảnh tan hội lúc chiều tàn không còn nhộn nhịp, rộn ràng mà nhạt dần, sâu lắng dần, cảnh nhuốm màu tâm trạng buồn của nhân vật trữ tình.
Những từ láy (tà tà. thanh thanh, nao nao) biểu đạt sắc thái cảnh vật, bộc lộ tâm trạng con người.
Tất cả những chuyển động trở nên chậm hơn, không còn tưng bừng như ở phần trước. Cảnh vật ấy như diễn tả tâm trạng luyến tiếc một ngày vui sắp tàn của chị em Thúy Kiều. Đây cùng là tài năng của Nguyễn Du khi chuẩn bị để nhân vật Thúy Kiều gặp mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng.
Đoạn thơ có kết cấu hợp lí, ngôn ngữ tạo hình, kết hợp bút pháp tả và bút pháp gợi.
----------------------
chị em thúy kiều
Chân dung Thúy Vân được Nguyễn Du vẽ lên trong bốn câu thơ. Vân xem trang trọng khác vời - câu thơ này đả gợi ra vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thuý Vân. Còn trong ba câu còn lại, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vàn bằng các hình ảnh ước lệ: Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Câu thơ đã miêu tả khuôn mặt của Thúy Vân. Nàng có khuôn mặt tròn như mặt trăng, lông mày rậm, cong như con ngài. Hoa cười, ngọc thốt đoan trang - câu thơ này lại diễn tả sự đoan trang của Thuý Vân, nàng cười tươi như hoa, tiếng nói trong đẹp như ngọc. Và ta càng thấy Thuý Vân đẹp hơn trong câu thơ cuối: Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Tóc Vân đẹp hơn mây, da trắng hơn tuyết. Nguyễn Du đã rất tài tình khi lấy hình ảnh của thiên nhiên như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết để miêu tả cái đẹp của Thuý Vân. Ta tưởng như Thuý Vân có vẻ đẹp được kết hợp từ những cái đẹp, cái cao quý của thiên nhiên. Nhưng Nguyễn Du còn tài tình hơn khi qua những vẻ đẹp ấy, ông bộc lộ được tính cách của Thuý Vân. Nàng là người cao sang mà phúc hậu, lại vô cùng đoan trang và có phần trang nghiêm, đứng đắn. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Thuý Vân được hiện lên cả vẻ đẹp lẫn tính cách.
Và Nguyễn Du còn tài tình hơn nửa khi khắc hoạ được chân dung của Thuý Kiều. Thuý Kiều cũng đẹp nhưng cái đẹp của nàng gây ấn tượng mạnh hơn và khác xa cái đẹp của Thuý Vân: Kiều càng sắc sảo mặn mà. Nét đẹp cùa Kiều là vẻ đẹp đằm thắm mặn mà, sắc sảo, quyến rũ chứ không phải là vẻ đẹp phúc hậu như Thuý Vân. Để tả Kiều, Nguyễn Du đã đi sâu vào tả đôi mắt của Kiều: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn. Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh như nước mùa thu, đôi lông mày cong, thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, vì vậy Nguyễn Du khắc hoạ đôi mắt Kiều chính là cho thấy cái mặn mà, sắc sảo trong tâm hồn Kiều, cái tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân không gây nên sự đố kị thì cái đẹp của Thuý Kiều lại khiến hoa ghen, liễu hờn, cái đẹp ấy làm nghiêng nước nghiêng thành. Qua sự miêu tả của Nguyễn Du, Kiều quả thật rất đẹp, nhưng nàng không chỉ đẹp bên ngoài mà còn đẹp ở cái tài bên trong, cầm, ki, thi, hoạ - những chuẩn mực tài năng lí tưởng của xã hội xưa đều hội tụ ở Kiều. Nàng giỏi làm thơ, thông thạo vẽ tranh, âm vực, nhạc lí và đặc biệt giỏi chơi đàn. Nàng còn có tài sáng tác nhạc. Bản nhạc Bạc mệnh do nàng sáng tác khiến ai nghe cũng buồn não lòng. Bản nhạc này chính là tiếng lòng từ trái tim đa sầu đa cảm của Kiều. Nguyễn Du đã gợi tả cả sắc, tài, tình của Kiều. Nàng Kiều quả là người vẹn toàn cả tài và sắc.
Tất cả những vẻ đẹp đó của Thuý Vân, Thuý Kiều được hiện lên thật sinh động chỉ qua những hình ảnh ước lệ. Hình ảnh ước lệ đã bộc lộ được cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn tính cách của Thuý Vân Nó còn cho thấy vẻ đẹp, cái mặn mà đằm thắm trong tâm hồn, cái tinh anh trong trí tuệ, tài năng của Kiều.
Hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân hiện lên với mỗi người một vẻ. Nếu như Thuý Vân mang vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang, cao sang thì Kiều lại có vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, sắc sảo, mặn mà, vẻ đẹp được kết hợp giữa cả tài lẫn sắc. Dù là hai chị em nhưng vẻ đẹp của Thuý Kiều, Thuý Vân rất khác nhau, báo hiệu số phận cũng khác nhau của hai người.
------------------------
Hai bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích trong cảm nhận của Thúy Kiểu
Bức tranh thứ nhất (4 câu đầu) phản chiếu tâm trạng, suy nghĩ của Thúy Kiều khi bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, cảnh vật hiện ra bao la, hoang vắng, xa lạ và cách biệt:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Mở đầu đoạn trich, Nguyễn Du viết: Trước lần Ngưng Bích khóa xuân. Khóa xuân để chỉ người con gái đẹp bị cấm cung. Kiều ra lầu Ngưng Bích sau khi đã bị Mã Giám Sinh phá đời thiếu nữ, định tự tử mà không chết được. Thực chất là nàng đang bị giam lỏng. Vì vậy, khóa xuân ở đây có ý nghĩa mỉa mai, nói lên cảnh ngộ trớ trẽn, bất bình thường cùa nàng Kiều. Vừa bị lừa vừa bị mắng, vừa tự tử không thành, lại vừa bị giam lỏng. Kiều cảm thấy rất cô đơn, buồn tủi.
Cảnh thiên nhiên quanh lầu Ngưng Bích là cảnh núi xa, cảnh trăng sáng, cồn cát vàng, bụi đỏ bốc lên hàng dặm. Cảnh vật được miêu tả rất rộng lớn, bát ngát, và đã góp phần bộc lộ tâm trạng cô đơn, buồn tủi, ngổn ngang của Thúy Kiều. Nàng cô đơn nên muốn kéo cả vẻ non xa và vầng trăng vời vợi thành tấm trăng gần để ở chung cho bớt cô quạnh. Nàng thấy cảnh vừa bát ngát vừa ngổn ngang cồn nọ, dặm kia như lòng nàng đã ngổn ngang về quá khứ hiện tại và tương lai. Rồi.nàng còn bẽ bàng, buồn tủi vì chỉ có mây làm bạn buổi sáng và ngọn đèn chong làm bạn đêm khuya. Cảnh ngộ nàng, tình cảm của nàng làm tấm lòng nàng như bị cắt ra đau đớn.
Bức tranh thiên nhiên thứ hai (8 câu cuối) phản chiếu tâm trạng của Thúy Kiều trở về với thực tại phũ phàng, nỗi buồn của Thúy Kiều không thể vơi mà cảnh nào cũng buồn, cũng gợi thân phận con người trong cuộc đời vô định:
Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm gợi nỗi cô đơn của kiếp người lưu lạc:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt; cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với những nỗi buồn da diết về gia đình, quê hương. Con thuyền vẫn còn lênh đênh trên mặt biển khi mà những con thuyền khác đều đã cập bến, biết bao giờ mới tìm được bến bờ neo đậu; cũng như Kiều còn lênh đênh giữa dòng đời. biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.
Rồi nàng lại buồn trông về phía ngọn nước mới sa, dõi theo những cánh hoa trôi dạt và tự hỏi về đâu, đến phương trời vô định nào:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Khi nhìn những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trông ngọn nước mới sa thì Kiều càng buồn hơn bởi nàng như nhìn thấy trong đó thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi giữa sóng nước cuộc đời. không biết rồi sẽ trôi dạt đi đâu, sẽ bị dập vùi ra sao. Câu hỏi về đâu mông lung không thể trả lời. Bây giờ Kiều chỉ nghĩ đến tấm thân bèo bọt như cánh hoa trôi trên sóng dữ, mong manh, nhỏ nhoi, đáng thương. Đó chính là hoàn cảnh tội nghiệp của nàng. Nàng không thể tự chủ mặc cho sóng gió đẩy đưa, vùi dập. Tâm trạng cô đơn, bơ vơ lại được đẩv thêm một nấc.
Sau hai câu hỏi tu từ về thuyền ai, về hoa trôi biết là về đâu thì Kiều đã buồn trông về bên phía chân mây mặt đất:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Nội cỏ rầu rầu, xanh xanh - sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất, còn đâu cái xanh tận chăn trời rạo rực như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho nàng một nỗi buồn vô vọng vì cuộc sổng quẩn quanh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ, sắc cỏ rầu rầu ấy, nàng đã một lần nhìn thấy ngày nào trên nấm mồ Đạm Tiên:
Sè sè nấm đất. bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nứa vàng nửa xanh.
Nhưng nhìn xa rồi lại nhìn gần, vừa buồn trông vừa lắng tai nghe, nàng Kiều nghe tiếng gió gào, gió cuốn, tiếng sóng kêu:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn gió cuốn mặt duềnh làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh ầm ầm tiếng sóng ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến bất công. Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rít gào trong lòng nàng. Lúc này, Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh khiến nàng thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
-> Bức tranh với cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền và cánh buồm xa xa trên cửa bề chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ rầu rầu giữa màu xanh xanh, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm,... mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la mờ mịt vừa dữ dội, tất cả như đang bủa vây Thúy Kiều - người con gái lưu lạc với bao đau thương trong nỗi buồn lẻ loi, cô đơn. Cảnh trong đoạn thơ được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn đạt nỗi bưồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.
Nghệ thuật
Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật: diễn biến tâm trạng được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại và tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Lựa chọn từ ngữ, sử dụng các biện pháp tu từ.
Đoạn trích thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.