Truyện kể các loài hoa

L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa hồng Xanh
blue-rose-157051.jpg

Ngày xửa ngày xưa ở vương quốc Hoa hồng có một thằng ngốc tên Stupid.Thằng ngốc may mắn được nhà vua giao cho chăm sóc vườn hoa hồng.Nhà vua có một cô công chúa rất xinh tên Rose.Công chúa rất thích hoa hồng nên yêu cầu thằng ngốc mỗi ngày hãy mang cho mình một bó hoa hồng thật đẹp.Tuy nhiên thằng ngốc không biết bó hoa thế nào cả.Nó xin với công chúa:
-XIN LỖI công chúa nhưng tôi có thể mang đến mỗi ngày chỉ một bông hoa được không .
Ban đầu công chúa không vui một chút nào.Tuy nhiên thằng ngốc đều cố gắng mỗi ngày mang đến cho công chúa một bông hoa đẹp nhất.Thằng ngốc chẳng biết làm việc gì khác ngoài việc chăm sóc những bông hoa.Mỗi khi có ai đó bắt nó đi làm việc gì đó là nó lại nói:
-XIN LỖI nhưng tôi hậu đậu lắm!Tôi sẽ làm hỏng hết mất
Vậy là người ta lại chán nản bỏ đi.Cũng bởi vậy nên không ai chơi với thằng ngốc cả.Thằng ngốc hàng ngày cứ thui thủi bên những bông hoa của nó.Dường như thằng ngốc chẳng bao giờ biết buồn là gì...Những bông hoa mà thằng ngốc mang đến cho công chúa mỗi ngày đều rất đẹp.Đôi khi công chúa ngắm nhìn những bông hoa đó và tự hỏi"Một thằng ngốc thì làm thế nào mà tạo ra những bông hoa đẹp như vậy nhỉ".Rồi một ngày công chúa quyết định đến thăm vườn hoa của thằng ngốc.Thằng ngốc đang lúi cúi tưới cho một khóm hoa hồng.Với công chúa thì công việc này thật lạ.Công chúa tò mò đến gần thằng ngốc và làm nó giật mình.Thằng ngốc làm rơi bình tưới hoa và làm bắn bẩn lên váy áo của công chúa:
-XIN LỖI công chúa_Thằng ngốc hốt hoảng_Tôi thật là hậu đậu
Không sao! Ta sẽ tha tội cho ngươi nhưng ngươi phải chỉ cho ta cách ngươi tạo ra nhũng bông hoa này
Thằng ngốc ngạc nhiên quá"Công chúa mà quan tâm đến cách trồng hoa ư?!"
-Rất đơn giản thưa công chúa...
Và thằng ngốc say sưa nói với công chúa tất cả những gì nó biết về hoa hồng,về cách trồng hoa, cách chăm sóc chúng...Thằng ngốc cảm thấy rất lạ khi công chúa tỏ ra rất thích thú với những gì nó nói.Và khi thằng ngốc bắt gặp ánh mắt công chúa đang chăm chú nhìn nó thì tự nhiên nó trở nên luống cuống.Một lần nữa nó lại đánh rơi bình tưới hoa
-XIN LỖI công chúa... tôi vụng về quá đi mất
-Ngươi thật là ngốc! Nhưng những gì ngươi nói về hoa hồng rất hay .Ngày mai ta sẽ lại tới.

Công chúa trở lại cung điện và thằng ngốc lại say sưa tưới hoa.Tuy nhiên nó vừa tưới hoa vừa hát.Chưa ai nghe thất thằng ngốc hát bao giờ cả...
Ngày hôm sau thằng ngốc dậy rất sớm.Nó quát dọn những lối đi, nhổ cỏ bên những khóm hoa.Nhưng công chúa không đến nữa.Thằng ngốc đợi mãi mà công chúa vẫn không đến.Nó đâu biết hôm đó là một ngày đặc biệt.Nhà vua tổ chức một lễ hội rất lớn trong cung đình.Có rất nhiều các vị vua, những hoàng tử của các nước láng giềng...Công chúa chẳng muốn đến lễ hội một chút nào.Nàng nhất định không chịu mặc bộ váy dạ hộ.Chỉ đến khi viên tổng quản xuất hiện và nhã nhặn:
XIN LỖI công chúa nhưng đây là mệnh lệnh của nhà vua...Công chúa phải có mặt trong lễ hội.
Nhà vua muốn thông qua lễ hội tìm cho con gái mình một vị hoàng tủ thích hợp.Tất cả các hoàng tủ tham gia lễ hội đều được thông báo về điều đó.Ai cũng rất háo hức được gặp công chúa( vì nghe nói công chúa rất xinh ).Và mọi người không phải chờ đợi lâu. Công chúa xuất hiện trong bộ váy dạ hội mầu trắng , vương niệm của nàng được kết bằng những bông hoa hồng đỏ.Một vài hoàng tủ đánh rơi ly rượu trong tay,một số khác phải mất một lúc lâu mới biết mình đang đứng ở đâu.Ngay đến các nhạc công cũng quên mất những nốt nhạc của mình.Ai cũng muốn được cùng nhẩy với công chúa một bài , công chúa đều nhiệt tình đáp lại.Tuy nhiên chẳng ai lọt vào mắt xanh của công chúa cả.Nàng công chúa xinh đẹp chẳng thể tìm được cho mình một vị hoàng tủ thich hợp.Khi mà nhà vua gần như tuyệt vọng thì điều bất ngờ đã sẩy ra.Đúng vào lúc bữa tiệc sắp tàn thì một chàng hoàng tử cưỡi một con bạch mã tuyệt đẹp xuất hiện.Hoàng tử đến trước mặt công chúa và mỉm cười:
XIN LỖI cô bé! Ta không đến quá muộn đấy chứ
Công chúa bỗng cảm thấy tim mình đập rộn ràng.Đó là những cảm xúc kì lạ mà công chúa không thể định nghĩa nổi... Giai điệu ngọt ngào của bản Vanx như hòa nhịp cùng bước nhẩy của hai người.Hoàng tử kể cho công chúa nghe về những miền đất xa lạ mà hoàng tử đã đi qua.Những câu chuyện kéo dài như bất tận .Thời gian dường như không còn là mối quan tâm của hai người nữa...Mãi đến khi những vì sao đã sáng lấp lánh trên bầu trời, khi mà cả thằng ngốc và những bông hoa hồng đều đã ngủ say , hoàng tử mới lên ngựa từ biệt công chúa...

Công chúa trở về cung điện và cho gọi thằng ngốc tới.(Tội nghiệp thằng ngốc đang ngủ say thì bị dựng dậy)
Ngươi có biết làm thế nào đẻ cung điện của ta thật đẹp không !Ngày mai hoàng tử sẽ lại tới.Ta muốn dành cho chàng một sự ngạc nhiên.
-Thưa công chúa...hoàng tử.. à vâng thưa công chúa , tôi sẽ trang trí cung điện của công chúa bằng tất hoa hồng trong vườn.Cung điện của công chúa sẽ trở thành cung điện hoa hồng
-Một ý tưởng tuyệt vời!Ngươi cũng không ngốc lắm đâu! Nhưng ta sợ ngươi sẽ không thể làm xong nó trong đêm nay
-Tôi sẽ cố hết sức thưa công chúa...
Vậy là suốt cả đêm đó những bông hoa hồng còn ướt đẫm sương đêm được thằng ngốc cẩn thận hái từ vừon hoa mang vào cung điện.Khi cung điện của công chúa tràn ngập hoa hồng cũng là lúc trời vừa sáng.
Khi công chúa thức dậy, nàng không thể tin vào mắt mình ,trước mắt nàng là một cung điện đẹp như trong truyện cổ tích vậy.Công chúa đi dạo một vòng và thấy thằng ngốc ngủ gật bên cạnh một chiếc cột đá:
-Stupid.Dậy đi nào.Trời sáng rồi.
XIN LỖI công chúa, tôi lại ngủ quên mất, tôi sẽ hoàn thành nốt công việc ngay thôi.
-Không cần nữa.Như vậy là được rồi.Nguơi hãy về nghỉ ngơi đi
Thằng ngốc thở phào vì công chúa đã không trách nó chưa hoàn thành công việc.Nó vui vẻ trở về với vườn hoa giờ chỉ còn trơ những gốc.Công chúa đến bên cửa sổ và nhìn về phía những ngọn núi xa, nơi mà từ đó hoàng tử sẽ lại tới.Công chúa sẽ dẫn hoàng tử đi thăm cung điện hoa hồng của mình .Hoàng tử sẽ lại kể cho công chúa nghe câu chuyện về những miền đất xa lạ....Nhưng rồi chẳng có hoàng tử nào đến cả.Chỉ có người hầu của Hoàng tử mang theo một bức thư:
-"..Cô bé của ta,Ta không thể đến với em như đã hẹn .Đất nước của ta có chiến tranh.Ta phải tham gia vào cuộc chiến .Có lẽ chúng ta sẽ phải xa nhau một thời gian dài.Ta không muốn thế một chút nào.Ta sẽ rất nhớ em.Nhưng ta tin thời gian sẽ chứng minh cho tình yêu của chúng ta.Ta sẽ sớm gặp lại em...
_______Tornado_____ ......."
Công chúa buồn lắm.Những giọt nước mắt lăn dài trên đôi môi.."Em sẽ đợi! Nhưng nhất định chàng phải trở về đấy !....."


 
L

ly_lovely_16111997

(tiếp)

...Một tuần, rồi một tháng, rồi một năm...Chẳng có tin tức gì của hoàng tử .Hoàng tử như một cơn gió cứ bay mãi, bay mãi mà chẳng biết bao giở sẽ trở lại .Công chúa thường đứng một mình bên khung của sổ mỗi buổi hoàng hôn và nhìn về phía những ngọn núi xa, nơi ánh mặt trời dần tắt.Có thể một ngày nào đó...Cũng hơn một năm đó không thấy thăng ngốc mang hoa hồng cho công chúa mỗi buổi sớm nữa.Có thể là sau khi trang hoàng cho cung điện vuờn hoa của thằng ngốc đã chẳng còn một bông hoa nào cả.Công chúa hình như cũng chẳng quan tâm đến những bông hoa hồng của thằng ngốc nữa...Rồi một buổi sáng sớm khi công chúa thức dậy,có ai đó đã đặt sẵn bên của sổ một bông hoa hồng tuyệt đẹp.Công chúa ngắm nhìn bông hoa và chợt nhớ tới thằng ngốc."Một năm rồi Stupid không mang hoa tới..".Công chúa trở lại vườn hoa của thằng ngốc.Trước mắt công chúa không phải là những gốc cây trơ trụi mà là muôn ngàn những bông hồng rực rỡ.Thằng ngốc vẫn lúi cúi bên những khóm hoa hồng.Thằng ngốc nhìn thấy công chúa và một lần nữa nó lại đánh rơi bình tưới hoa:
XIN LỖI công chúa! Tôi đã cố hết sức nhưng không thể làm cho vườn hoa đẹp như xưa.
-Ồ không! Thật là kỳ diệu! Nói cho ta biết đi, ngươi đã làm thế nào vậy?!
Lần đầu tiên trong đời có người nói với nó như vậy, mà lại là một công chúa nữa chứ.Thằng ngốc vui lắm,nó cười ngây ngô và lại say sưa nói với công chúa về những bông hoa ...Những ngày sau đó ngày nào công chúa cũng đến vườn hoa của thằng ngốc.Công chúa tự mình trồng những bông hoa,tự mình tưới nước cho chúng .Ban đầu thằng ngốc cảm thấy rất lạ nhưng rồi nó cũng hiểu ra rằng công chúa đang cố làm tất cả để nguôi ngoai nỗi nhớ hoàng tử.Thằng ngốc rất vui vì dù sao cũng có người cùng nó trò chuyện, có người chịu nghe nó nói cả ngày về những bông hoa hồng.Thằng ngốc cố làm cho công chúa vui những lúc công chúa ở bên nó.Có một lần thằng ngốc nói với công chúa về ý nghĩa của các loài hoa:
-Hoa hồng bạch la tình yêu chân thành,trong sáng, hồng nhung là tình yêu nồng nàn,thắm thiết,hồng vàng là tình yêu say đắm, trọn vẹn,…
- Vậy còn hồng xanh , nó tượng trưng cho điều gì
-Hồng xanh là tình yêu bất diệt ! thưa công chúa,nhưng nó không có thật
-Vậy tại sao nó lại tượng trưng cho tình yêu bất diệt?!
-Đó là một huyền thoại,thưa công chúa.Người ta nói rằng nếu ta trồng một cây hoa hồng bằng cả trái tim dành cho người mình yêu thương thì nó sẽ nở ra một bông hoa hồng xanh.Đó là bông hoa có phép mầu, nó sẽ cho một điều ước..
-Ta sẽ ước chiến tranh kết thúc và hoàng tử sẽ trở về bên ta...
-Thưa công chúa! Không có điều gì là không thể xẩy ra .Tôi tin nếu công chúa thành tâm biết đâu cây hoa mà công chúa trồng sẽ nở ra một bông hoa hồng xanh
-Ta tin ngươi...

Và từ hôm đó công chúa dành hết thời gian để chăm sóc cho cây hoa hồng của mình.Nhung không hiểu sao cây hoa mà công chúa trồng mãi vẫn không nở một bông hoa nào cả.Có một sự thật mà có lẽ thằng ngốc không bao giờ dám nói.Đó là câu chuyện về hoa hồng xanh chỉ là một lời nói dối.Thằng ngốc không muốn thấy công chúa quá đau buồn nên nó đã nghĩ ra câu chuyện về bông hoa hồng xanh và điều ước...Nhưng rồi thằng ngốc mới thấy đó là một sai lầm rất lớn.Nó sợ cái ngày mà cây hoa của công chúa nở ra một bông hoa bình thường.Công chúa sẽ rất buồn.Thằng ngốc không muốn làm công chúa buồn một chút nào.Nó cố tìm trong vườn hoa bao la của nó một bông hoa hồng xanh nhưng chẳng có bông hồng xanh nào cả....Rồi một đêm thằng ngốc trằn trọc mãi không ngủ được.Bỗng nhiên nó nghe thấy một giọng nói như tiếng thì thầm vậy
-Stupid! Sao ngươi buồn thế?!
-Ai vậy...
Ta là hoa hồng đây
-Hoa hồng ư? Sao ngươi có thể nói được.
-Ngươi ngốc quá, ta luôn nói chuyện với ngươi mà ngươi không để ý đấy thôi, loài hoa nào cũng nói được, chỉ là có bao giờ ngươi lắng nghe không mà thôi.Có chuyện gì mà ngươi buồn vậy.?
-Ta.. Ta đã trót nói dối công chúa về hoa hồng xanh.Ta không nghĩ là công chúa lại đặt nhiều niềm tin vào hoa hồng xanh đến thế
-Stupid.Ngươi đang nghĩ gì vậy.Ta nói cho ngươi biết điều này nhé:Huyền thoại mà ngươi đã nói với công chúa là có thật đấy.
-Sao cơ.Thế nghĩ là hoa hồng xanh là có thật.Ngươi biết làm thế nào để tạo ra hoa hồng xanh phải không.?
-Ta biết..Nhưng ta không thể nói cho ngươi được
-Tại sao chứ.? Ta xin ngươi đấy
-Stupid à.. Ngươi thật là ngốc quá, ngươi làm tất cả là vì cái gì chứ
-Ta..Ta muốn công chúa có bông hoa hồng xanh .Ta muốn ước mơ của công chúa trở thành sự thực.Ta không muốn thấy công chúa buồn..
-Ôi Stupid.Ta không muốn nói cho ngươi một chút nào, nhưng thôi được rồi, nếu ngươi thực sự muốn có một bông hoa hồng xanh, ta sẽ chỉ cho ngươi cách
...
Và hoa hồng ghé tai thằng ngốc thì thầm điều gì đó mà chỉ có thằng ngốc nghe rõ.Khuôn mặt thằng ngốc bỗng ngẩn ngơ đến khó hiểu.Rồi người ta thấy thằng ngốc ngước nhìn bầu trời đầy sao và mỉm cười....

Sáng sớm hôm sau khi công chúa vừa thức dậy thì người hầu của nàng đã chạy vào:
-Thưa công chúa, thật không thể tin được, người hãy ra mà xem, cây hoa mà công chúa trồng đã nở một bông hoa mầu xanh
Công chúa như không tin vào những gì mình nghe thấy.Nàng chạy ngay ra vườn hoa .Trước mắt nàng là một bông hoa hồng xanh tuyệt đẹp.Những cánh hoa lấp lánh những giọt sương sớm long lanh dưới ánh sáng mặt trời.Công chúa cầm bông hoa đặt lên trái tim .Nàng còn chưa kịp nói điều ước thì người hầu của nàng đã vào báo:
-Thưa công chúa.!Hoàng tử đã thắng trận trở về
Có lẽ hoa hồng xanh đã biết truớc điều ước của nàng nên không cần công chúa phải nói ra .Công chúa băng qua quảng trường rộng mênh mông để đến bên cổng thành.Quả nhiên từ phía ngọn núi xa hoàng tử đã trở về, chiếc áo bào sạm đen vì khói bụi.Hoàng tử xuống ngựa ngay khi chàng trông thấy công chúa,quên đi cả những mệt mỏi bao tháng ngày qua,vòng tay ôm chặt công chúa như không bao giờ muốn buông ra vậy
-Cô bé của ta! Ta nhớ nàng quá
Em gần như đã tuyệt vọng, chàng biết không .Nhưng điều kỳ diệu đã xẩy ra.Chàng hãy nhìn xem, một bông hoa hồng xanh .Chính nó đã mang chàng về với em
-Hoa hồng xanh! Ta tưởng làm gì có hoa hồng xanh trên thế gian này!
-Có chứ.Đó là một huyền thoại.Em sẽ dẫn chàng đến vườn hoa.Stupid sẽ kể cho cho chàng nghe huyền thoại về hoa hồng xanh
Vậy là hoàng tử và công chúa cùng đến vườn hoa của thằng ngốc
-Stupid! Ngươi đâu rồi.Ra đây đi nào, hoàng tử muốn nghe câu chuyện về hoa hồng xanh của ngươi
Stupid đã biến đi đâu mất .Công chúa gọi mãi,gọi mãi mà không thấy thằng ngốc đâu cả.Bên gốc hoa mà công chúa trồng chiếc bình tưới hoa được dựng ngay ngắn.Chẳng hiểu thằng ngốc đã biến đi đâu mất.Chỉ còn cơn gió thổi những bông hoa hồng đung đưa như đang hát một bài hát từ rất xa xưa"Tình yêu chân thành bắt đầu từ trái tim,Chỉ có máu từ con tim của một kẻ đang yêu mới tạo ra bông hồng xanh bất diệt.Và hồng xanh sẽ tạo nên điều kỳ diệu..."
 
L

ly_lovely_16111997

Hoa hồng Vàng

14589_1261637534.jpg


Truyền thuyết kể rằng: Ngày xưa , khi thần Zeus – chúa tể thần linh, trong 1 chuyến rong chơi đã phải lòng 1 thiếu nữ trần gian và hạ sinh 1 cô con gái, đặt tên là Elisa. Thần Zeus lấy làm vui mừng phán rằng :

- Bởi vì con là con của thủ lĩnh tối cao trên đỉnh Olympia, nên con sẽ được thụ hưởng tất cả tinh hoa của trời đất, không 1 kẻ phàm tục nào có thể sánh được với con…Ta ban cho con quyền lực của sắc đẹp, sự thông minh tuyệt đỉnh, hết thảy mọi người phải cúi đầu trước gót chân con.

Elisa theo năm tháng lớn lên và những lời cầu chúc của cha nàng mau chóng trở thành hiện thực. Mỗi buổi sáng, đích thân Thần Mặt Trời gom tụ những tia sáng đẹp nhất, lóng lánh nhất hun đúc thành vô số viên ngọc điểm xuyết lên xiêm y của Elisa. Buổi trưa, các nàng mây kết thành chiếc võng êm ái cho nàng ngả lưng giữa vườn mộng. Và buổi tối, Thần Đêm tự tay gom sao trên trời cho Elisa ném xuống hồ làm thú tiêu khiển….Nàng được nuông chiều rất mực bởi hết thảy đều kinh sợ quyền lực của cha nàng..

Một buổi sớm mùa xuân, thần Eros - vị thần của tình yêu – ghé thăm Elisa để tặng nàng những viên ngọc kết tinh từ tình yêu do chàng đạt được. Elisa tha thiết nài nỉ Eros dạy nàng bắn cung. Vì không thể khước từ, chàng đã cho Elisa mượn chiếc cung với những mũi tên tình ái. Elisa đã dùng chiếc cung ấy để tập bắn. Chẳng may nàng trượt tay và 1 mũi tên bay đến , cắm thẳng vào tim Eros. Trong 1 phút, Eros như bị hóa đá, chàng cảm thấy ngây ngất vì Elisa, dường như Elisa đã là 1 phần không thể thiếu trong suốt quãng đời còn lại. Và chàng biết: Mình đã phải lòng nàng mất rồi!

Kể từ hôm đó, Eros mang bệnh tương tư. Chàng chẳng còn thiết đến những yến tiệc hay dạ hội, cũng chẳng chú tâm đế nhiệm vụ được giao, suốt ngày chỉ mê mẩn vén mây ngắm nhìn Elisa cho thoả nỗi nhớ nhung. Chiếc cung bị vứt lăn lóc, những mũi tên bị rỉ sét, tình yêu không còn đến với con người…

Chuyện tới tai thần Zeus. Ngài lấy làm thương hại cho Eros và quyết định kết hợp hai người với nhau. Đám cưới đã diễn ra linh đình suốt 30 ngày đêm. Những món cao lương mỹ vị được dọn khắp nơi, những suối rượu tuôn chảy không ngừng. Người ta ca hát, người ta nhảy múa, ngưòi ta chúc mừng một đôi trai tài gái sắc..

Eros cưới được Elisa lấy làm hạnh phúc nhất trần đời. Chàng nuông chiều Elisa rất mực, nhất nhất đều tuân theo ý muốn của nàng. Eros xây nên 1 lâu đài nguy nga diễm lệ bằng thủy tinh, hồng ngọc và đá quý cho Elisa cư ngụ. Chàng dặn dò:

- Elisa xinh đẹp của ta ơi! Ta yêu nàng hơn cả bản thân mình và giá nào ta cũng không để mất nàng. Hãy ngoan ngoãn ở trong lâu đài và chớ đi xa, ta không muốn người nào khác ngoài ta được thưởng thức sắc đẹp của nàng. Tình yêu của ta dành cho nàng là duy nhất, mãnh liệt hơn thác và đậm đà hơn mật ong. Nàng chớ khiến ta buồn lòng

--------------------------------------------------------------------------------
Elisa vì tình yêu với Eros đã ngoan ngoãn nghe theo lời chàng dặn dò, họ đã có những ngày tháng thật hạnh phúc. Và rồi Eros lại rong ruổi ra đi với nhiệm vụ của thần tình ái. Chàng đi quanh năm suốt tháng để kết nối những tâm hồn nam nữ yêu nhau, chàng bỏ mặc Elisa ở một mình trong cung điện lạnh giá…

Tai họa bắt đầu xảy ra khi thần Ganh Ghét xuất hiện. Mụ ta vừa trở về sau khi gieo rắc sự ganh ghét ở vương quốc Hòa Bình. Được tin Eros kết hôn với Elisa, mụ ta đã lồng lộn vì ghen tức. Eros phải là của mụ chứ không phải của Elisa. Với ý nghĩ đen tối đó, mụ đã tức tốc lên đường đi tìm Eros. Chờ đến khi chàng mệt mỏi thiếp ngủ, mụ lén nhổ mũi tên ra khỏi trái tim chàng và thổi vào đó 1 hơi “quên lãng”. Eros tỉnh dậy, thoắt chốc không còn nhớ gì đến chuyện cũ. Chàng lại mải miết ra đi và không ghé về thăm người vợ trẻ nữa…

Phần Elisa chờ đợi mòn mỏi nhưng chẳng thấy chồng đâu. Mỗi ngày nàng càng thêm phiền não và lâm bệnh nặng. Không có ai ở bên cạnh nàng ngoài mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú. Elisa đã nhờ gió đem lời nhắn gửi đầy nhớ nhung đến Eros. Nhưng gió trở về và báo cho nàng 1 tin buồn rằng Eros đã không còn yêu nàng nữa. Chàng đang vui vẻ tranh tài cùng thần Ganh Ghét và chẳng còn nhớ Elisa là ai
Điều này khiến Elisa tội nghiệp hoàn toàn gục ngã. Nàng khóc đến kiệt sức ngất đi. Khi tỉnh dậy, Elisa van xin thần Mặt Trời:

- Mặt trời! Hãy thiêu đốt ta bằng sức nóng của người, ta thà chết đi như thế còn hơn đau đớn vì sự phản bội của chồng ta. Không có chàng, ta sống trên đời này còn ý nghĩa chi???
Mặt trời không nỡ nhìn Elisa đau khổ đã kéo mây đen che mặt khiến đất trời u ám, tăm tối.
Bệnh của Elisa mỗi ngày 1 trở nên trầm trọng và rồi nàng qua đời. Giây phút ấy chim muông ngừng ca hát, hoa héo rũ và chẳng còn tỏa hương thơm. Thần Zeus đau đớn cùng cực. Người tự trách mình rằng:

- Elisa con ơi! Ta đã cầu chúc cho con sắc đẹp và sự thông minh nhưng ta lại không ban cho con sự can trường vượt qua sóng gió. Lỗi tại ta! Chính ta đã hại con rồi….
Thần Zeus vì quá yêu con nên không nỡ nhìn thân xác nàng tan biến thành tro bụi. Vì thế ngài đã phán:

- Ta sẽ cho con hóa thân thành hoa hồng vì chỉ có hoa hồng mới sánh được với sự cao quý của con và chỉ có gai của hoa hồng mới bảo vệ con khỏi những tổn thương. Màu sắc của con sẽ không phải là đỏ tươi thắm thiết, không phải hồng phấn dịu dàng mà là màu vàng mãnh liệt cháy lòng. Để cho kẻ phản bội con mỗi khi nhìn thấy hoa hồng vàng là day dứt hối hận và những chiếc gai của con sẽ khiến cho hắn phải đau đớn như con đã từng đau đớn vì hắn…..”

Hoa hồng vàng xuất hiện từ khi đó…
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa Tuyết

3514878264_83cf9de354.jpg


Khi bà Chúa Tuyết sinh hạ được một cô con gái, bà phải suy nghĩ rất lâu rồi mới quyết định đặt tên con gái là Xnhedinca.

Xnhedinca trắng trẻo, mái tóc cùng trắng, nằm trên chiếc giường trắng, phía dưới là những tấm vải đệm bằng mây trắng. Khi Xnhedinca vừa đến tuổi trưởng thành đã có mấy chàng trai đến cầu hôn. Người đến trước nhất là Mặt Trăng, nhưng Xnhedinca không ưng vì chẳng có cái trán hói nhẵn thín, đêm đêm không chịu ngủ mà cứ lang thang trên bầu trời, còn ban ngày thì lại giấu mặt sau những đám mây. Người thứ hai đến xin cầu hôn là Tia Nắng, nhưng chàng cũng bị Xnhedinca từ chối.

Chúa Ông giận lắm. Một hôm ông nghiêm khắc nói với con gái:

- Nếu con không tự kiếm được chồng thì cha mẹ đặt đâu, con phải ngồi đấy.

Chúa Ông nhắn tin cho Gió, kẻ thống lĩnh cả bầu trời xanh có đến bốn người con trai chưa đứa nào thành gia thất. Gió bè đáp chiếc xe trang hoàng lộng lẫy do những con tuấn mã phi cực nhanh tới ra mắt Chúa Ông. Xnhedinca được gả bán cho đứa con trai cả của Gió - đó là chàng Gió Bắc. Chúa bà lấy làm hạnh phúc chuẩn bị của hồi môn cho con gái, nào là chăn lông chim, gối bông tuyết mềm, những tấm vải trải giường bằng mây trắng, rồi hàng chuỗi hạt cườm vòng cổ bằng tuyết lấp lánh.

Khi khách mời đến đông đủ, Xnhedinca hiện ra như một nàng công chúa. Bà con họ hàng rất hài lòng được đến dự ngày vui, ai cũng khen hai bạn trẻ thật xứng đôi, phải lứa. Chỉ riêng Xnhedinca là không hài lòng chút nào. Chả là đương lúc yến tiệc, chàng Gió Bắc bỗng hét toáng lên: "Nóng quá! Nóng quá!" khi chàng khẽ chạm vào cặp môi lạnh toát của mình vào cặp môi của nàng.

- Con không thể yêu chàng được - Xnhedinca thở dài nói. Nàng nói nhỏ đến mức ngoài mẹ nàng ra chẳng ai có thể nghe được tiếng nàng.

"Không lẽ con gái yêu cảu ta lại là đứa bất hạnh". Trái tim người mẹ bỗng run lên trước một sự tiên đoán đáng sợ.

Đúng lúc yến tiệc đang rôm rả thì chàng rể lên tiếng bảo em trai Gió Nam chơi một bản nhạc nhảy. Gió Nam đang ngồi ở mép một đám mây bèn rút trong vạt áo ra một ống sáo và bắt đầu thổi. Giai điệu nhẹ nhàng lan toả, cnốn hút Xnhedinca vào cuộc nhảy. Nàng lả lướt, quay người, đập đập gót giày vào nhau phát ra tiếng kêu lanh canh, trong lúc đó, chàng Gió Đông, người em chồng tinh nghịch cứ vỗ tay cười. Chỉ có chàng Gió Tây là mỗi lúc một thêm thất vọng, đau khổ rồi gục đầu vào vai cha thổn thức. Gió Cha kinh ngạc hỏi:

- Con trai của ta, ngày vui thế này, có sao con lại để rơi luỵ?

Chàng Gió Tây nức nở:

- Vì sao cha lại dạm hỏi nàng Xnhedinca cho anh lớn mà không phải là cho con? Vì sao nàng lại không thể là vợ của con?

Lúc này chàng Gió Nam mới ngước cặp mắt bồ câu của mình nhình Xnhedinca và chàng đã bắt gặp cái ánh nhìn lên của nàng. Tiếng sáo nghe càng du dương hơn khi nó vang lên chỉ để dành cho một mình Xnhedinca thôi, còn Xnhedinca thì nhảy cũng chỉ để cho chàng Gió Nam. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chàng Gió Bắc ác độc và đầy ghen tuông kia bắt được? Bà Chúa Tuyết vô cùng đau khổ.

- Con gái yêu ơi, hãy biết kiềm chế trái tim mình! - Bà Chúa khẽ van nài khi Xnhedinca quay tròn gần chỗ bà.

Nhưng một trái tim đang thổn thức vì tình yêu thì kiềm chế làm sao được? Chả lẽ Xnhedinca lại có thể làm được cái điều mà ngay cả những kẻ ngu ngốc lẫn những đấng anh minh đều chịu bó tay sao?

Có thể vì mải nói chuyện với Chúa Ông nên Gió Bắc không hay biết gì, nếu như Gió Tây không khích bác chàng bằng một tiếng cười ác độc:

- Xnhedinca của anh sắp nở hoa nhờ những cái nhìn cháy bỏng của thằng út nhà ta đấy.

Nghe nói vậy, Gió Bắc đấm mạnh xuống bàn, hét lên vì tức giận, mắng Gió Nam:

- Hãy cất ngay ống sao đi, nếu không ta sẽ đập vỡ đấy!

Tiếng sao chỉ còn lí nhí như tiếng chim rồi câm bặt. Xnhedinca lúng túng liếc nhìn cặp mắt bồ câu của Gió Nam như muốn dò hỏi: phải chăng đó chỉ là tình yêu thoáng chốc của chàng. Nàng nhớ lại cái giây phút Gió Bắc đứng phắt dậy và gầm lên:

- Xnhedinca, em đừng quên rằng em là của anh, còn mi, thằng em kia, đừng quên rằng này không hề là của mi! Và bây giờ, Xnhedinca, em hãy nhảy để anh đệm sáo!

Gió Bắc cho các ngón tay vào mồm và huýt the thé khiến mọi người ai nấy có cảm giác bị kiến bò sau lưng.

- Nhảy đi! Nhảy đi! - chàng hét Xnhedinca.

Còn nàng thì đang đắm đuối trước đôi tay giơ ra chào mời của chàng Gió Nam. Nàng toan quay đi song đôi chân nàng bị băng cứng lại rồi, và chúng đã cưỡng lại ý nàng.

- Hãy nhảy đi! Nàng hãy nhảy vì ta! - Gió bắc hét to đến nỗi làm chuyển cả những cột nhà bằng

tuyết, nhưng Xnhedinca vẫn không hề động lòng.

- A ha! - Gió Bắc cuồng lên, chàng rút cái roi ở thắt lưng ra đoạn vung lên. - Này, chú em Gió Nam của ta, giờ thì ta không còn thương tiếc mảnh vườn táo khu vườn hồng nhà mi nữa nghe. Nội đêm nay ta sẽ tàn phá hết những khu vườn đó bằng chính hơi thở của ta; sáng mai, mi sẽ được bước lên những cành khô khốc và chỉ biết rơi những giọt lệ cay đắng mà thôi.

Tình yêu đã mách bảo Xnhedinca cách cứu lấy mạng sống của người tình. Khi Gió Bắc chưa kịp gom không khí vào lồng ngực thì Xnhedinca đã thấy gương mặt của Gió Nam đen xạm đi; nàng lập tức tháo tung những chăn gối lông chim của mình ra, và thế là chỉ trong nháy mắt, những khu vườn của Gió Nam đã được phủ một lớp thảm như tuyết trắng. Những bông hồng và những trái táo không còn biết sợ hơi thở của gió lạnh nữa.

Gió Bắc thất vọng, tính chuyện trả thù Xnhedinca. Chàng dùng roi quất nàng túi bụi, song nàng đã khôn khéo tránh được. Gió Bắc bèn ném roi đi và lao về phía Xnhedinca.

- Thế là đám cưới đã tàn! - chàng Gió Bắc gầm lên - Ta sẽ đưa nàng về nhà và giấu nàng vào căn hầm tối tăm nhất. Hãy để cho chuột, bọ gặm nhấm thân xác nàng, hỡi người vợ bướng bỉnh của ta.

Đến đây, tìn yêu lại mách bảo Gió Nam cách cứu lấy trái tim, mà đối với nàng là quý giá hơn tất cả mọi thứ trên đời. Cắp nàng vào ngực, Gió Nam biết giấu Xnhedinca đi đâu bây giờ? Chàng đành phải đặt nàng dưới gốc cây hoa hồng và dặn nàng hãy chờ đợi chàng quay lại sau khi chàng chiến thắng người anh trong trận đấu cực kỳ khó khăn này.

- Trước hết hãy hôn em đa, hỡi người tình duy nhất của đời em, em sẽ chờ đợi chàng, cho dù suốt cả cuộc đời.

Gió Nam ôm hôn Xnhedinca một cách êm ái và hôn thật lâu cho đến khi người nàng tan ra trong vòng tay ôm của chàng, cho đến khi nàng chỉ còn là những giọt sương rơi xuống đất và tan biến đi.

- Nàng ở đâu? Nàng trốn đâu rồi? - Gió bắc lao vào người em trai - Ta vừa trông thấy mi ôm hôn nàng như thế nào kia mà.

- Ôi anh trai của em, hà cớ gì ta cứ thù hằn nhau mãi, - Gió Nam buồn rầu đáp - Bây giờ nàng nằm ở kia kìa, như thể giọt sương, như giọt nước mắt đã tan biến vào đất.

- Ta không tin nàng và cả mi nữa - Gió Bắc nói, nghiến răng trèo trẹo - Để nàng không bao giờ còn đứng dậy được, ta sẽ dùng băng giá đè nàng xuống.

Gió Nam lúc nào cũng cứ quẩn quanh bên khu vườn hồng và vườn táo của mình. Cứ vào quãng cuối Đông hoặc đầu Xuân, Xnhedinca lại thấy có chàng ở bên cạnh, nàng dùng hơi thở sưởi ấm lớp băng bề mặt rồi ngước lên nhìn sâu vào cặp mắt bồ câu của người tình.

Và người đời cứ mỗi khi nhìn thấy một bông hoa trắng nhỏ xíu không hiểu sao lại mừng rơn và kể cho nhau nghe như kể về một sự kiện gì trọng đại lắm:

- Thấy không, trong vườn, Hoa Tuyết đã nở!
 
L

ly_lovely_16111997

< Tiếp>

7720401249898103.jpg


Người ta vẫn thường hỏi nhau rằng hoa tuyết là gì ? Tại sao lại có sự tồn tại của loài hoa này ? Vậy ta có thể lí giải được hay không ?Có lẽ là không ?

Vào mùa đông trong khi vạn vật cây cối đều héo khô ,trơ trọi ,trên nền đất chỉ còn lại một màu màu trắng của tuyết ,tuyết ở khắp nơi nếu có thêm được cái gì đó có lẽ chỉ là vài cành cây khô còn sót lại trên mắt đất,vậy mà loài hoa nhỏ bé kia vẫn có thể sinh tồn và phát triển tươi tốt như thế thì đúng là một điều kì diệu.

Còn có một câu chuyện về loài hoa này nữa mà ProK rất thích! Phải chăng câu chuyện là lí do giải thích tại sao hoa tuyết lại không chịu khuất phục trước thiên nhiên,vẫn kiên cường vươn lên không chịu thua trước số phận!! : )

" Ở một làng quê nghèo kia,có một đôi vợ chồng quanh năm phải làm việc vất vả để kiếm miếng ăn .Ước mơ nhỏ nhoi của họ là có một đứa con để sống cùng họ .Nhưng hết ngày này qua ngày khác năm này qua năm khác họ vẫn không có một đứa con nào .Quá thất vọng người chồng đâm ra bệnh nặng ,ông ngày một yếu hơn ,đến trước lúc ông chết hy vọng cuối cùng của ông vẫn là mong nghe tiếng con mình gọi một tiếng cha .

Sau khi ông mất,người vợ mới biết rằng mình đã có thai,đứa con mà hai vợ chồng ao ước bấy lâu nay cuối cùng cũng đã xuất hiện .Bà mang thai đứa bé suốt chín tháng ròng cuối cùng bà cũng hạ sinh được một cô bé hết sức sinh đẹp .Sau khi lớn lên cô bé hết sức hiếu thảo với bà ,lúc nào cũng yêu thương chăm sóc bà hết mực, với cô bé bây giờ chỉ còn mỗi mình mẹ mà thui cô phải có hiếu với mẹ phải chăm sóc cho mẹ .

Một thời gian sau do bà đã quá lớn tuổi rồi mà còn phải làm việc vất và để kiếm cái ăn nên bà cũng mắc một căn bệnh rất lạ ,cô bé đã phải làm thêm ở rất nhều nơi để kiếm tiền chữa bệnh cho mẹ nhưng uống biết bao nhiêu thuốc tìm biết bao nhiêu thầy thuốc rồi mẹ của cô vẫn không khỏi bệnh. Cô bé buồn lắm cô không muốn mất đi mẹ vì trên đời này cô chỉ còn mỗi mình mẹ thôi.

Trong lúc cô đang buồn bã nhất không biết phải làm sao để chữa bệnh cho mẹ thì bỗng cô nghe văng vẳng bên tai mình một giọng nói: "con hãy lên ngọn núi cao nhất tìm về một loài hoa trắng, nhất đẹp, nhất thuần khiết nhất mang về đây thì mới mong chữa được bệnh cho mẹ con". Tuy cô không biết đó là hoa gì và có lẽ cô chưa từng biết gì về loài hoa này cô đã hỏi rất nhiều người trong làng nhưng cũng không ai biết gì về loại hoa đó.Thế rồi cô vẫn lên đường đi với hy vọng nhỏ bé là mong sớm tìm được thuốc chữa bệnh cho mẹ.

Cô đã đi qua rất nhiều con đường ,băng qua rất nhiều khu rừng và vượt qua biết bao là đồi núi cô vẫn không thể nào tìm thấy được loại hoa mà mình cần tìm. Và rồi mùa đông đã đến, mang theo cái giá lạnh đến thấu xương, nhưng khi mùa đông đến rồi thì làm sao còn có loài hoa nào có thể sống được dưới thời tiết này biết là vậy nhưng cô bé vẫn cứ đi tìm. Một cô bé trên người chỉ có một bộ quần áo đi giữa trời đông với ước mơ là sẽ tìm được thuốc để chữa bệnh cho mẹ vậy mà ước mơ của cô vẫn không sao thực hiện được. Tuy nhiên dù biết là không thể nhưng cô vẫn cố gắng đi tìm, cô đi mãi đi mãi và rồi cô đã ngã gục trên nền tuyết trắng xóa của con đường.

Cô bé chết đi nhưng niềm ước mơ và khát vọng được sống ước mong sẽ tìm được thuốc để chữa bệnh cho mẹ của cô vẫn không bao giờ nguôi. Từ nơi mà cô bé ngã xuống đã mọc lên một loài hoa. Bông hoa trong suốt như thủy tinh, trắng và thuần khiếp như ánh nắng ban mai và nó chỉ mọc vào một mùa duy nhất, đó chính là mùa đông mùa của giá lạnh. Nghe nói rằng có một người tình cờ đi ngang qua và hái bông hoa đó về cho mẹ của cô bé, mẹ cô uống và cuối cùng cũng khỏi bệnh nhưng không còn ai hay biết được rằng cô bé đang ở đâu hay làm gì ở ngoài đó nữa, mọi người chờ mãi, chờ mãi mà vẫn không thấy cô bé quay trở về.

Hoa tuyết đó là kết tinh của tình thương, lòng nhân hậu, sự hiếu thảo của một người con dành cho mẹ của mình. Hoa tuyết trong sáng và thuần khiết vì cô bé chỉ nghỉ và lo cho mẹ chứ không hề nghĩ đến bản thân mình. Hoa tuyết chỉ mọc duy nhất trong mùa đông vì cô bé biết rằng vẫn còn rất nhiều người cần cô giúp đỡ ,và ý chí kiên cường quyết không chịu thua nghịch cảnh, hoa tuyết vẫn vươn lên vẫn sống khỏe mạnh và làm được những việc có ích cho đời

Nếu như mùa đông, khi bạn đang bước đi trên đường tình cờ trông thấy một bông hoa nhỏ xíu trắng tinh và hết sức xinh đẹp ,thì loài hoa mà bạn nhìn thấy đó chính là hoa tuyết. Bạn đừng hái nó đi ,vì nó sẽ không tồn tại được wá lâu nếu rời xa nền tuyết trắng ,bạn hãy để hoa tuyết mọc thẳng vươn lên mang lại niềm vui , hạnh phúc và giúp ích cho đời bạn nhé."

Câu truyện về hoa tuyết có lẽ là một câu chuyện buồn nhưng ta hãy sống thật tốt thật vui vẻ và thật kiên cường giống như bông hoa tuyết kia dám đối mặt với khó khăn để vươn lên tìm kiếm một niềm hy vọng mới cho niềm tin, khát vọng về cuộc sống
 
Last edited by a moderator:
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa cải vàng

1231303145.img.jpg


Ngày xưa, xưa, xưa, tại vùng đồi núi nọ, có một cụ già chỉ bán dao kéo mà nổi tiếng khắp gần xa. Không ai biết ông cụ ở đâu. Cũng không biết ông đi mua dao kéo hay làm ra dao kéo để bán. Vùng này lâu lâu mới họp chợ. Nhưng không phải phiên chợ nào ông cũng đến. Mà thường chỉ có mặt vào những phiên chợ cuối tháng. Vì vậy, mỗi lần thấy ông, mọi người lại xô đến mua dao kéo. Người trong vùng ai cũng biết là dao kéo ông cụ bán vừa sắc, vừa bền. Ngoài ra, người ta đồn ông còn bán cả những con dao, cái kéo kỳ lạ nữa. Lần ấy có một gã dáng vẻ ngông nghênh đến hỏi mua một con dao lớn. ông cụ nhìn mặt gã rồi hỏi rất nhẹ nhàng:

-Anh mua con dao này để làm gì?

-Để chặt cây.

Ông già nhìn kỹ vào đôi mắt gã kia và biết là gã nói dối. ông liền bảo:

-Con dao này đã có người mua!

Gã kia trợn mắt quát to:

-Có người mua, sao không nói ngay, lại còn hỏi ta mua để làm gì?

Gã định giở trò cướp không con dao. Nhưng ông cụ đã nhanh tay cầm trước con dao và nói:

-Đây là một con dao quý. Tôi có thể dùng nó chém đổ cái cây bên kia đường.

Ông cụ nói xong, dùng dao chém nghe vù một cái. Lập tức cái cây bên kia đường kêu rắc rắc một tiếng và đổ gục xuống. Gã kia sợ quá. Gã hiểu rằng nếu gã định giở trò gì thì ngay lập tức, có thể bị ông cụ dùng con dao ấy, chém gãy tay, thậm chí đứt đầu mà con dao không cần chạm đến người. Gã ta chuồn thẳng. Hỏi ra mới biết đó là một tay trộm cướp nhiều người đã biết mặt. Một lúc sau, một người trai trẻ khác đến hỏi mua con dao nọ. ông cụ nhìn anh, hỏi nhẹ nhàng:

-Anh mua con dao này để làm gì?

-Thưa cụ! Để cùng dân làng cháu đánh đuổi bọn cướp ở nước bên kia, cứ thỉnh thoảng kéo sang cướp của, giết người...

Ông cụ nhìn kỹ vào đôi mắt chàng trai và biết đây là một người tốt. ông bán ngay con dao nọ cho chàng trai với cái giá không đắt như mọi người tưởng. ông còn bày cho anh cách tập dùng dao để có thể chém giết những tên giặc cướp từ xa. Sau đấy khá lâu, có một chú bé chừng mười bốn tuổi, mười lăm tuổi tìm đến gặp ông cụ ở chợ phiên. Chú mừng lắm. Nhưng chú chỉ đứng nhìn ông trân trân... ông cụ liền hỏi:

-Cháu muốn gì cứ nói cho ta biết!

-Thưa cụ, không biết có cái kéo nào...

Chú bé ngập ngừng. ông cụ lại khuyến khích chú:

-Cháu cần thứ kéo gì?

Thấy vẻ mặt ông vẫn hiền lành, vui vẻ, chú bé mới dám nói thêm:

-Thưa cụ, cái thứ kéo có thể cắt được... nắng ấy mà!

Mọi người đứng xung quanh đấy cười ồ lên... trừ ông cụ. ông cụ ôn tồn hỏi chú bé:

-Cháu cần cắt nắng để làm gì?

-Thưa cụ, bà cháu già yếu quá. Mùa đông vừa mới đến mà ban đêm, đắp chiếu nằm trên ổ lá, bà cháu kêu là rét quá cứ như nằm trên nước... Bà cháu ốm liền hai trận. Bà cháu ước có cái kéo, cắt được một vạt nắng mang về cất giữ, đêm đến mang ra cho bà cháu đắp, chắc bà cháu sẽ được ấm, sẽ khỏi bị ốm và chết vì rét ạ!

-Nhà cháu ở gần đây chứ?

-Thưa cụ xa lắm ạ. Cháu phải đi mất hai ngày đường.

-Bố mẹ cháu đâu?

-Thưa cụ, bố mẹ cháu mất sớm cả rồi. Bà cháu đã vất vả nuôi cháu từ bao năm nay.

-Bà bao nhiêu tuổi rồi, còn làm gì được không?

-Thưa cụ, sang năm là bà cháu đúng bảy mươi tuổi đấy ạ! Bà cháu vẫn nhúc nhắc dệt cho nhà người ta mỗi ngày được một ít vải để kiếm gạo ăn.

-Còn cháu?

-Cháu đi chăn lợn cho nhà hàng xóm, và cũng bắt đầu đi xin học dệt ạ.

Ông cụ nhìn chú một cách trìu mến rồi bảo:

-Cháu ạ! Đây là lần đầu tiên ta nghe có người hỏi mua kéo để cắt nắng... Cũng hay, hay lắm. Nhưng ta chưa có để bán cho cháu ngay được... Phiên sau, ta sẽ mang kéo đến đây. Liệu cháu có thể đến được lần nữa không?

-Thưa cụ, một lần chứ hai lần, ba lần, cháu vẫn xin đến.

Vào ngày phiên chợ sau chú bé lại đến ngóng đợi ông cụ. Mọi người biết chuyện cũng kéo đến xem. ông cụ đến chào mọi người rồi đưa cho chú bé một cái túi xếp bằng bẹ chuối khô. Chú bé mở ra thấy một cái kéo, chỗ cầm cắt thì bằng sắt nhưng lưỡi lại bằng cật tre, và kèm theo một mảnh giấy có chép mấy câu thơ. ông cụ bảo chú bé:

-Cháu cứ làm đúng theo mấy câu này thì sẽ cắt được nắng cho bà cháu đắp. Ta biết cháu nghèo lắm nên tặng cho cháu cái kéo này. Thôi, cháu về đi. Ta cũng phải đi ngay vì có hẹn với khách hàng ở nơi khác.

Nói xong, ông xách bị dao kéo đi luôn. Mọi người xúm lại bảo chú bé đọc mấy câu thơ, chú liền đọc:

Kéo cắt một lần
Biến mất liền tay
Nắng chảy thành sợi
Cắt ngay! Cắt ngay!
Cái chăn toàn nắng
ấm đêm ấm ngày
Chăn truyền hơi ấm
Nhà ấy, nhà này,
Nắng chui xuống đất
Trở về, lung lay...

Mang cái kéo và mấy câu thơ về làng, chú bé kể lại hết mọi chuyện cho bà nghe. Cả hai bà cháu nghĩ mãi mà vẫn chưa hiểu mấy câu thơ nói gì. Một buổi trưa, đang ngồi bần thần nhìn mấy tia nắng từ mái nhà tranh dột nát rọi xuống nền nhà, chú bé bỗng reo lên:

-Đúng là nắng chảy thành sợi kia rồi!

Chú bé liền chạy đi lấy cái sàng gạo, rồi leo lên mái nhà. Chú bới chỗ mái tranh bị dột nát cho rộng ra rồi đặt cái sàng vào đó. Mặt trời rọi xuống, cái sàng có bao nhiêu lỗ thì có bấy nhiêu tia nắng rọi xuống, nhìn cứ vàng óng. Chú bé liền đem cái kéo của ông cụ cho thử cắt những sợi nắng xem có cắt được không. Lạ lùng chưa, những sợi nắng theo nhau rơi xuống cứ óng ánh, lấp lánh. Chú bé liền cắt tiếp. Những sợi nắng chồng lên nhau cao dần. Chú lại cắt nữa, cắt nữa. Bây giờ thì những sợi nắng đã vun lên thành một đống khá cao. Bỗng chú bé "ồ" lên một tiếng. Cái kéo tự nó đã biến mất ở ngay trong tay chú bé lúc nào không hay. Chú bé liền chạy ra vườn sau mừng rỡ gọi bà về. Thấy cả một núi sợi nắng nằm sáng rực ở giữa nền nhà, bà cụ mừng quá cứ tưởng mình đang nằm mê.

-Bà ơi! Cháu và bà hãy dệt những sợi nắng này thành một tấm chăn thật dày. Bà không còn phải lo bị rét, bị ốm nữa!

Hai bà cháu dệt xong tấm chăn thì người trong xóm kéo đến chật cả nhà. Ai cũng sờ tấm chăn và ai cũng khen là ấm quá. Chú bé sực nhớ hai câu thơ: "Chăn truyền hơi ấm. Nhà ấy, nhà này" Chú liền bảo mấy người hàng xóm mang chăn của họ đến nhà chú. Chú trải từng cái chăn của họ rồi đắp cái chăn vàng óng của bà mình lên trên. Chỉ một lúc sau, cả hai cái chăn đều ấm như nhau. Người xóm gần xóm xa thấy thế mừng quá liền rủ nhau mang chăn đến để xin cái hơi nắng ấm. Nhớ ơn ông cụ đã cho mình cái kéo có phép lạ, chú bé liền đi tìm ông để tạ ơn. Nhưng một lần, rồi hai lần, đi chợ phiên chú bé không làm sao gặp lại được ông cụ. Chú bé đành buồn rầu ra về. Nhờ có cái chăn ấm, tuổi thọ của bà cụ được kéo dài ra. Chú bé đã thành một chàng trai, dệt giỏi có tiếng. Chàng trai lấy vợ rồi có con. Bà cụ vui lắm. Nhưng rồi cũng đến lúc bà phải từ giã cõi đời. Trước khi nhắm mắt, bà dặn các cháu chắt:

-Các cháu đã thương bà hết lòng. Bà con ai cũng yêu quý các cháu. Bà chết mà lòng rất nhẹ nhàng.

Nhớ đến cái chăn quý, bà cụ lại dặn:

-Bà về với đất, đất ấm chứ chẳng lạnh đâu. Các cháu cứ giữ cái chăn quý lại mà dùng.

Ngày chôn cất bà cụ, trời bỗng trở rét đậm. Hai vợ chồng người cháu bàn nhau mang cái chăn quý ra đắp lên trên mộ cho bà được ấm. Trời xẩm tối. Bó hương cắm ở đầu nấm mồ đỏ rực. Cái chăn phủ lên nấm mồ cũng sáng bừng lên.

Hai vợ chồng người cháu ngồi bên nấm mồ một lúc lâu rồi trở về nhà. Nửa đêm thức dậy, nhìn ra nấm mồ của người bà, chôn ngay trên cái gò ở trước mặt nhà, hai vợ chồng người cháu bỗng thấy có khói bốc nhiều trên nấm mồ. Hai vợ chồng chạy ra thì thấy tàn lửa của bó hương bay đáp xuống làm cái chăn cứ cháy âm ỉ, lửa không bốc thành ngọn. Cái chăn đã thành tàn tro đen. Sáng hôm sau, ra thăm lại mộ thì những tàn tro đen của cái chăn đã bị gió thổi bay tản mạn khắp trên gò. Mùa đông năm sau đến. Cái gò trước kia, vào mùa giá rét, thường vẫn trở lạnh, vắng vẻ, năm nay bỗng mọc đầy một loài cây mới lá xanh một màu xanh thật hiền lành, lặng lẽ. Khi những cây ấy trổ hoa thì cả khu gò vàng rực lên như được phủ đầy nắng. Gió bấc thổi, cả khu gò đầy hoa vàng lại lung lay. Mãi đến lúc này, người cháu mới sực nhớ đến hai câu cuối trong bài thơ: Nắng chui xuống đất Trở về, lung lay Như thế có nghĩa là loài cây mới, có hoa vàng như nắng này là từ những tàn tro của cái chăn dệt bằng những sợi nắng, vùi xuống đất, sinh ra.

Qua hết mùa hoa, những cây kia kết quả. Những quả nhỏ và dài trong đựng đầy những hạt nhỏ li ti, màu nâu đen, nhìn giống như những tàn tro của chiếc chăn quý. Mang những hạt ấy về vườn gieo vãi, bà con trong xóm lại thấy mọc lên loài cây mới mà ngày nay ta gọi là cây Cải Hoa Vàng. Bà con thường gieo cải trên những mảnh vườn lớn, nhỏ, khi cải nở hoa, từng mảnh vườn lớn, nhỏ ấy cứ vàng rực như từng mảng nắng lớn, có gió thổi cứ khẽ đong đưa, đong đưa... và từng bông hoa như muốn nói một điều gì với ai đang nhìn nó.
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa Cẩm chướng

cam-chuong-do-8102008.jpg


Cẩm chướng, đóa hoa hồng như những viên bông gòn, không hương, nhưng lại rất đẹp. Cái đẹp thầm lặng. Cẩm chướng rất quan trọng trong cuộc sống của người Hy lạp và Ý. Vào thời phồn thịnh của Ý(Romans era) cẩm chướng trở thành biểu tượng của sự hùng mạnh của dân tộc nàỵ Cẩm chướng cũng được gọi là hoa của Jove, vì Jove là một trong những thần được quý chuộng nhất.

Sự tích cẩm chướng thật khó biết, nhưng một trong những điển tích của nó xuất phát từ thánh kinh. Sách vở kể lại trong thánh kinh, khi Đức Mẹ Đồng Trinh Mary nhìn thấy chúa Jesus bị đóng đinh, bà bật khóc. Từng giọt nước mắt của bà rơi xuống chân Chúa, thấm vào lòng đất và từ đó mọc lên những cành cẩm chướng đủ màu lộng lẫỵ.....

Cẩm chướng còn được dùng trong việc tiên đóan tương lai của người con gái vị thành niên ở Đại Hàn. Khi người con gái ở vào tuổi vị thành niên, ba đóa hoa cẩm chướng được cài lên búi tóc của cô gái theo thứ tự. Nếu đóa hoa nào tàn trước, chẳng hạn như đóa dưới cùng, cô bé sẽ phải chịu khổ cực cả cuộc đờị Còn nếu đóa trên cùng, thì những ngày cuối cuộc đời, cô bé phải chịu nhiều đau khổ. Khoảng đầu đời của cô bé sẽ rất khốn khó, nếu như đóa chính giữa tàn nhanh hơn hai đóa hoa kiạ....

Trong chuyện cổ tích của nước chúng tạ..Sự tích hoa cẩm chướng ít được người nhắc đến, có lẽ vì cẩm chướng không phải là hoa địa phương vì nó không xuất phát từ Việt Nam? Dù gì chăng nữa, hoa cẩm chướng cũng đã để lại một huyền thoại trong lòng những đứa trẻ thơ, trong những đêm trăng sáng quân quần nghe mẹ kể chuyện.....

Cẩm chướng cũng xuất phát từ một chuyện tình. Câu chuyện tình của một cô công chúa tóc dài sống lẻ loi trong cung điện trên vùng thượng nguồn. Trời cao nguyên lành lạnh đủ làm tăng màu đen óng ả của mái tóc, làm căng làn da mặt trắng hồng mịn màng như bông, làm màu đỏ của đôi môi người con gái như mọng hơn lên trong màn sương xám, và nhất là làm đôi mắt ướt cuả nàng như sáng long lanh trong những giọt sương. Cẩm Chướng đẹp nổi tiếng khắp nơi, nhưng đồng thời nàng bao giờ cũng mang một vẻ buồn. Sở dĩ nàng phải chịu cảnh sống lẻ loi giữa vùng hẻo lánh này chỉ vì lời tiên đoán của một lão ông với vua cha, khi nàng vừa chào đời, rằng nàng sẽ phải chịu nhiều bất hạnh. Vua cha vì sợ, và thương con, nên đành đem nàng đi cất giấu nơi đèo heo khuất gió để tránh khỏi hung tà. Thế nhưng tiếng đồn xa gần về sắc đẹp của Cẩm Chướng cũng lan nhanh, nhất là những buổi chiều khi giọng hát của nàng lan rộng khắp núi đồi, hoà vào hợp âm của những chú chim non hót véo von xung quanh, và những cơn gió reo bên ngoài. Bao nhiêu người đánh tiếng hỏi vợ, nhưng vua cha một mực từ chối, thâm tâm vẫn để ý kiếm tìm một phò mã xứng danh.
Một ngày kia, Cẩm Chướng lâm bạo bệnh. Thầy thuốc hết sức chữa nhưng đành cúi đầu chịu thua. Bỗng đâu vị lão phu ngày nọ đòi diện kiến nhà vua, và phán rằng bệnh của nàng chỉ có thể chữa được bằng cánh lá của một loài hoa trắng, mọc cheo leo trên đỉnh núi, giữa hai vực thẳm và một ngọn thác. Vua phải tìm cho bằng được cánh hoa đó để cứu con, nên truyền lệnh hễ ai kiếm được đóa hoa đó, sẽ lấy được nàng, và sẽ được truyền ngôi cho. Bao nhiêu chàng trai đua nhau vào rừng tìm kiếm, nhưng đều thất vọng, trong khi đó sức khoẻ của Cẩm Chướng tắt dần.
Trong lúc mọi người thất vọng, một hôm, người tiều phu trẻ, dáng nghèo nàn, xuống ngựa đem dâng vua cha bông hoa màu trắng. Từng cánh hoa phục hồi sức khỏe của nàng. Đôi mắt từ từ mở ra, lần đầu tiên để người ân nhân nhìn thấy bóng hình của hai đóa hoa thấp thoáng trong ánh mắt đó.
Lễ cưới được cử hành chưa được bao lâu, thì tai biến xảy đến cho đất nưóc. Tuân lệnh vua cha, chàng phò mã trẻ cầm quân, tạm chia tay với vợ, ra xa trường dẹp giặc ngoại xâm. Họ hẹn nhau ngày đoàn tụ, và chiều chiều nhờ gió hát gửi theo hướng đến người kia, như một lời trò chuyện. Những lá thư viết trên những cánh chim làm tin, đều đặn bay đi về.
Một hôm nàng bặt tin chồng, tiếng hát của nàng dường như loãng vào oảng không, chỉ còn tiếng vọng lại từ gió núi. Cẩm Chướng chờ mãi tin chồng, nhưng những cánh chim bay đi, rồi lại trở về không. Đoán điềm chẳng lành đã xảy ra, chiều chiều nàng ra nơi thác núi, tiếp tục chờ tin. Cho đến một buổi chiều, chim bay về đem tin chẳng lành. Bật khóc, và tuyệt vọng, Cẩm Chướng tung mình theo giòng thác, mất tích giữa giòng nước ồ ạt.
Từ chỗ chân nàng đứng, theo những giọt nước mắt rơi xuống, người ta về sau tìm thấy một loài hoa mới, với dáng dấp y hệt như đóa hoa trắng của anh tiều phu trẻ cứu người, chỉ khác màu đỏ thắm. Đóa hoa nở cạnh giòng thác, êm đềm, và dịu dàng, nhưng vẫn kiêu sa và vững vàng giữa trời gió cao nguyên và khí trời khắc nghiệt của cao nguyên.
Lạ hơn nữa, trong những ngày u uất nhất, người lữ khách vô tình soi bóng trên giòng nước, sẽ thấy bóng phản chiếu của những đóa hoa mang màu mắt long lanh, và bóng hình y hệt đôi mắt nàng công chúa. Từ đó hoa mang tên Cẩm Chướng, để tưởng nhớ hoài đến nàng công chúa chung thuỷ chờ chồng.

Sự tích hoa cẩm chướng có lẽ mang cùng một xuất phát, vì trong tiếng pháp, hoa cẩm chướng cũng mang cùng một cái tên "Oeillet"(đôi mắt). Huyền thoại Pháp cũng đã kể về một chuyện tình tương tự. Có thể đó cũng chỉ cùng một xuất xứ, một truyền thuyết? : )
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa Cỏ may​

attachment.php


Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nọ có đôi trai gái yêu nhau rất thắm thiết. Nàng xinh đẹp, là con gái của một gia đình giàu có, một tiểu thư khuê các, còn chàng chỉ là anh đốn củi nghèo, mồ côi sống trong túp lều tranh xơ xác.
Có không ít những người môn đăng hộ đối muốn cùng nàng “kết tóc xe tơ”, nhưng nàng chẳng cảm mến ai, vì trọn con tim đã gửi cho chàng trai chăm chỉ, thật thà, tốt bụng.

Mối tình của họ không được chấp thuận, bố mẹ nàng đuổi chàng ra khỏi làng. Vì quá yêu nhau, họ bàn bạc đi đến một nơi thật xa, nơi không ai biết để cùng làm ăn sinh sống. Chàng sẽ cày cuốc thuê, nàng ở nhà trồng rau, dệt vải. Họ chấp nhận cơ cực để được sống bên nhau trọn đời.

Nhưng cuộc sống cơ cực đã biến nàng từ một tiểu thư khuê các thành người đàn bà lam lũ. Nhìn người vợ trẻ rất mực yêu quý phải vất vả đầu tắt mặt tối, chàng không an lòng.

Hàng đêm chàng tự dày vò, trách cứ bản thân đã không đem lại được cuộc sống đầy đủ cho vợ. Nỗi day dứt khiến chàng quyết chí ra đi làm giàu. Chàng để chút vốn liếng ít ỏi còn lại đỡ đần người vợ trẻ rồi ra đi, hẹn một năm sau trở về với cuộc sống đầy đủ, khá giả hơn.

Người con gái ở nhà dệt đan, trồng rau, nuôi trong mình niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt chàng sẽ trở về. Một năm, hai năm, rồi ba năm…thời gian cứ đằng đẵng trôi đi, nàng vẫn không nhận được tin tức của chồng. Nỗi nhớ nhung cùng niềm mong mỏi làm nàng ngày càng trở nên xơ xác, héo hon. Tình yêu, niềm tin vào người chồng thật thà, tốt bụng khiến nàng quyết định đi tìm chàng với ước mong về một ngày mai đoàn tụ.

Nàng ra đi, đi đến đâu cũng hỏi về tung tích người chồng yêu quý. Biển người mênh mông bao nhiêu, đất trời rộng lớn bao nhiêu cũng không làm người con gái ấy nản lòng. Tình yêu vẫn luôn thường trực và bùng cháy trong sâu thẳm trái tim, một trái tim khát khao kiếm tìm hạnh phúc.

Thế nhưng tình yêu, niềm tin và hy vọng của nàng cuối cùng chỉ đổi lại bằng những cái lắc đầu, xua tay. Nàng cứ đi, đi mãi, cho đến một ngày mệt quá xỉu lúc nào không hay. Nàng nằm xuống, trong lòng vẫn đau đáu nỗi niềm chờ mong, hy vọng.

Cảm kích trước tình yêu son sắt thủy chung của người vợ trẻ, sau khi nàng chết, Ngọc Hoàng đã hóa phép biến nàng thành một loài hoa cỏ, loài hoa cỏ màu tím bàng bạc, có sức sống mãnh liệt giống như tình yêu thủy chung của nàng.

Chị gió tốt bụng cảm động trước tấm chân tình của người con gái đã đem loài hoa cỏ ấy đi khắp mọi nơi trên các nẻo đường gần xa.

Dù cho người con gái ấy không còn nữa, nhưng tình yêu của nàng thì bất diệt cùng tháng năm, để rồi mỗi lần có khách đi đường ngang qua, nàng vẫn cố gắng níu bám vạt áo họ để hỏi thăm tin tức về chồng.

Hoa cỏ may sắc nhọn, nhức nhối một nỗi niềm đau của tình yêu trong xa cách.
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa trinh nữ

honguoi2.jpg


Thuở ấy, nhà nọ từng có hai kiếp đàn bà, cả hai kiếp đến lượt mình, đều chôn chân thờ chồng đi lính.
Hai người đàn ông lần lượt ra đi, nhưng người về thì chỉ một. Người chiến binh dũng cảm ấy về làng trong tiếng tiền hô hậu ủng, xênh xang trong mũ áo vua ban và làm vẻ vang cho dòng họ. Nhưng khi đón chồng, người đàn bà thứ hai khóc thầm: “Cân đai, mũ áo, bổng lộc vua ban… tất cả đều đẹp nhưng mái đầu ta và ông ấy tự lúc nào đã ngả sang màu sương!…”
Vậy nên, kiếp đàn bà thứ ba vừa lọt lòng và nhoe nhoe khóc, thì cả bà, cả bố và mẹ cô bé chắp tay: “Lạy Phật! Lại thêm một cái tội nữa. Nhưng lần này, chúng ta sẽ không gả nó cho bất kỳ một người lính nào đâu nhé. Hai đời, chúng ta đã đợi chờ đến bạc tóc, thế còn chưa đủ sao?”.
Cô bé lớn lên mơn mởn như nụ hồng. Từ nhỏ đến lớn cả nhà không cho cô được nói chuyện với bất cứ một người lính nào để cô giữ lời nguyền thuở trước.
Một buổi sáng, xa xa vẳng tới tiếng trống ngũ liên. Cô gái bước ra vườn, đến bên bờ giậu đẫm sương. Chàng trai nhà bên đang gấp gáp khăn gói lên đường. Vốn là đôi trẻ vẫn cũng nhau chơi trò “đố lá”, họ cùng nhìn nhau rồi cùng cúi mặt, lớp lông măng ngăm ngăm trên mép chàng trai khẽ rung. Tiếng trống thúc dồn. Chàng trai đánh bạo:
- Thế… có chờ… không?
- Sao không hỏi xem bông tầm xuân có nở trước khi mặt trời lên không? - Cô gái cắn môi, nước mắt lăn tròn trên má.
Và thế là mặt chàng trai đỏ đến tận chân tóc. Lâng lâng như vừa được chắp cánh, chàng bấm bụng: “Ta có thể ra đi, dù “da ngựa bọc thây”.
Cô gái trở vào, mắt ngấn nước và thẫn thờ như người ốm, trong tiếng trống ngũ liên xa xa thúc dồn. Vậy là cả nhà biết. Họ trách lẫn nhau, rồi hai người đàn bà ôm nhau khóc. Bà cô gái thắp ba nén hương khấn người chồng quá cố: “Ông ơi! Có lẽ cháu ông đúng, bởi tôi nghiệm rằng, nếu bây giờ ông sống dậy, lại ra trận, thì tôi vẫn chờ ông. Ôi! Cái kiếp đàn bà!…”. Mẹ cô gái nức nở: “Chỉ tại mẹ thôi, chính mẹ đã truyền cho con dòng máu “đợi chờ”! Con làm sao khác được!”. Ông bố cố gạt đi: “Thì cũng phải có một đứa con gái nào đó chờ thằng bé ấy chứ, cũng như ngày xưa, trong căn nhà này bà chờ tôi vậy! Bây giờ, chỉ còn biết mong sao thằng bé ấy trở về!”.
Nhưng thằng bé không sớm trở về. Chàng tân binh hăng hái giết giặc trong vài trận rồi ngôi sao chiếu mệnh mỉm cười với chàng ta, đấng quân vương vốn giỏi chọn người, vừa nhìn thấy chàng trai đã nhận ra ngay rằng đây là một tên lính hầu trung thành vô hạn. Thế là, ngài cho rút chàng trai về, ngày đêm cận kề bên ngài, một bước cũng không được rời xa. Khi còn giặc giã, vua cần chàng đưa vồng ngực vạm vỡ ra che làn đạn giặc, còn khi hết giặc, vua càng cần chàng hơn, để giữ gìn quyền uy tối hậu. Chàng là lưỡi kiếm “trừng phạt” tuyệt hảo, sẵn sàng giáng xuống đầu bất kỳ ai, theo lệnh đấng quân vương.
Đã mười bảy năm rồi, cô gái chờ người lính ấy. Từ một thiếu nữ như nụ hoa chớm hé, nàng đã trở thành một cô gái quá lứa nhỡ thì. Bà nàng, rồi cha mẹ nàng theo nhau lần lượt trở về cõi Phật. Trước khi nhắm mắt, họ đều gọi con gái đến bên giường dặn dò: “Mai ngày nếu sinh con gái…”. Cô gái lặng lẽ khóc khi bà và bố mẹ mất, lặng lẽ khóc khi người yêu của chúng bạn trở về hay tử trận và cuối cùng, lặng lẽ để tang người yêu năm xưa, vì đã mười mấy năm rồi, chàng biệt vô âm tín.
Thế rồi một buổi chiều có tiếng vó ngựa ghé sát bên thềm.
Bước xuống từ yên ngựa là một người đàn ông phong trần và nhìn mọi vật từ trên xuống qua ánh mắt lạnh lẽo như thép. Ngang lưng anh ta thắt chiếc đai vàng vua ban. Đó là phần thưởng sau khi anh ta lập được công đâm vào lưng người bạn cũ. Người bạn này đã cả gan ngăn vua khi ngài hạ lệnh chém một danh tướng. Ông này chỉ vì mắt kém mà trót dâng vua một quả táo bị sâu ăn. Sau bữa tiệc ngập máu ấy, vua đã cất nhắc anh ta và cho phép anh ta về thăm nhà sau mười mấy năm xa cách. Mười mấy năm qua, người lính đó vẫn không quên người yêu xưa. Giữa cuộc đời bụi bậm, giữa triều đình đầy mưu kế sâu độc, cô trinh nữ nhà lành cắn môi cố nuốt giọt nước mắt chia ly vẫn không mờ nhạt mà thật lạ kỳ, lại càng như vầng trăng xa thẳm gọi anh về.
Người con gái lỡ thì bước tới vài bước rồi sững lại. Nàng hoang mang tự hỏi, không biết đó có phải là chàng trai hàng xóm năm xưa rụt rè mãi mới dám hỏi: “Thế… có chờ… không?”. Nhưng khi người đàn ông ấy gọi tên nàng bằng giọng nói thân thuộc, nàng khóc, tiếng khóc nghe như ngàn mảnh thủy tinh rơi, vì nàng phải chờ đợi quá lâu, và người nàng chờ nay đã biến thành người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép.
Làng xóm đua nhau chúc mừng nàng. Các ông làm nghề “gõ đầu trẻ” đem mối tình chung thủy của hai người rao giảng trong các lớp học. Thế là từ đấy có thêm nhiều cậu bé chỉ mơ về chiến trận. Mơ về một mai mình được hầu cận đấng quân vương. Còn những cô bé thì chỉ ao ước sao mai này lớn, được chờ người yêu đến khi lỡ thì!
Không chậm trễ gì, người ta làm lễ cưới cho đôi tình nhân chung thủy. Vua ban áo tím cho nàng trinh nữ lỡ thì và đám cưới trọng thể hết chỗ nói. Hoàng hôn xuống, cạnh chén rượu bên mâm cỗ, quan khách tròn xoe mắt nghe chú rể kể chuyện. Mười mấy năm hầu cận vua, anh ta đã quen tính kín miệng. Và chỉ bốc lên khi rượu đã ngà ngà. Nhưng anh không biết nói chuyện gì khác, ngoài chuyện chém giết. Anh kể về những bữa tiệc đầy sơn hào hải vị ngập máu trong thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới tay kiếm của anh. Cuối cùng, vì sao vua đã ban cho anh ta chiếc đai vàng.
Người trinh nữ nghe chuyện của chồng mới cưới và nàng đứng không vững nữa. Lảo đảo, nàng lùi dần về buồng. Nép mình trên giường trong bóng tối, nàng như ngửi thấy mùi tanh lợm của máu, và trên mặt nàng như có làn môi lạnh toát của những oan hồn lướt qua. Nàng vùng dậy, run lật bật, vội vàng châm lửa lên tất cả các ngọn đèn dầu lạc mà nàng tìm được trong buồng. Ánh đèn chập chờn đỏ quạch càng làm nàng thêm sợ hãi.
Vừa lúc đó, có tiếng kẹt cửa. Thân hình to lớn của người chồng mới cưới chếnh choáng tiến vào. Theo thói quen, anh ta vẫn mang theo thanh kiếm. Nàng nhìn lên, và thấy anh không vào một mình. Theo liền sau anh là một người đàn bà trong veo, tóc xoã - chỉ có bộ tóc là còn màu sắc - mặc quần áo đại tang, đang cầm một tấm áo đẫm máu giơ lên và cất giọng đều đều một cách kỳ lạ, lặp đi lặp lại như không bao giờ dứt:
-Hãy trả chồng cho ta! Kẻ giết bạn kia, trước khi mi bước vào giường cưới! Hãy trả cha cho năm đứa con thơ dại của ta! Hãy trả…
Vậy mà chồng nàng không nghe thấy gì cả, anh dựng thanh kiếm vào vách, rồi xáp tới đặt tay lên ngực nàng. Ngay lúc đó, nàng nhìn thấy máu từ tấm áo trong tay người đàn bà xoã tóc rỏ xuống hai bàn tay người chồng mới cưới. Nàng ôm mặt rú lên kinh hãi:
- Ôi kìa, máu! Máu nhiều quá! Máu đỏ cả hai bàn tay!
Chồng nàng giật mình nhìn lại. Anh vẫn không thấy gì cả, ngoài những vết sẹo ngang dọc nơi bàn tay mình. Anh dỗ dành:
- Ồ! Can đảm lên, cô em ủy mị! Chẳng qua là vì em quá hồi hộp đó thôi! Đã bao ngày ta chờ phút giây này. Nào, hãy vui lên.
Anh nói vậy, nhưng miệng không cười và mắt vẫn lạnh như thép, cũng như từ ngày về đến giờ, chưa một ai nhìn thấy anh cười. Người trinh nữ bỏ hai bàn tay che mặt. Nàng không nhìn thấy người đàn bà tóc xoã nữa, nhưng trên khuôn mặt đang gần xuống mặt nàng, nàng chỉ thấy khóe miệng mím chặt và cái nhìn lạnh lẽo như cái nhìn của Thần Chết. Lại sợ hãi cuống quít, nàng van vỉ:
-Hãy mỉm cười đi anh! Em van đấy! Hãy cười lên để em thấy anh của ngày xưa. Bao năm chờ đợi, em đâu muốn anh buồn…
Người chồng cố hết sức để mỉm cười. Đã lâu lắm rồi anh không làm cử chỉ đó nên bây giờ anh không biết bắt đầu một nụ cười như thế nào. Khó nhọc lắm, anh mới nhớ ra rằng, khi cười người ta phải để lộ ít nhất là một hàm răng. Anh nhếch môi, để lộ hẳn hai hàm răng chắc khỏe.
Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn phải cười đã, cho nên cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói. Ngay lập tức, vợ anh co rúm lại và quay mặt vào trong, thổn thức cố kìm tiếng khóc.
Người chồng buồn bã soi trong tấm gương cười, ngắm kỹ mình, rồi tuyệt vọng:
- Thôi, thế là hết, cả một đời chờ đợi! Em chối từ ta, em ghê tởm ta ư?
Anh rũ xuống thành giường, rồi gầm lên như một con thú bị thương:
- Tại sao em chờ ta cả đời, để rồi chối từ ta? Tại sao em bắt ta phải cười! Còn đâu nữa chàng trai với lớp lông măng trên mép ngày xưa! Ta đã trở thành “người đàn ông không cười” của triều đình, từ khi bàn tay này nhúng vào máu bạn bè, bên những bàn tiệc đầy sơn hào hải vị. Đấng quân vương sai ta giết hết những kẻ bất tuân thượng mệnh bằng các chiếc đũa. Trong mọi chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc đều có một lưỡi dao tinh tế giấu ở trong…
Anh nức nở, đôi vai rung lên dữ dội:
- Ôi! Bạn ta! Người bạn đã cùng ta tựa vào lưng nhau tìm hơi ấm chống đỡ cơn gió lạnh chiến hào. Thôi, thế là hết và đây là đêm tân hôn vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng quân vương.
Tiếng nức nở dữ dội của người chồng mới cưới rung chuyển cả căn phòng. Rồi xách kiếm trên tay, anh bỏ đi biệt xứ. Có người nói rằng anh đã đến tìm vua, định bắt vua phải đền tội đã biến anh thành người đàn ông không biết cười. Nhưng vua đã kịp giết chết anh trước, bằng chính một trong những chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc. Cũng có người bảo rằng anh lại lao vào những cuộc chém giết mới không ghê tay cho quên ngày tháng.
Chỉ còn lại nơi quê nhà người trinh nữ lỡ thì. Nàng sống âm thầm như cái bóng, mà không một lần nghĩ đến chuyện tự giải thoát bằng cái chết. Nhưng cái tật hễ có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt thì nàng không sao bỏ được.
Một hôm, người xã trưởng được mời đến để làm giấy chứng tử cho nàng. Nàng chết mà hai tay che mặt, người khâm liệm nắn thế nào cũng không bỏ ra.
Vài ngày sau, trên mộ nàng rùm roà mọc một loài cây thấp lòa xòa mang hình tròn tim tím buồn man mác. Mỗi khi có chân bước qua hay va chạm mạnh, những chiếc lá lăn tăn lại giật mình khép lại, xuôi xuống như bàn tay ai che mặt.
Những loài hoa cỏ mọc đầy chung quanh lấy làm lạ lùng lắm về chuyện đó. Một hôm, chúng chặn chàng Gió lại:
- Này, anh Gió! Ở đây, không có ai già như anh và trẻ như anh. Vậy anh hãy nói cho chúng tôi biết vì sao loài cây mới đến kia, tầm thường đến vậy, lòa xòa bên vệ cỏ, khách bộ hành dễ dàng giẫm lên, có gì đặc biệt đâu mà phải gìn giữ, hơi một tí lại lấy tay che mặt, điệu đà làm vậy?
Từng trải như chàng Gió mà cũng không trả lời được. Thế là một đêm thanh tĩnh, dịu dàng, muôn hoa cỏ đang mơ màng trong giấc ngủ êm đềm, chàng Gió lướt tới bên loài cây tầm thường ấy, khẽ hỏi:
- Này cô em bé bỏng! Sao em hay che mặt thế? Ở đây có ai chọc ghẹo em sao? Em hay e thẹn lắm à? Nếu không, tại sao người ta lại gọi em là cây trinh nữ?
Đắn đo một chút, rồi loài cây ấy nhẹ nhàng đáp:
- Không phải thế đâu, mặc dù chết đi, em vẫn là trinh nữ. Em che mặt vì sợ. Ngày nay người ta càng tranh giành nhau dữ hơn, những bàn tiệc ngập máu vẫn còn nhiều. Vậy nên, mỗi va chạm, mỗi bước chân tạt qua đều làm em giật thót mình. Em sợ người ta sẽ gửi đến cho em đôi bàn tay đầy máu và khuôn mặt người yêu xưa chẳng biết cười.
Cây trinh nữ chợt co mình lại vì vừa nghe tiếng chân qua. Đó là bước chân sóng đôi của một đôi trai gái đang đi trong sương mù. Trước khi cẩn thận khép những mắt lá lại, cây trinh nữ cầu khẩn: “Ôi! Lạy Phật! Cầu cho đây không phải là bước chân của những người phải tiễn nhau về nơi ấy…”.
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa ngô đồng

090622090647-333-918.jpg
090622090647-807-819.jpg


Ngày xưa, xưa lắm có một người đánh đàn rất hay. Khi ông đàn, người ham nói chuyện đến mấy cũng phải dừng lại để nghe. Người ít nói, nghe xong cũng phải ghé vào tai người ngồi cạnh thì thầm vài tiếng gì đó để tỏ lòng ngưỡng mộ.
Đặc biệt cây đàn của ông cũng có một hình dáng khác thường. Mặt đàn không tròn như cây đàn nguyệt mà lại uốn lượn thành năm cánh. Ông không chỉ chơi đàn. Ông còn nghĩ ra các điệu đàn: đủ các điệu vui buồn, hờn, giận, trách móc, an ủi, van lơn, của đủ các loại người ở trên đời. Ông không bao giờ đặt lời cho các điệu đàn kia. Ông nói: Tiếng đàn đã nói đủ! Không nên làm những chuyện thừa! Mặt ông lúc nào cũng đượm một vẻ buồn sâu kín. Ông uống ít thôi nhưng lúc nào cũng mang theo bên mình một bầu rượu nhỏ.

Ít ai biết chuyện về đời riêng của ông. Người ta chỉ biết đôi nét chính mà cũng không dám chắc là đúng: Nghe nói bố ông xưa cũng là người chơi đàn nổi tiếng một thời, nhưng vì bị bệnh nên mất sớm. Mẹ ông nuôi ông đến tuổi lên mười thì cũng nhắm mắt lìa con. Ông đến ở với người bác ruột, cũng được học đàn, lớn lên cũng đã lấy vợ. Nhưng cô vợ chỉ thích có nhiều tiền, trong lúc ông chỉ thích đàn. Hai vợ chồng sống với nhau được vài năm. Không chịu được tính nết của vợ, ông buồn bực, bỏ nhà ra đi. Cô vợ ở nhà vin vào cớ ông đã bỏ mình, đi lấy ngay một lão nhà giàu khá nhiều tuổi. ông mang cây đàn đi khắp đó đây. Ai có con cần học đàn, ông ở lại dạy. Sau đó lại đi. Không nơi nào ông ở lâu. Mặc dù có nhiều nhà cứ nài nỉ ông ở thêm, càng lâu càng tốt. Ông không nói ra nhưng trong thâm tâm, ông mơ ước hai điều: Gặp được đứa học trò có tài để ông truyền nghề, và gặp được người phụ nữ nào hiểu ông và ông có thể yêu được. Ông đã đi suốt mấy chục năm nay mà cả hai điều mơ ước của ông vẫn cứ còn là mơ ước. Đôi lúc ông nghĩ rằng cho đến chết có lẽ ông sẽ không bao giờ đạt được một trong hai điều mơ ước nói trên.

* * *

Lần ấy, đi đến bên một con sông có một khúc lượn rất đẹp, ông bỗng gặp trên chuyến đò ngang một người đàn ông vẻ mặt thật phúc hậu. Thấy ông đeo cây đàn sau lưng, người ấy liền đến ngồi bên và hỏi chuyện. Người ấy mừng rỡ kêu lên khi được biết tên ông.

-Thật may mắn! Mấy năm nay tôi vẫn thường mong được gặp ông...

-Thưa, để làm gì?

-Tôi có con cháu bé rất thích đàn mà chưa tìm được thầy, rất mong ông vui lòng nhận lời dạy cho cháu. Nhà người ấy ở ngay bên bờ sông. Nhà có vườn cây ăn quả, có trồng hoa quí và lạ. ông thầy dạy đàn cảm thấy dễ chịu khi ngồi trong nhà nhìn ra vườn. Khúc lượn của con sông ở đây càng ngắm kỹ càng thấy đẹp. Những cây sung và những lùm tre ở bờ bên kia xanh biếc, um tùm soi bóng xuống dòng sông nhìn nửa hư, nửa thực như trong tranh vẽ. Xa xa là những rặng núi xanh mờ tím nhạt như trong mơ. Ông càng sững sờ khi chủ nhà gọi con gái của mình ra chào khách quí. Cô gái có một vẻ đẹp hiếm có. Không lộng lẫy mà càng nhìn càng thấy lạ và cao quí. Nhưng giải nghĩa vì sao lại thế, thì cũng thật khó. Do màu tóc đen và mềm của cô ư? Do đôi mắt hiền lành, đen sáng nằm hơi xa nhau và đôi chân mày thanh như vẽ ư? Hay là do đôi môi hồng nhẹ và tươi mát? Hay là do dáng người thon thả mà tròn trĩnh như được nặn bằng một thứ bột tinh chất và mịn màng? Ngay đêm hôm ấy, dưới ánh trăng đầu tháng, ông thầy đã được cô gái mười sáu tuổi ấy đàn thử cho ông nghe. Cô gái ôm cây đàn nguyệt. Bàn tay này gẩy vào dây đàn, bàn tay kia lướt đi, khi lên khi xuống trên các phím. Hai bàn tay càng nhìn càng thấy nõn nà... ông thầy đàn hơi dim mắt lại ngồi nghe. Đúng là một tiếng đàn chưa được học. Một tiếng đàn của một tâm hồn trong sáng tinh tế, nhưng chưa có dấu hiệu của một tài năng. Dù sao cũng cứ thử dạy xem. Biết đâu sẽ chẳng có những chuyển biến bất ngờ. Cuộc đời đi dạy đàn của ông đã cho ông khá nhiều kinh nghiệm.

Cô gái rất mê tập đàn. Cô thích được nghe thầy nói về những cái hay của tiếng đàn. Càng ngày cô càng tỏ ra hiền dịu và cao quí. Và ông thầy dạy đàn cũng càng ngày càng lạ lùng khi nhận ra rằng: có lẽ cô gái này có đủ tất cả những nét đẹp của người phụ nữ mà ông mơ ước được gặp. Giá mà ông được gặp cô bé này cách đây vài chục năm. Bây giờ thì tóc ông đã điểm bạc rồi. Ông thầy cố không để cho tình cảm mình bộc lộ ra. Ông dấu hết những xúc động sâu kín khi những buổi trưa vừa ngủ dậy cô gái ra tập đàn với ông. Đôi môi cô lúc ấy đẹp một cách lạ lùng. Cứ hồng và mát hơn cả những cánh hoa hồng, hoa đào... Và đôi mắt như chứa đựng một thế giới tình cảm không ai có thể nhìn thấy và hiểu nổi... ông thấy vui sướng được nhìn cô gái ngồi đàn hơn là nghe tiếng đàn của cô. Nhưng không phải cô gái nào cũng có thể đàn được như cô. ông chủ nhà, một hôm bỗng nói với ông:

-Thưa ông, bạn tôi ở phía ngoài cũng có một cháu muốn xin về đây học ông. Bạn tôi tha thiết mong ông nhận lời dạy cháu và bạn tôi sẽ xin đưa cháu vào đây ngay nếu ông cho phép. ông thầy dậy đàn định từ chối thì ông chủ nhà lại nói tiếp:

-Cháu của bạn tôi có một ngón đàn rất lạ, ai nghe cũng phải nhớ mãi, dù cháu chỉ tự học đàn lấy. Ông thầy bỗng dưng hy vọng: biết đâu ta lại chẳng gặp được một tài năng! Thế là ông nói với ông chủ nhà bảo người bạn cứ đưa con đến. Cô gái vẫn ngày ngày học đàn.

Đối với thầy, cô luôn tỏ ra quí mến và kính trọng. Cô mồ côi mẹ chỉ sống với cha cùng hai đứa em. Nghe lời cha dặn, cô chăm sóc thầy rất chu đáo, hết lòng. Cô rất phục tài thầy và những điệu đàn của thầy lúc nào cũng làm cho cô xúc động. Nhất là những điệu đàn buồn. Một hôm hai thầy trò đang ngồi tập đàn thì có khách đến. Đó là người bạn của ông chủ nhà đưa đứa con trai của mình vào xin học. ông thầy đàn vừa nhìn thấy cậu con trai đã linh cảm ngay là mình sắp được gặp một điều không bình thường. Khi nghe người con trai mười bảy tuổi ấy dạo ngón đàn mà ông chủ nhà đã giới thiệu trước thì chính ông thầy đàn cũng cảm thấy bồi hồi. Đúng là một tiếng đàn ông chưa hề được nghe. Nó vừa trong sáng, sâu lắng, vừa mới và lạ. Ông thầy mừng vô cùng. Nhưng đồng thời, không hiểu sao, ông cũng cảm thấy lo lo. Ông sợ mình đánh giá nhầm chăng. Hay vì một điều gì khác... Điều gì khác đó cứ mỗi ngày mỗi hiện lên rõ dần. Cô con gái ông chủ nhà và cậu con trai của người bạn ông rất nhanh chóng trở nên đôi bạn thân thiết. Cô gái vẫn kín đáo, thầm lặng. Nhưng người con trai thì rất mạnh dạn, tự nhiên. Nghe họ nói chuyện với nhau, nhìn thấy họ đi hái những trái ổi chín trong vườn tặng cho nhau. ông thầy dạy đàn giật mình nhận ra rằng: Hai cái điều ông mơ ước, ai ngờ ông đã gặp cùng một lúc ở tại đây. Chúng vừa làm ông vui mừng, vừa làm ông đau khổ.

Người con trai rất say mê tập đàn, tiếng đàn của anh thay đổi từng ngày. Chính ông thầy cũng không ngờ anh học giỏi và nhanh đến như vậy. Có những điệu đàn ông đánh cho nghe một lần, anh học trò đã đánh lại được ngay tuy có chỗ cũng còn ngập ngừng đôi chút

-Điều mà ông thầy quí nhất là sau đó, anh học trò vô cùng thông minh kia đã đánh theo cái lối riêng của anh ta. Vẫn giữ cái điệu buồn, vui của bản đàn nhưng vẫn có cái ngón đàn riêng độc đáo của ônh. Tự nhiên như ánh nắng ban mai hòa vào trong không khí của trời đất, đôi bạn trẻ càng ngày càng gần nhau, hiểu nhau... Từ tình bạn, họ đã chuyển sang tình yêu lúc nào không ai biết. Nhưng ai cũng thấy. Và thấy rõ nhất có lẽ là ông thầy...

Ông vẫn đem hết lòng ra dạy cho đôi trẻ, nhất là cho người con trai có nhiều tài năng kia. Ông rất vui khi dạy đàn, nhưng những lúc ngồi im, hoặc đi lững thững bên bờ sông, mặt ông vẫn còn đượm một vẻ buồn khó tả. Cái bầu rượu chóng vơi hơn trước. Nhưng ông vẫn giữ không bao giờ uống say... Một năm trôi qua... Chưa đâu ông lại ở lâu như chốn này. Rồi hai năm... Cô gái càng ngày càng đẹp. Người con trai càng ngày càng tỏ rõ tài năng kiệt xuất của mình. Anh đã bắt đầu đặt ra những điệu nhạc mới. Anh thích làm những điệu nhạc về làng quê, về sông nước... Nhà vua mở cuộc thi chọn những người tài giỏi trẻ tuổi. Ông thầy liền khuyên đôi bạn trẻ đi thi. Cô gái không muốn đi vì biết mình tài không có mấy. Nhưng ông thầy biết rằng không dễ có một cô gái đánh đàn khá như vậy mặc dù cô không phải là một tài năng. Với lại ông hiểu rằng có cô gái cùng đi, người con trai kia sẽ đánh đàn hay hơn. Vì vậy ông khuyên cô gái cứ nên đi. Người con trai bỗng nảy ra cái ý mời thầy cùng về kinh với hai người. anh nói:

-Có thầy chúng con sẽ như có chỗ dựa, chúng con đàn mới hay được. Cô gái cũng van nài:

-Xin mời thầy cùng đi với chúng con để chúng con được vững tâm hơn. Ông thầy cuối cùng đã nhận lời. Về đến kinh, qua mấy ngày thi tài năng của người con trai đã làm cho mọi người kinh ngạc và cảm phục. Anh được nêu danh là người trẻ tuổi đánh đàn hay nhất trong cả nước. Cô gái cũng được khen thưởng vì trong những cô gái, cô là người đánh đàn được mọi người yêu thích và ngưỡng mộ. Nhà vua cho mời tất cả những người được giải và được khen thưởng vào cung. Vua cũng là người rất yêu thích âm nhạc. Đêm ấy, trong cung vua, người con trai và cô gái cùng đánh đàn cho vua nghe. Vua tấm tắc khen chàng trai và bảo chưa bao giờ vua được nghe những tiếng đàn hay đến thế. Vua hỏi:

-Cháu học ai mà đàn hay như vậy? Nghe chàng trai nói rõ tên họ người thầy kính yêu của mình, vua liền đặt tay lên vai chàng trai mà nói:

-Trẫm có nghe tên tuổi của thầy cháu. Vậy thầy cháu bây giờ ở đâu?

-Tâu bệ hạ, thầy chúng con đang ở ngoài quán trọ. Nhà vua liền ra lệnh ngày mai mời ông thầy dạy đàn vào cung cho vua gặp. Người con trai và cô gái nghe vua nói mừng vô cùng. Sau đêm vui, đôi trai gái vội vàng về quán trọ để báo tin cho thầy biết. Ai ngờ lúc về thì không còn thấy thầy ở đó nữa. ông chủ quán cho biết là ông thầy đã ra đi từ lúc chiều và dặn đưa lại cho hai người một phong thư. Mở thư ra đọc, hai người mới biết là thầy đã quyết định đi đến một vùng thầy chưa bao giờ đến và mong sẽ có ngày gặp lại. Đôi bạn trẻ thương thầy, ngơ ngẩn cả người. Họ không hiểu vì sao thầy lại ra đi đột ngột như vậy.

* * *


 
L

ly_lovely_16111997

< Tiếp>

Trước khi đến cái vùng mà ông muốn tới, ông thầy quyết định ghé lại thăm ngôi nhà lâu nay ông đã sống với bố con cô gái và người học trò tài giỏi của mình. Ông định chỉ ở lại một ngày và hôm sau sẽ ra đi sớm. Thấy ông về và nghe ông kể tỉ mỉ về chuyện đôi bạn trẻ được mời vào cung để đàn cho vua nghe, ông chủ nhà mừng rỡ khôn xiết. Ông càng thấy công ơn của ông thầy rất lớn. Ông bảo người nhà làm bữa cơm thật sang để thết thầy. Ông ngỏ lời mời thầy ở lại chơi mươi ngày để đợi đôi bạn trẻ cùng về cho họ có dịp tạ ơn. Người thầy liền đáp:

- Tôi chỉ xin ở thêm một ngày để đáp lại thịnh tình của ông. Tôi cần phải đi gấp... Đêm hôm sau là đêm rằm. Bầu trời trong vắt.

- Trăng sáng đầy trời. Ông thầy xin phép ông chủ nhà, bố cô gái, mang bầu rượu và cây đàn của mình ra bờ sông để ngắm trăng và dạo một điệu đàn mới. Ông ngồi một mình trên bãi cát ven sông. Sông sáng rực dưới ánh trăng. Không bóng một con đò. Ông uống rượu và ôm cây đàn vào lòng đánh lên những âm thanh đầu tiên của điệu đàn đang ngân nga trong lòng ông. Rồi mấy câu. Rồi đánh cả bài. Ông dừng lại sửa đoạn này, sửa đoạn khác. Rồi ông đánh đi, đánh lại cả bài khi đã thấy ưng ý. Thỉnh thoảng ông dừng lại để uống một ngụm rượu nhỏ. Ông chủ nhà đã biếu ông một bầu rượu cúc ngon tuyệt. Trăng sáng. Rượu ngon. Ông vừa đánh đàn vừa thấy mình như đang chơi vơi ở lưng trời, ở trên mặt con sông sáng rực ánh trăng. Tiếng đàn như muốn nói hộ nỗi lòng ông:

Đời tôi
Cả cuộc đời tôi
Suốt cuộc đời tôi
Tôi đã lặn lội
Đi tìm hai người
Tưởng tuyệt vọng rồi
Không ngờ được gặp
Một mơ ước thành rồi
Còn mơ ước kia...
Ôi thôi!
Đời tôi
Cả cuộc đời tôi
Suốt cuộc đời tôi
Một đám mây trôi
Một cánh chim giữa trời
Một tiếng đàn vừa khóc vừa cười
Một chiếc lá cứ xoay tròn không chịu rơi
Bao giờ lá chạm đất?
Bao giờ chim bay khuất?
Bao giờ mây ngừng trôi?
Ôi ơi!
Đàn ơi!
Đời ơi!

Bỗng có tiếng kêu lên ở phía sau lưng:

-Thầy ơi! Chúng con xin thầy thứ lỗi! ông thầy quay lại và thấy cả ông chủ nhà và đôi bạn trẻ đang đứng trước mặt mình. Ông chủ nhà cũng lên tiếng:

-Hai cháu ở kinh về vừa bước chân vào nhà, nghe ông ra đây, đã vội rủ tôi cùng ra... Ông thầy tay không rời cây đàn cũng vừa đứng dậy. Ông bối rối, bàng hoàng cứ lặng im nhìn mọi người. Người con trai nói như cầu khẩn:

-Xin thầy hãy cho chúng con được nghe lại điệu đàn mới của thầy! Bây giờ thì ông thầy mới lấy lại được bình tĩnh và nói rất khẽ:

-Ta thật không thể nào chiều được ý con. Con hiểu dùm cho ta. Cô gái nép bên cha mình chỉ im lặng nhìn thầy. Gió mát từ giữa sông thổi vào nhè nhẹ

-Tóc ông bay phơ phất. Cây đàn trong tay ông như đang thở phập phồng... Sau đó mọi người cùng kéo nhau về nhà. Ông thầy cáo mệt vào phòng riêng nghỉ. Sáng hôm sau trời chưa mờ đất ông đã dậy rất sớm và lặng lẽ ra đi không để cho một ai hay biết. Thế mà vẫn có một người hay biết. Đó là cô gái, con ông chủ nhà. Nhìn ông thầy ra đi trong làn sương sớm. Cô chỉ khẽ ôm lấy mặt để khỏi khóc nấc lên rồi lặng lẽ đưa tay lau hai giọt nước mắt vừa trào ra...

***

Sáu con trăng sau, một hôm bỗng có người đi đò ngang, từ bờ bên kia sang, ghé vào nhà cô gái. Người ấy vác một cái bọc khá to, nhưng không nặng lắm. Ông chủ nhà ra tiếp khách. Khách nói, giọng buồn buồn:

-Tôi được một người nhờ tôi mang đến gửi biếu ông những món quà này.

-Ai vậy hở anh?

-Xin ông cứ xem quà thì rõ. Khách mở cái bọc ra. Một cây đàn. Một bình rượu! ông chủ nhà và cô gái cùng kêu lên:

-Trời ơi! Cây đàn và bình rượu! Đúng là của ông thầy rồi! Khách bây giờ mới kể

-Tôi từ một nơi khá xa lên đây. Ông thầy dạy đàn đến nhà tôi để dạy cho cháu. Mới đây, ông bị cảm nặng sau một đêm ngồi đàn ở ngoài hiên lạnh... Rồi nằm liệt hơn mười ngày... chúng tôi mời thầy đủ các nơi về mà ôi cũng lắc đầu, bó tay... Khách nói đến đây thì cậu con trai đàn hay nhất nước vừa đến. Cậu sắp làm rể nhà này... Cô gái liền kể qua câu chuyện cho cậu con trai nghe. Ông chủ nhà bây giờ mới hỏi tiếp:

-Thế ông ấy mất đã lâu chưa?

-Chỉ cách đây chừng mươi hôm. ôi cũng thở dài, thờ thẫn. Bỗng khách lại kể thêm:

-Vậy mà trước khi chết, ông ấy vẫn bảo tôi mang cây đàn lại, đỡ ông ngồi dậy cho ông đánh cái bài khi chưa lâm bệnh ông vẫn chơi đêm đêm. Lúc mọi người đã đi ngủ cả... Nhưng chỉ đàn được hai câu thì ông buông cây đàn ra và gục xuống. Được một lúc thì ông thở dốc mấy cái liền. Tôi vội rỏ mấy giọt sâm vào miệng cho ông sống thêm vài giây lát xem ông có trối trăng gì không. ông chỉ lấy tay chỉ vào dưới gối rồi tắt thở... Tôi xem dưới cái gối thì thấy một mảnh giấy ông đã viết sẵn từ trước để nhờ tôi mang đến tặng ông và gia đình cây đàn cùng bình rượu này để làm kỷ niệm. Người con trai bây giờ mới hỏi:

-Ông nói thầy chúng tôi hay đàn một điệu đàn về khuya. Ông có thuộc bài ấy không?

-Ai đàn thì tôi nghe, tôi biết, chứ tôi có biết đánh đàn bao giờ. Giá có con tôi ở đây! Nó thuộc làn điệu đàn ấy và nó thường nói đó là điệu đàn nó nghe hay nhất từ trước đến giờ. Người con trai liền nhấc cây đàn lên, so giây rồi ngồi xuống. Tiếng đàn cất lên làm mọi người bàng hoàng. Nghe như tiếng ông thầy vừa nói chứ không phải là tiếng đàn nữa. Anh vừa đàn được hai câu thì người khách đã kêu lên:

-Đúng là bản đàn ấy rồi. Anh đàn cũng hay lắm. Nhưng không thể hay bằng ông thầy đâu. Người con trai đàn tiếp. Đó là bản đàn đêm xưa, anh và bố con cô gái đã rình nghe trộm khi ông thầy ngồi đàn một mình ở dưới trăng, trên bãi cát ven sông

-Anh chỉ nghe có lần ấy mà vẫn nhớ

-Và nhiều lần anh cũng đã đàn cho bố con cô gái cùng nghe... Người khách bỗng sực nhớ một điều gì quan trọng. ông lấy trong túi áo một cái gói nhỏ, nhẹ nhàng mở ra. Một túm sợi bông trắng được cuộn lại. Mọi người giật mình. Có vết gì như vết máu ở giữa túm lông kia. Bấy giờ người khách mới kể tiếp:

-Khi ông ấy buông cây đàn và gục xuống, tôi bỗng thấy có hai giọt nước mắt vừa rơi trên mặt cây đàn. Nhưng đó không phải là hai giọt nước mắt thường tình, mà đó là hai giọt huyết lệ. Tôi vội gọi người lấy cho tôi túm sợi bông này để tôi lau đi và giữ lại. Có tiếng ôi vừa nức nở kêu lên:

-Thầy ơi! Hóa ra đó là cô gái. Ông chủ nhà và cậu con trai vội đỡ lấy cô dìu vào phòng trong... Chính ông chủ nhà và cậu con trai kia cũng đang nước mắt lưng tròng...

* * *

ông chủ nhà bàn với mọi người đặt một cái bia ở trong vườn nơi có mấy khóm cúc màu tím, nơi trước đây ông thầy thường ra ngắm và khe khẽ đọc thơ. Để mọi người mãi tưởng nhớ đến ông. Cây đàn của ông gửi tặng cho gia đình, ông chủ nhà cũng đã treo ngay ở bên cạnh bàn thờ ông. Bình rượu cũng được đặt ngay trên cái bàn thờ đó. Một hôm, nhân đêm trăng rằm, ông chủ nhà rót đầy một bình rượu cúc, mang ra đặt ở bên cạnh cái bia. Ông định khi nào vò rượu cạn đi thì sẽ lại tiếp rượu thêm cho ông thầy luôn có rượu để uống.

Mùa Xuân năm đó, khi mọi người ra thắp hương ở chỗ cái bia, ông chủ nhà bỗng thấy từ cổ cái bình rượu bỗng nẩy ra hai cái lá con. Ai cũng kinh ngạc. Hai cái lá lớn lên rất nhanh. Cọng lá khỏe, vươn dài như cái cần cây đàn của ông thầy, còn lá thì cứ xòe to ra và có hình dáng rất giống cái mặt cây đàn. Mọi người trong xóm, trong làng nghe nói kéo nhau đến xem. Có người đem cả hương đến thắp. Một thời gian sau, cây trổ hoa

-Hoa màu đỏ tươi, năm cánh bé tẹo và túm tụm vào nhau

-Nhìn xa như những vết máu đỏ li ti... Cây hoa ấy ngày nay ta gọi là cây hoa Ngô Đồng. Thân cây Ngô Đồng giống hệt cái bình rượu

-Lá cây Ngô Đồng rất giống mặt cây đàn của ông thầy ngày xưa. Còn những hoa đỏ nhỏ li ti thì đúng như những vệt máu đỏ. Xem hoa, chưa chắc ai cũng đã biết sự tích của hoa!
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa Huệ dạ hương​

hue1bb87-de1baa1-hc6b0c6a1ng.jpg


Có lẽ trên đời này không có đủ sức mạnh nào có thể chia rẽ được quan hệ giữa thần Apôlông và chàng Ghiaxít, con trai của vua Xpáctát. Apôlông yêu quí Ghiaxít chẳng khác nào đứa em ruột của mình, và mọi người cho rằng họ sẽ không bao giờ xa được nhau. Con trai Thần Dớt vốn là người rất hâm mộ cái đẹp, sáng nào chàng cũng lên đỉnh núi để chào Mặt Trời vừa thức dậy sau một chuyến đi dài ngày vòng quanh trái đất. Trong những chuyến đi ấy của Apôlông, Ghiaxít bao giờ cũng tháp tùng theo.

Sau khi tiễn Mặt Trời đi xa, các chàng trai thường ghé lại thăm đàn gia súc đang được chăn thả trên các cánh đồng cỏ đẫm sương, khiến người chủ của bầy gia súc rất vui sướng vì được thần Apôlông ban phước lành. Những cánh đồng lúa chín vàng mà Apôlông lướt mặt qua, họ cũng đều tìm đến và được ban tặng một mùa lúa bội thu.

Khoảng giữa trưa, Apôlông và Ghiaxít cùng nghỉ lại trong một khu rừng sồi, nghe tiếng đàn áp của Ela. Khi hoàng hôn buông xuống, Apôlông lại cho mời các thi sỹ đến đọc thơ ca ngợi cái đẹp, tình bạn và tình yêu.

- Hỡi thiên thần của tôi, tôi xin đa tạ Người về việc tôi được làm kẻ hạnh phúc nhất trần gian - ngày nào Ghiaxít cũng nói với Apôlông như thế, và trong lời nói của chàng không hề gợn chút xu nịnh hay giả dối.

Một hôm, cả thần lẫn người đều dừng lại rất lâu bên bờ một con sông. Họ tắm mát, bắt châu chấu trong các bụi cói và thi ném thia lia. Tình bạn của họ thật tuyệt vời. Có lẽ do họ gây chuyện quá ồn ào nên nữ thần Nhim Pha phải đội nớc chui lên, la hét:

- Ê, mấy chàng nghịch ngợm kia, chẳng lẽ không bớt la hét một chút được sao? Cha tôi đang nghỉ trưa đó.

Apôlông quay lại bờ sông, vứt luôn cái thia lia định ném đi. Chàng ngỡ ngàng trước một người đẹp mà chàng chưa từng thấy trong số các cô gái của họ nhà thần: gương mặt bụ bẫm, trắng như sữa, mái tóc xanh hệt màu cây cỏ, còn bộ ngực thì tròn đầy như hai trái táo đang độ chín. Vì quá sửng sốt, chàng nhào luôn xuống nước.

- Hỡi ngời đẹp, nàng là ai vậy? Và cha nàng là ai? - Apôlông hỏi.

- Cha tôi là Thần Sông, còn tôi là Ðápna, con gái của người, - nữ thuỷ thần đáp.

Chẳng riêng gì Apôlông, các Thần khác nếu gặp Ðápna cũng sẽ phải lòng nàng ngay từ giây phút đầu. Apôlông có cảm giác không khí quanh chàng nóng như thiêu như đốt, và chỉ có nước sông kia mới làm dịu mát được cơ thể chàng. Bị nữ thuỷ thần từ chối không cho được lại gần, Apôlông đâm chán ghét những chuyến leo núi buổi sáng, biếng nhác thơ ca, thậm chí sao nhãng cả tình bạn với Ghiaxít; chàng chỉ muốn được chia xẻ số phận với Ðápna và được ở lại bên nàng, dầu có phải làm tôi tớ dưới thuỷ cung.

- Ðápna ơi, nàng là cô gái tuyệt vời nhất trong số các cô gái tuyệt vời. Ta là Apôlông, thần ánh sáng đây. Hãy đi với ta và chia xẻ tình yêu cùng vương quốc với ta! - Apôlông khẩn khoản xin nữ thủy thần.

Ðápna lắc lắc cái đầu đang đội vương miện nước óng ánh.

- Nàng chính là ái nữ kỳ diệu của đời ta, ngay đến Êlêna kiều diễm cũng không dám sánh cùng nàng! Apôlông chìa cả hai tay về phía Ðápna và thốt lên.

- Chàng lúc nào cũng nóng nảy như mặt trời của chàng vậy - Nữ thủy thần ngụp luôn xuống nước, chỉ để hở gương mặt trắng trẻo như bông súng trắng trôi nổi trên dòng chảy.

- Ðápna ơi, nếu em không lấy ta, ta sẽ liều mình theo em - Với một nỗi say mê cuồng nhiệt, Apôlông toan gieo mình xuống dòng sông.

Khoan đã, đừng làm nước nổi sóng lên, cha đang ngủ đó. Nếu đánh thức người dậy trước giờ hạn định, Người sẽ nổi giận, làm cho sóng nước cuộn lên và tất cả thuyền bè sẽ bị lật nhào hết, - Ðápna ngăn Apôlông và tìm cách làm nguội lạnh ngọn lửa đang hừng hực nơi chàng.

Nàng nhặt cái thia lia ở dưới đáy sông lên đưa cho Apôlông và nói:

- Hãy để các thần phán quyết số phận của chúng ta. Em sẽ yêu một người nào đó trong số các bạn của chàng ném ba lần thia lìa xa nhất.

Ghiaxít thật đáng thương! Chàng hết lòng mong muốn cho bạn mình giành được chiến thắng, song, vì hồi hộp, Apôlông bị run tay, đã hai lần ném đều không thành, còn Ghiaxít, mặc dù rất ủng hộ bạn, nhưng cả hai lần chàng đều ném xa hơn Apôlông. Lần thứ ba, Ghiaxít buộc phải ném trúng đích. Apôlông lồng lộn, chàng vung cái thia lia lên nhằm trúng đầu bạn mà ném. Ghiaxít ngã xuống và thiếp đi một giấc ngàn thu. Ðápna vô cùng xúc động.
Thế là chàng trai tốt bụng đã phi chết vì tội lỗi của nàng!

Tới nửa đêm, khi mặt trăng tròn vành vạnh treo lơ lửng trên không rừng tùng bác thì Ðápna và các bạn gái của nàng cùng nhô lên khỏi dòng sông. Họ lấy ánh sáng trăng thắp lên những ngọn nến có ánh lửa trắng, đỏ, xanh, hồng và vàng, rồi cắm xuống mình đất đã thấm máu Ghiaxít.

Ðột nhiên, từ cánh rừng thông gần đó hiện ra một hình người bằng lửa phát ra sức nóng có sức thiêu đốt từ xa.

- Hãy chạy đi, hỡi các nữ thần, Apôlông đến đó - Ðápna hét to và bỏ chạy.

Con gái của Thần Sông đã bị các thần trừng phạt. Họ biến nàng thành kẻ mất trí và chỉ cho nàng lối đi bấp bênh không phải ra ngoài sông mà là ra ngoài đồng không mông quạnh, để một ngọn gió nóng thiêu đốt đôi chân nàng và một luồng hơi thở khủng khiếp phả vào cổ nàng.

Ðápna tuyệt vọng van xin nữ thần số mệnh cho nàng được biến thành cây nguyệt quế. Mong ước của nàng đã thành hiện thực, và trước mắt Apôlông, một cây hoa Nguyệt Quế đã xoè tán lá.

Các thần cũng như những tên bạo chúa, không bao giờ chịu thừa nhận tội lỗi của mình, ngay cả khi họ là những kẻ sát nhân. Không chiếm được trái tim Ðápna, Apôlông càng ghen hơn với nàng vì Ghiaxít. Chàng đến chỗ mà người bạn của chàng đã ngã xuống, phủi tay dập tắt các ngọn nến.

Không hiểu vì sao Apôlông sau đó không thấy bén mảng đến chỗ ấy nữa, vì vậy những ngọn nến kia đã xoè nở hệt như những bông hoa, toả ra thứ hương hơi khó ngửi dường như là hơi thở của chính chàng trai trước lúc chết về hạnh phúc không thành đạt. Ðó chính là loài hoa Ghiaxin - hoa Huệ Dạ Hương.
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa Bồ công anh

hoa-bo-cong-anh02.jpg
hoa-bo-cong-anh06.jpg


Đã lâu lắm rồi, khi con người mới hình thành nên các quốc gia và đang cố gắng củng cố sự vững mạnh của đất nước mình. Ở một vương quốc nọ, cũng giống như nhiều quốc gia khác, họ đang sống trong những ngày tháng đầu tiên của một thời kỳ phát triển mạnh mẽ. Cả đất nước dường như sôi nổi và phân kính với sự phát triển.

Ở nơi đó, trong một gia đình của vị quan có hai người con trai, một người còn khá nhỏ, người con trai còn lại đã bước sang độ tuổi 14. Cuộc sống của gia đình đối với nhiều người được coi là êm đềm và đầy đủ. Thế nhưng, cho đến một ngày, người cha gọi người con trai lớn và hỏi:" Sống ở trên đời việc lớn nhất đối với người con trai là gì?"

Người con trai trả lời: "Là một người con trai thì nên học tập và rèn luyện, còn là một người đàn ông thì phải giữ được cái cốt cách của một người con trai".

Người cha cau mày và nói: "Vậy là con biết mình phải sống thế nào rồi hả?".

"Dạ"- Người con trai đáp.

Người cha quay lưng đi mà không nói thêm lời nào.

Trong suốt quãng thời gian sau, cậu con trai lớn không ngừng trải qua bao nhiều thách thức của cuộc sống. Những bài học của từ những người trong gia đình đã trui rèn nên một con người, một người đàn ông thực sự.

Cậu con trai 14 năm nào đã trở thành chàng thanh niên cao lớn. Trong trái tim chàng là ẩm ủ bao nhiêu hoài bão, bao nhiêu mơ ước. Có những ước mơ thất nhỏ bé như một câu chuyện tình, có những hoài bão to lớn như một vị hoàng đế. Có những mơ ước mà chàng đã giành được, những vinh quang nhỏ nhặt và có cả những thật bại đầy nước mắt. Cho đến một ngày, chàng muốn đi tìm một chỗ đứng riêng cho mình, muốn một cuộc sống độc lập, chàng đã quyết định ra đi.

Với nguồn lực của mình và số bạn bè của mình, chàng tự thiết lập cho mình một đội quân. Chàng muốn tự mình xây dựng một đế quốc cho riêng mình. Chàng đã ra đi.

Trải qua hàng trăm, hàng ngàn trận đánh. Đi qua biết bao nhiêu ngôi làng, nhưng những gì chàng giành được ngày một hùng mạnh, nhưng trong đàu chàng mới chỉ vọn vẹn có "kinh nghiệm về sự mất mát".Thời gian dần trôi, mải mê với chính chiến, mái tóc xanh thủa nào đã ngả màu tráng ngà, cái màu của tuổi tác và sự phản chiếu của ánh nắng mặt trời.Vị hoàng đế, một mình một người chậm bước trên đất nước rộng lớn mà mình tạo ra. Ông mải mê đi, đi mãi, và dừng chân nghỉ trong phòng khác của một ngôi nhà nhỏ. Ngước mắt nhìn qua cửa sổ, ánh trăng đã lên cao.Trong mắt ông những kỷ niệm như tràn về, từ những ngày tháng thơ ấu, đến thời gian tha hương, xa xứ. Trong đâu ông hàng loạt những câu hỏi, những suy nghĩ về những gì ông chưa làm được. Ông nhớ những người thân thân, những người bạn, những người ông chưa làm được gì nhiều cho họ...

Ánh trăng đã xuống dần và vị hoàng đế gọi chủ nhà lại và nói: "Khi ta chết hãy chôn ta ở nới cánh đồng thảo nguyên rộng lớn ở quê ta. Ta muốn linh hồn ta được về với quên hương, để trở về với nới ta sinh ra. Dù ta ở đâu, bay xa đến đâu cũng sẽ có một ngày ta trở về mảnh đất đó"..."ta muốn gửi muôn phần hồn ta vào gió, phần theo cha, phần gửi mẹ, phần gửi người ta yêu, phần gửi những người ta đã lỡ hẹn, gửi những người cho ta là không đúng..."..."mỗi phần hồn là một lời nguyện cầu, nơi ta đến có nụ cười, có cả nước mắt,..."

Ít lâu sau vị hoàng đế băng hà. Theo lời căn dặn của ông, ông được chôn cắt tại thảo nguyên rộng lớn nơi quê hương ông sinh ra. Và từ nơi ông được chôn cắt mọc lên một loài hoa. Loài hoa lạ khi nở hoa trông như như những chiếc răng của loài sư tử. Khi hoa tàn những cánh hoa bay theo làn gió. Những cánh hoa tựa như những cây hoa thu nhỏ. Dựa mình theo gió mà bay...
Loài hoa đó được gọi tên hoa Bồ Công Anh... nơi gửi gắm những lời nguyện ước...
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa Thủy tiên

images


Ngày xưa, có một ông phú hộ sinh được 4 người con trai. Khi biết mình sắp chết, ông gọi 4 người con đến, dặn dò các con phải chia gia tài của cha làm 4 phần đều nhau. Bốn người con hứa tuân lời cha trối lại, tuy nhiên, vừa chôn cất cha xong thì 3 người con đầu dành phần gia tài nhiều hơn người em út. Họ chỉ chia cho đứa em út một mảnh đất khô cằn.

Người em út rất buồn, vừa thương nhớ cha, vừa buồn các anh xử tệ với em. Đang ngồi khóc một mình trước mảnh đất khô cằn, thì người em bỗng thấy một bà Tiên từ mặt ao gần đó hiện lên bảo:

- Này con, thôi đừng khóc nữa. Khoảng đất này của con có chứa một kho tàng, mà các anh của con không biết. Kho tàng này chưá nhiều mầm của một loại hoa quý vô giá. Mỗi năm, cứ đến mùa Xuân, thì hoa đâm chồi nẩy lộc, nở từng hàng chi chít trên đất đai của con. Con sẽ hái hoa, đem bán, rất được giá. Nhờ đó, chẳng bao lâu thì con sẽ giầu có hơn các anh.

Quả thật, đến mùa Xuân ấy, đúng như lời bà Tiên nói, mảnh đất khô cằn của người em bỗng nhiên mọc lên từng hàng hoa trắng, hương thơm ngào ngạt. Để nhớ đến ơn lành của bà Tiên, người em đặt tên cho loại hoa này là Hoa Thuỷ Tiên.

Những người thích hoa, chơi hoa, và những người nhà giầu đã thi nhau đến mua hoa Thuỷ Tiên hiếm quý, với giá rất đắt. Chẳng bao lâu, người em trở nên giầu có, nhiều tiền bạc. Rồi cứ mỗi năm Tết đến, người em út lại giầu thêm, nhờ mảnh đất nở đầy hoa thơm tươi thắm. Người em trở nên giầu hơn 3 người anh tham lam kia.

Người ta tin rằng Hoa Thuỷ Tiên mang lại tài lộc và thịnh vượng. Do vậy, mỗi dịp Tết đến, chơi hoa thuỷ tiên trở thành một tục lệ đón Xuân. Những ngày cuối năm, Thuỷ Tiên được chăm sóc để hoa nở đúng Giao Thừa, hy vọng mang đến tài lộc sung túc và may mắn trong năm mới.
 
L

ly_lovely_16111997

Truyền thuyết hoa Quỳnh​

attachment.php


Theo truyền thuyết, ngày xưa vào thời nhà Tùy (Dương Quảng 605 - 617) ở Dương Châu, Trung Quốc, có Tùy Dạng Đế là ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác táng, xa hoa, phung phí, một đêm nằm mơ thấy một cây trổ hoa đẹp... Cùng thời điểm ấy, tại Lạc Dương thành có ngôi chùa cổ kính là Dương Ly, vào giữa canh ba, ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng rực lên như lửa cháy, hương thơm sực nức lạ lùng, như sao trên trời sa xuống, làm dân chúng bàng hoàng đổ xô đến xem đông như kiến cỏ. Gần giếng nước trong sân chùa mọc lên cây bông lạ, trên ngọn trổ một đóa ngũ sắc với 18 cánh lớn ở phía trên, 24 cánh nhỏ ở phía dưới, mùi thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi, lan xa ngàn dặm. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh.

Điềm báo mộng của vua Tùy Dạng Đế được ứng với tin đồn đãi, nên Vua yết bảng bố cáo: "Ai vẽ được loại hoa Quỳnh đem dâng lên, Vua trọng thưởng". Không đầy tháng saụ.. có một họa sĩ dâng lên Vua bức họa như ý. Nhìn đóa hoa trong tranh cực kỳ xinh đẹp, tất nhiên hoa thật còn đẹp đến dường nào! Nghĩ vậy, Vua liền quyết định tuần du Dương Châu để thưởng ngoạn hoa Quỳnh.

Trong chuyến tuần du cần có đủ mặt bá quan văn võ triều thần hộ giá, nên để tiện việc di chuyển, Tùy Dạng Đế ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường An đến Dương Châụ Hàng chục triệu ngày công lao động phải bỏ ra, hàng vạn con người phải vất vả bỏ mình. Kênh rộng cả chục trượng, sâu đủ cho thuyền rồng di chuyển. Hai bên bờ kênh được trồng toàn lệ liễu đều đặn cách nhau 10 mét một cây (cụm từ "dặm liễu" xuất phát từ đó, điển hình câu thơ: Dặm liễu sương sa khách bước dồn của Bà Huyện Thanh Quan). Kênh đào xong, một buổi lễ khánh thành được cử hành trọng thể, đoàn thuyền giương buồm gấm khởi hành... cả nghìn cung nữ xiêm y rực rỡ, mặt hoa da phấn... thuyền rồng được buộc bằng các dải lụa dùng để kéo đị Vua Tùy Dạng Đế ngồi trên mui rồng uống rượu nghe đàn hát ca sang ngắm cảnh Giang Nam và đàn cung nữ tuyệt thế giai nhân. Vua thấy nàng nào thích ý cho vời vào hầu ngaỵ Chuyến tuần du của bạo chúa Tùy Dạng Đế vô cùng xa xỉ, hao tốn công quỹ triều đình. Đây là một trong những nguyên nhân đẩy đất nước đến đói nghèo, loạn lạc khắp nơi, đưa nhà Tùy đến sụp đổ, dựng nên cơ nghiệp nhà Đường. Trong những quan quân hộ giá, có cha con Lý Uyên. Qua thời gian hơn 90 ngày, đoàn du hành đến đất Dương Châụ Thuyền vừa cặp bến, con của Lý Uyên phương danh là Lý Thế Dân cùng bằng hữu rủ nhau lén lút đi xem hoa ngay trong đêm, sợ sáng hôm sau triều thần cùng đi đông vầy lớp trẻ khó chen chân lọt vào vườn hoạ Lý Thế Dân là người có chân mạng đế vương (về sau là Vua Đường Thái Tông 627 - 649) nên giống hoa nhún mình lên xuống 3 lần để nghinh đón. Cánh hoa cong trắng nõn, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngọt ngàọ Dưới ánh trăng vằng vặc hoa đẹp tuyệt vời! Xem xong, một cơn mưa to rụng hết.

Sáng hôm sau, Tùy Dạng Đế xa giá đến xem hoa, chỉ còn thấy trơ vơ cánh hoa úa rũ, tan tác!... Vua tức giận, tiếc công nghìn dặm không được xem hoa, ra lệnh nhổ bỏ, vứt đi! Từ đó hoa Quỳnh chỉ nở về đêm cho những ai có lòng lân ái: "Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên".

Qua cuộc tuần du, nhiều cuộc bạo loạn nổi lên khắp nơị Tùy Dạng Đế bị cận thần sát hại dẫn đến nhà Tùy mất ngôi, Lý Thế Dân đứng lên lập nên nhà Đường.
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích Hoa Lan Dạ Điệp Hai Lá

hoalantrang2.jpg


Anhít trở dậy, mặc quần áo và thận trọng men theo con đường sống trâu đi về khu rừng tùng đen. Rừng tùng rậm rạp, tối sẫm. Những cây thông đỏ chót, ngạo nghễ có tuổi hàng thế kỷ đang dạo những bản nhạc buồn bã của mình.

Chính lanhít cũng không hiểu sức mạnh nào đã lôi cuốn anh đi vào rừng. Đi về nơi còn lưu truyền nhiều truyền thuyết kỳlạ. Trước đây, lanhít vốn rất sợ những câu chuyện hoang đường về rừng tùng đen, nhưng từ khi Danê người vợ chưa cưới của chàng biến mất thì đôi chân của chàng đã cưỡng lại ý nghĩ của chàng và đưa chàng đến đây.

Nỗi lo lắng trong ngày lễ thánh luôn luôn dày vò lanhít. Chàng làm sao hiểu được đó là tiếng rừng ồn áo, tiếng chim hót hay hương thơm kỳ ảo của các loài hoa, tất cả đang lôi cuốn bước chân chàng vào rừng. Có thể tất cả đó chính là loài hoa rừng mà ba mươi năm nay chàng đã đem lòng yêu.

Gần tới ngày lễ thánh, khi hoa Lan Dạ Điệp hai lá bắt đầu toả hương thơm, lanhít lại bị một mối lo ấu khó hiểu hành hạ. Đêm nào chàng cũng bị mất ngủ. Chàng đi lang thang trong rừng và khi tìm thấy một khu rừng thưa có một bông hoa Lan Dạ Điệp hai lá chàng liền nằm xuống bên cạnh và bị thứ hương quyến rũ của nó hút hết tâm sức. Nhưng chàng chẳng nỡ hái hoa, dù chỉ là một bông Lan Dạ Điệp. Những cánh nhỏ trong suốt của nó trông thật dịu dàng và mảnh dẻ, những bông hoa trắng thật tuyệt vời, hương của nó ngọt ngào đến nỗi lanhít cảm thấy mình sẽ có tội nếu dám chạm bàn tay thô ráp, xấu xí vào chúng.

Lan%20Da%20Diep%202%20la%20.jpg_thumb.jpg

lanhít yêu hoa đến độ cuồng nhiệt có thể vì Danê của chàng cũng yêu hoa. Chàng lấy làm sung sướng vuốt ve từng bông hoa. Những bông hoa gợi cho chàng nhớ tới những sớm, những chiều Danê đã đưa vào phòng chàng những bó hoa thơm ngào ngạt.

Chính bởi vậy mà đêm nay lanhít đi sâu mãi, vào trong rừng, nơi có một bông Lan Dạ Điệp hai lá. Chàng phát hiện ra một khoảng rừng thưa với cơ man những hoa là hoa.

lanhít nằm xuống đất và suy nghĩ về Danê của mình. Đã ba mươi năm trôi qua kể từ khi nàng biến mất, nhưng cho đến tận bây giờ, những ý nghĩ về nàng cứ đeo đẳng chàng suốt cả ngày lẫn đêm.

- Danê, Danê ơi, cuộc sống đang reo vui quanh ta, bây giờ em đang ở bên ta - lanhít thì thào và ghé sát cặp môi vào một bông hoa Lan Dạ Điệp.

Và lanhít lại nhớ tới cái thời cách đây đã hai mươi tư năm. Dạo ấy, bà mẹ Vaiđune và cô con gái Danê đến định cư ở buôn làng chàng. Ngày mới đến Danê còn e lện, dụt dè lắm, chỉ thỉnh thoảng mới dám liếc nhìn lanhít.

Bà Vaiđupe biết chế biến thuốc chữa được các loại bệnh khác nhau, nhưng bà đã tuổi cao, sức yếu, Danê phải đi hái lượm các loại cỏ làm thuốc. Cô gái ra khỏi nhà lúc mặt trời lặn, toàn thân ướt đẫm sưong, hai bên vạt áo đầy những cỏ và hoa.

Khi lanhít kết bạn với Danê, chàng cũng đi hái cỏ với nàng. Đó là những chuyến du ngoạn không sao quên được. Chỉ có điều Danê không kể chuyện về các loài cỏ và hoa, nàng gọi tên từng loài chim qua giọng hót của nó. Khi hết chuyện, họ bắt đầu huýt sáo hoặc cất tiếng hát vang. Chiều đến, nàng đem hoa đặt vào phòng lanhít, sáng hôm sau nàng lại đòi chàng phải kể lại giấc mơ đêm qua của mình.

Trước ngày lễ thánh không lâu, Danê bỗng thay đổi một cách khác thường, nàng trở nên đăm chiêu và đêm đêm thường đi lang thang trong rừng tùng đen. lanhít gạn hỏi, nàng cũng không biết trả lời ra sao. Có lần nàng nói: "Khoảng nửa đêm hoặc giữa trưa khi em đi vào rừng kiếm cây cỏ làm thuốc em thường nghe có tiếng người gọi. Lúc đó em thấy trong người sảng khoái một cách khác lạ, bởi lẽ em không biết người vừa gọi mình đó là ai".

Đúng vào buổi dạ hội, lanhít và Danê cùng nhóm một bếp lửa nơi bìa rừng. Ngồi bên bếp lửa họ nói cười vui vẻ và tung hoa vào người nhau.

Bỗng Danê đứng dậy và nói:

- lanhít ơi, em biết trong khu rừng rậm rạp này có một loài hoa bí ẩn đã nở. Gió đang đưa mùi hương của nó tới đây, và mùi hương ấy đang làm em ngây ngất còn hơn là những cái hôn của chàng. Đêm nay em muốn mang bông hoa đó về tặng chàng.

- Ta sẽ chờ em, -lanhít đáp và ở lại canh chừng bếp lửa.

Chàng chờ Danê thật lâu, cuối cùng không chờ được nữa, chàng đành phải đi tìm nàng.

Chàng lên tiếng gọi, rồi đích thân đến tận chỗ có tiếng nàng đáp lại thì chỉ thấy ở đây bao trùm một bầu không khí yên lặng, và ở một phía khác vang lên tiếng cười của một cô gái.

- Danê, đừng làm khổ ta nữa - lanhít hét lên nhưng vẫn không thấy Danê xuất hiện.

Sáng ra, lanhít trở về nhà trong tâm trạng mỏi mệt và giận dữ. Đêm sau rồi đêm sau nữa Danê vẫn không quay lại.

lanhít cùng đám gia nhân lên đường đi tìm kiếm. Họ lục soát khắp rừng, song vẫn không gặp nàng ở đâu, lanhít đành ở lại rừng một mình. Chàng lại tiếp tục tìm kiếm Danê, cuối cùng thì chàng lạc vào một khu rừng rậm. Bỗng dưng có một bông hoa lạ toả ra một mùi hương đầy quyến rũ khiến chàng phải chú ý.

- Đúng rồi, đây chính là loài hoa đã toả ra thứ hương thơm có sức quyến rũ mãnh liệt hơn tất cả những cái hôn của ta, và chính nó đã vẫy gọi nàng vào rừng! - lanhít thốt kêu lên và tức giận lao vào chực ngắt bông hoa, song chàng vấp ngay phải một khúc gỗ và ngã sóng soài, chân tay sây sát tứa đầy máu.

lanhít đi tìm nơi có nước để rửa sạch vết thương. "Thật là kỳ cục - chàng nghĩ - sao lại giận dỗi một bông hoa khi nó toả hương?

Một năm, hai năm rồi mười năm trôi qua, vẫn không thấy Danê trở lại. lanhít thương nhớ nàng như thương nhớ người vợ hiền, song nàng không thể bắt đầu lại cuộc sống đã tan nát của mình được. Có những giây phút chàng muốn chết đi cho lòng thanh thản, nhưng chàng đã thắng được những ý nghĩ đen tối của mình. "Cuộc sống mà thiếu Danê khác nào địa ngục - chàng tự nhủ - Song ta nỡ nào tước bỏ cuộc sống khi nó không còn thuộc về riêng ta nữa. Vì có sống thì ta mới được trông thấy Danê, dù chỉ là trong mơ..."

Hương hoa Lan Dạ Điệp quả thật kỳ diệu. lanhít có cảm giác hương của loài hoa này đang dần cô đặc lại, biến thành làn khói nhẹ thấp thoáng một bóng hình. Bóng hình ấy mỗi lúc một rõ hơn và bỗng dưng lanhít nhìn thấy Danê, vợ chưa cưới của mình. Nàng đang tiến lại gần, quỳ xuống và khẽ chạm hai làn môi mát lạnh vào đôi mắt chàng.

- Danê! Danê của ta! - lanhít kêu lên - cuối cùng ta cũng đã tìm được nàng. Nàng biến đi đâu mà lâu vậy? Tóc ta đã bạc hết rồi, và ta dường như đã thành một ông già.

Hương hoa thơm cứ quấn quýt bên chàng.

- Hỡi người tình chung thuỷ của em! Vì sao chàng không ngắt được hoa khi chàng ngã xuống, chàng còn nhớ không? Tóc chàng bạc trắng vì mội nỗi buồn khôn dứt, giá như em đày đọa ở đây vĩnh viễn dưới cái lốt bông hoa Lan Dạ Điệp hai lá.

lanhít không sao hiểu được những lời nói lạ lùng của nàng, vì thế Danê bèn cắt nghĩa cho nàng hiểu tất cả:

- Chàng ơi, vào cái đêm xa xôi ấy, con Quỷ rừng đã đến quyến rũ em. Từ trước đó, nó đã dụ dỗ em rổi, nhưng em đi theo tiếng gọi với một tâm trạng sợ hãi , vì em không hiểu ai đã gọi em. Lúc đó nói nghĩ ra một quỷkế: trồng một bông hoa có hương thơm quyến rũ mãnh liệt hơn cả những cái hôn của anh. Nó biết rằng em yêu hoa cũng mãnh liệt chẳng kém gì yêu anh. Trước ngày lễ thánh, làm cho anh một tặng phẩm, đó là đi tìm một bông hoa bí ẩn. Và thế là Quỷ rừng bèn phả vào hoa Lan Dạ Điệp một thứ hương huyền ảo và em thì chạy đi tìm bông hoa kỳ lạ ấy. Chính ngay tại chỗ này, Quỷ rừng đã bắt được em. Nó nói rằng nó đã để ý đến em đã lâu, nó muốn em làm vợ nó và vĩnh viễn ở trong rừng. Em đáp lại rằng không thể có chuyện đó, rằng em chỉ yêu một mình chàng thôi. Nó vật vã cầu xin em hết một đêm nhưng em vẫn cưỡng lại, vì em tin chắc rằng chàng sẽ đi tìm em, và khi ấy tà phép của nó sẽ mất hết sức mạnh.

Tới đêm thứ hai, khi chàng một mình đi vào rừng sâu, Quỷ rừng bèn biến em thành hoa Lan Dạ Điệp hai lá để che mắt chàng. Nếu lúc đó chàng ngắt được hoa, em đã trở lại thành Danê của chàng rồi, nhưng Quỷ rừng đã hoá thành khúc gỗ khô, ngáng chân chàng, chàng đã ngã và sau đó chàng đi lại phía bờ suối.

Đã ba mươi năm nay em mong chàng tới ngắt hoa, nhưng chàng thì lại chỉ rủ lòng thương bông hoa mảnh dẻ. Ba mươi năm nay em không chịu làm vợ Quỷ rừng. Nó dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, đe doạ em nhưng em chỉ một lòng chờ đợi, mong ngóng chàng.

Nhưng ba mươi năm ấy trôi qua, con người không đủ sức chiến thắng tà phép của Quỷ rừng, em đành phải chấp nhận số phận ở lại rừng sâu vĩnh viễn cùng với những cô gái sắp sửa xuất giá cũng bị bỏ bùa mê như em. Chàng thấy đấy, ở đây rất đông các cô gái ấy, nhưng tất cả họ đều một lòng chung thuỷ với người chồng chưa cưới của mình. Quỷ rừng thì đã già lại xấu xí như một khúc gỗ khô cong queo.

Hỡi người bạn tình chung thuỷ của em, vì sao chàng không hái hoa ngay sau đêm lễ thánh ấy?...

Hương hoa thơm làm say lòng lanhít, và hình ảnh người con gái chợt loé lên trước mắt chàng rồi biến mất!

- Danê, đừng bỏ anh! - lanhít gào lên, như muốn cố níu người vợ bị hoá kiếp của mình lại để được ôm ấp nàng. Nhưng trong tay lanhít chỉ còn là một bông hoa trắng muốt, đầy vẻ dịu dàng đang toả ngát hương thơm kỳ ảo như bao bọc lấy chàng.
 
L

ly_lovely_16111997

SỰ TÍCH HOA LAN ĐỐM

Lan%20Dom.jpg_thumb.jpg


Tính tình lẳng lơ của Cucuxca, một cô gái nhà quê, đã khiến cho đám chị em phải ghen tức, song Cucuxca chỉ phẩy tay cười:
- Các người đã ghen tức ta khi ta có nhiều chàng trai đến tán tỉnh. Không phải vô cớ mà ta đào hoa hơn các người đâu.
Cô cười khì khì và cất tiếng hát cho đến khi có chàng trai đầu tiên trong làng dẫn cô vào rừng tìm kiếm loài hoa dương xỉ. Họ có tìm được hoa hay không, không ai biết, chỉ biết là sau đêm lễ thánh, Cucuxca trở nên thuần tính hơn, và các chàng cũng xa lánh dần ngôi nhà của cô.
Rồi một hôm Cucuxca biến mất khỏi làng. Ðến mùa Xuân có một đứa trẻ chào đời. Dân làng kháo nhau, Cucuxca sẽ mang về nhà một chú bé hoặc một con nhóc, song cô lại về tay không.
- Cô giấu đứa trẻ ở đâu? - Các chị em hỏi.
- Ta đã trao nó cho chị Chìa Vôi, nhờ nuôi hộ - cô gái đáp.
- Vì sao cô không nuôi nó?
- Ta không ngốc nghếch như các người đâu. - Cucuxca cười - Suốt ngày đêm các người bị trói buộc vào chiếc nôi con trẻ, không buồn tơ tưởng đến lời ca và điệu múa nữa. Ta thì muốn ngợi ca tuổi trẻ của mình. Ha ha - cô gái nhón chân quay ba vòng.
- Bây giờ cô chỉ lo hát hỏng, mai này về già, cô sẽ đơn độc như cái gốc cây không có đọt mầm.
- Ha ha ha! Nhưng các người đang phí phạm cả tuổi thanh xuân của mình bên những chiếc nôi và những đống tã lót.
- Nhưng xung quanh ta còn có con trẻ nô đùa, lúc về già ta có thêm cháu chắt quây quần.
- Khi về già ta sẽ tìm kiếm các con ta và bắt chúng phải nuôi ta. Luật pháp là luật pháp - Cucuxca nói bằng một giọng đầy tự mãn.
Cô gái đã sống suốt cả cuộc đời như vậy - nghĩa là mỗi năm cô cho ra đời một đứa trẻ, nhưng ai là người nuôi nấng chúng, bản thân cô cũng như mọi người đều không hề biết.
Số phận của những kẻ luôn đặt hy vọng vào việc chăm lo giữ gìn tuổi trẻ của riêng mình thật là trớ trêu. Cucuxca chưa bước vào tuổi lên lão mà tóc đã bạc trắng, da mặt nhăn nhúm, lưng còng hẳn xuống. Lúc này đây nó mới thấy thương nhớ các con của mình và trông mong sự giúp đỡ của chúng.
Cucuxca đến nhà chim Chìa Vôi than thở với chị ta về nỗi đau khổ của mình. Vì nhẹ dạ, cô đã cho đi đứa con dứt ruột đẻ ra, và bây giờ cô khao khát muốn xin lại nó.
Chìa Vôi không phải là ngốc nghếch, bèn hỏi xem Cucuxca đã trao cho ai đứa trẻ nào, trai hay gái? Trong khi Cucuxca sụt sùi khóc thì chị Chìa Vôi cười bảo:
- Sao không hát hỏng nữa đi.....
- Cucu! - Cucuxca nổi giận, chỉ cho Chìa Vôi xem chiếc mỏ dài - thì cứ giữ lấy đứa bé ta đã sai lầm cho đi ấy. Không vì thiếu nó mà ta hoá ra người hiếm hoi đâu. Ta sẽ đến gặp chị chim Cước Bạc Má, có thể chị ta sẽ không đến nỗi hẹp hòi vậy đâu.
Thật ra chim Cước Bạc Má rất thương Cucuxca, nhưng nó còn thương đứa con của Cucuxca mà nó đã chăm sóc, cho bú mớm cẩn thận hơn cả con đẻ. Chim Cước Bạc Má bảo Cucuxca chờ rồi nó đích thân chạy đến khắp các nhà mà nó biết có những đứa con của Cucuxca vào rừng và để cho Cucuxca hỏi xem có đứa con nào chịu nhận Cucuxca làm mẹ không.
Cucuxca hỏi đứa thứ nhất, nó đáp:
- Cu-cu!
Hỏi đứa thứ hai, nó trả lời:
- Cu-cu!
Và tất cả đều đáp một giọng:
- Cu-cu! Cu-cu!
Cucuxca tức giận đe doạ lũ con:
- Bọn bay đã thoái thác nghĩa vụ của mình trước người mẹ, ta sẽ đưa cả lũ ra toà.
- Con cái phải có những nghĩa vụ gì trước một người mẹ đã thoái thác trách nhiệm đối với con cái, thưa bà? - Lũ con của Cucuxca hỏi.
Cucuxca đã không đủ can đảm để nhận ra sự thật. Bất lực, đau đớn, lẳng lặng lết vào rừng rồi ngã vật xuống một đám rêu, nằm chờ chết.
Bỗng có tiếng cành cây gãy răng rắc và Cucuxca ngẩng đầu lên.
Một cô gái chân khập khiễng đang tiến lại gần.
Cô gái trao cho Cucuxca và nói:
- Hãy uống đi, hỡi mẹ, nhựa bạch dương đấy.
Cucuxca ngạc nhiên trước câu nói vừa nghe được:
- Con gọi ta là gì, hãy nhắc lại ta nghe nào, Cucuxca khẩn khoản.
- Mẹ thân yêu. Mẹ chính là mẹ của con mà - cô gái đáp và nhìn Cucuxca âu yếm.
- Mẹ! - Tiếng nói tuyệt diệu làm sao! Hãy nhắc lại gần nữa đi, nhắc lại đi.
- Mẹ!
- Nhưng vì sao con biết rằng ta là mẹ của con? - Bỗng dưng Cucuxca nghi ngại.
- Con lớn lên ở nhà bác Bách Thanh. Mẹ nuôi của con rất tốt đối với con, song bố dượng thì ghét bỏ, chửi bới. Một hôm ông uống rượu say về nhà và ném con ra sau cánh cửa. Từ đó con bị tàn tật. Con đã lần mò khắp các ngõ ngách trên đời này để tìm mẹ, mẹ ơi - cô gái ôm ghì lấy Cucuxca và cho mẹ uống nhựa bạch dương.
- Ôi ta mới ngu ngốc làm sao, - Cucuxca than thở - Ta đã không hiểu hạnh phúc là gì khi ta được gọi bằng một từ kỳ diệu nhất - "Mẹ"
Những giọt nước mắt to tròn trong suốt tràn ra từ khoé mắt Cucuxca - đó là những giọt nớc mắt đầu tiên trong đời nàng và, ngay chính chỗ những giọt nước mắt vừa rỏ xuống đó đã mọc lên một bông hoa trắng ngần mà người đời quen gọi là Hoa Lan Ðốm, hay "Hoa nước mắt của nàng Cucuxca".

hoalandom.jpg
 
Last edited by a moderator:
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa Mai vàng
Mai.jpg


Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm, yêu cả ba ông Táo bằng đá núi đêm ngày chịu khói lửa để nấu cơm, hầm ngô, nướng thịt cho mọi người ăn. Một lần, thương ba ông Táo, trời đã nóng lại chịu lửa suốt ngày đêm, cô bé mới lên năm ấy đã lấy một gáo nước to dội luôn lên đầu ba ông. Tro khói bốc lên mù mịt. ông Táo già nhất vụt hiện ra nói:
- Cháu thương ta nhưng chưa hiểu ta. Lửa càng nóng, ta càng vui. Cháu mà dội nước thì có ngày ta bị cảm mất. Từ đấy, cô bé không dội nước lên đầu ba ông Táo nữa. Nhưng ông Táo già thì thỉnh thoảng lại hiện lên trò chuyện với hai chị em cô bé trong chốc lát. Một hôm thương ông, cô em hỏi:
- Ông thích lửa thôi à? Ông còn thích gì nữa không?
-Có chứ! Năm sắp hết. ông phải về trời! Cháu bắt cho ông con cá chép ông cưỡi về Trời thì ông thích nhất. Cô bé liền rủ chị đi bắt cho bằng được một con cá chép về. Cô bỏ ngay vào bếp lửa rồi nói:
- Ông Táo ơi! Chúng cháu biếu ông con chép này đây!
Con cá chép vụt biến mất. Tối hăm ba Tết, quả nhiên hai chị em thấy ông hiện ra, sau đó cưỡi con cá chép như cưỡi ngựa, bay ra khỏi nhà và bay cao mãi lên trời... Bố cô bé là một người đi săn thú rất tài giỏi. Ông thường chỉ thích đi săn thú dữ. Ông bảo:
- Còn thú ác thì tôi còn đi săn cho kỳ hết!
Ông không muốn truyền nghề cho con mình, vì cả hai đều là gái. Nhưng cô em lại rất thích nghề của cha. Lên năm cô đã xin cha dạy cho mình đủ cả côn, quyền và đao kiếm. Cô tuy bé người nhưng nhanh nhẹn vô cùng, và về sức mạnh của đôi tay cô, người cha cũng phải kinh ngạc. Lên chín, cô đã hăm hở xin theo cha đi săn thú. Người mẹ và người chị lo lắng, nhưng cô bé đã thưa ngay:
- Con không giết được con mồi bằng một nhát như cha thì con đâm ba nhát, năm nhát, mẹ và chị cứ yên tâm.
Nói sao làm vậy, cô bé lần đầu theo cha đi săn đã giết ngay được một con lợn lòi rất hung dữ... Trong vùng bỗng xuất hiện một con quái đầu người mình báo. Bà con ai cũng lo lắng, khiếp sợ. Vì con quái vật chỉ thích ăn thịt người, nhất là thịt trẻ con. Người cha liền dẫn cô gái nhỏ đi tìm quái vật để giết. Người mẹ và chị can ngăn nhưng không được. Người cha bảo:
- Tôi chỉ cho nó đi theo để xem, còn diệt quái ác là việc của tôi, hai mẹ con đừng lo.
Hai cha con đi được mấy ngày thì có tin con quái đã bị người cha giết chết thật. Bữa hai cha con trở về, bà con trong vùng mang rượu, gà vịt đến làm cỗ ăn mừng. Cô gái nhỏ không quên đặt vào bếp lửa một con cá chép và khấn với ông Táo già:
- Chúng cháu xin gửi biếu ông con chép để thỉnh thoảng ông cưỡi đi chơi.
Ông Táo già lại hiện lên cám ơn cô bé và hỏi:
- Cháu thấy con quái có sợ không?
- Cháu chỉ thích được cha cháu cho cháu được cùng đánh với nó, nhưng cha cháu không chịu.
Người cha sau đó bỗng bị ốm nặng. Người mẹ và hai cô gái hết lòng chăm sóc. Bệnh người cha có đỡ, nhưng sức khỏe thì không còn được như trước nữa. Vài năm sau, ở vùng trong xa, bỗng xuất hiện một con quái cũng đầu người nhưng mình trăn. Con quái này có sức khỏe ghê gớm. Nó có thể quấn chết một con bò mộng chỉ trong chớp mắt. Nó lại cũng thích ăn thịt trẻ con và có thể ăn một lúc đến mấy đứa. Bà con vùng đó liền cử người ra mời cha con người đã giết con quái đầu người mình báo vào diệt quái giúp bà con. Người cha nhìn cô gái nhỏ của mình hỏi:
- Liệu con có nhận lời đi giúp bà con không?
Cô gái nhỏ liền đáp:
- Con xin cha mẹ và chị để cho con đi!
Người cha nói:
- Cha sẽ cùng đi với con, nhưng cha chỉ giúp con thôi. Lần này chính con phải lo diệt quái đấy. Người mẹ và chị càng lo lắng gấp bội.
- Ông ơi! Đường từ đây vào đó xa xôi cách trở. Quái thì dữ ác mà con bé thì mới mười bốn tuổi, tôi sợ lắm.
- Cha ơi! Cha và em nhận lời, rủi có chuyện gì thì mẹ và con làm sao sống nổi.
Cô gái nhỏ liền thưa:
- Mẹ và chị à, con tuy còn nhỏ nhưng con có đủ sức để diệt quái. Bà con đã ra nhờ lẽ nào mình lại từ chối. Mẹ và chị cứ yên lòng. Cha và con diệt xong quái sẽ trở về ngay.
Thấy không can ngăn được, người mẹ và chị đành lo chuẩn bị mọi thứ cho hai cha con lên đường. Trước đó người mẹ đã may áo mới cho hai con ăn tết, bây giờ bà liền hỏi cô gái nhỏ:
- Con muốn mẹ nhuộm áo cho con màu gì?
Cô bé nhìn ra ngoài đồi núi, rồi đáp:
- Con rất thích màu vàng!

Người mẹ liền giã nghệ nhuộm cho con một màu vàng thật tươi. Ngày lên đường, cô bé mặc chiếc áo vàng, nhìn càng khỏe, càng đẹp. Cô nói với mẹ và chị:
- Diệt xong con quái lúc về con sẽ mặc áo này cho mẹ và chị nhận ra được con ngay từ xa...
Trước khi đi cô gái cũng không quên khấn chào ông Táo đá núi và hứa:
- Cháu sẽ trở về kể chuyện diệt quái cho ông nghe.
Ông Táo liền hiện ra nói:
- Chúc hai cha con mau trừ được quái. ông sẽ chờ ngày trở về...
Hai cha con đi ròng rã hơn một tháng trời mới vào đến nơi có con quái đầu người mình rắn. Nghỉ ngơi được dăm ba ngày, hai người liền đi tìm quái để diệt. Hai cha con đánh nhau với nó hai ngày liền mà không diệt nổi. Sức của người cha thì cứ yếu dần. Cô bé liền thưa với cha:
- Cha ơi! Ngày mai cha cứ để cho con bám sát nó. Con sẽ đâm một con dao găm chặt đuôi nó vào thân cây này, đâm một con dao cắm chặt mình nó vào thân cây khác. Nó không quăng mình đi được thì ta sẽ lựa thế mà chặt đầu nó đi. Người cha biết cách đánh đó hay nhưng rất nguy hiểm.
Tin vào tài nghệ của con, ông gật đầu:
- Được! Nhưng con phải đề phòng cẩn thận nếu nó dứt được đuôi ra.
- Cha cứ yên tâm.
Ngày hôm sau theo cách đánh ấy, hai cha con quả đã diệt được quái. Nhưng trước khi chết nó đã quẫy mạnh một cái, dứt được cái đuôi ra khỏi mũi dao. Sau đó nó liền cuốn ngay lấy người cô bé. Cô bé vừa chặt được cái đầu con quái thì cũng bị con quái quấn gẫy cả xương mềm nhũn cả người. Thấy con gái yêu của mình chết, người cha buông rơi cả thanh kiếm, chạy đến đỡ lấy xác con. Bà con trong vùng cũng vừa chạy đến. Họ đem xác cô gái về chôn cất rồi lập đền thờ. Nhưng cô gái đâu chịu chết như vậy. Vì cô biết rằng cha mẹ chị mình cùng bà con vùng trong, vùng ngoài đều yêu quý mình, mà cô cũng yêu quý và muốn sống với họ. Cô xin thần Đất giúp cô biến thành một con chim lông vàng rực rỡ, một con chim chưa ai thấy bao giờ rồi bay về quê nhà xin gặp ông Táo đá núi:
- Ông ơi! Cháu bị con quái quấn chết. Nhưng cháu mà chết thì mẹ cháu, chị cháu làm sao sống nổi. Vậy đêm nay hăm ba Tết, ông có về trời ông hãy tâu với trời cho cháu sống lại...
Ông Táo đá núi liền hứa:
- Được, ông sẽ tâu giúp cho cháu...
Con chim lông vàng rực rỡ liền bay xuống chỗ mẹ và chị đang ngồi, kêu lên mấy tiếng rồi bay đi. Cũng vừa lúc đó người mẹ và chị biết tin là cô gái nhỏ đã không còn nữa. Bà mẹ ngã ra chết giấc bên bếp lửa. ông Táo đá núi liền đưa hai bàn tay ấm nóng áp vào trán cho bà tỉnh lại và nói ngay:
- Bà cứ yên tâm. Đêm nay về trời, tôi sẽ xin trời cho cháu sống lại.
Hai mẹ con nghe nói mừng quá liền sụp xuống lạy tạ ơn. Ông Táo đi tối hăm ba thì tối hăm tám ông trở về hạ giới. ông nói với hai mẹ con:
- Trời rất thương cô bé nhưng cháu chết đã quá ngày, xin sống lại quá chậm. Vì vậy trời chỉ có thể cứu cho cháu mỗi năm sống lại được chín ngày.

Hai mẹ con nghe nói vừa buồn nhưng cũng vừa mừng. Thôi cứ được trông thấy con, thấy em trong giây lát cũng đã đỡ khổ rồi. Huống gì lại được thấy đến chín ngày. Bà mẹ liền hỏi:
- Ông ơi! Bao giờ thì cháu sống lại được?
- Tùy hai mẹ con cứ cầu trời sống từ ngày nào, trời sẽ cho ngày ấy.
- Vậy nhờ ông xin cho cháu sống lại ngay đêm nay!
- Đêm nay thì chưa được, sớm nhất là phải từ đêm mai!
- Vâng, ông xin cho cháu sống lại từ đêm mai vậy!
Hai mẹ con suốt đêm hôm ấy cứ thức mãi. Cả ngày hôm sau, hai mẹ con đều chẳng muốn làm gì. Chỉ mong cho trời chóng tối. Chờ mãi rồi trời cũng tối thật. Hai mẹ con hồi hộp đợi, không biết con mình, em mình sẽ sống lại trở về như thế nào. Định khấn gọi ông Táo thì bỗng nghe ngoài cổng có tiếng gọi:
- Mẹ ơi! Chị ơi!
Hai mẹ con vụt chạy ra và thấy đúng là cô gái nhỏ đã trở về. Trong chiếc áo vàng vẫn sáng lên nhìn rất rõ. Ba mẹ con ôm nhau khóc như mưa. Ngày hôm sau người cha cũng từ vùng trong trở về. Dọc đường thương con, thương vợ ông chưa biết sẽ nói gì cho vợ và con ở nhà đỡ khổ. Không ngờ khi về đến nhà đã thấy cô gái nhỏ đang nằm ngủ bên cạnh mẹ và chị. Ông dụi mắt tưởng là con bé nhà ai đến chơi. Khi biết cô gái nhỏ đã được sống lại, trở về ông liền ôm chầm lấy con và cứ để cho nước mắt chảy dài trên má.
Cô gái nhỏ ăn Tết với cha mẹ và chị đúng chín ngày. Trong chín ngày đó, cô gái nhỏ dành làm hết mọi công việc để giúp cha mẹ, giúp chị. Nhưng cả nhà lại không muốn cô gái làm việc gì. Trong chín ngày, họ sống bù cho cả một năm sắp phải xa nhau. Đến đêm thứ chín trời vừa tối, cô bé vừa kịp ôm lấy cha, mẹ và chị để chào ra đi thì người cô bỗng cứ mờ dần như sương khói rồi biến mất. Cả nhà buồn rầu, thương nhớ cô gái nhỏ vô cùng. Nhưng nghĩ đến chuyện Tết năm sau, cô sẽ về, mọi người lại ôn ủi nhau, lại kiên nhẫn chờ đợi... Và năm sau, cũng vào chiều hai chín Tết, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về ăn Tết với gia đình rồi đến tối mồng Bảy lại ra đi... Năm nào cũng thế. Nghe chuyện lạ, người vùng trong liền cử người ra mời cả gia đình vào sinh sống trong đó để bà con được trả ơn và gặp lại cô gái nhỏ đã giúp bà con diệt được con quái đầu người mình trăn. Thấy sức người cha đã suy yếu, cả nhà bàn với nhau và nhận lời. Từ đấy hàng năm, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về sống chín ngày cuối năm, đầu Xuân với cha mẹ, với bà con vùng trong. Khi cha mẹ và chị đều mất cả, cô gái không về nữa. Cô hóa thành một cây hoa ngay ở ngôi đền bà con đã dựng lên để thờ cô. Cây ấy hầu như cả năm chỉ có lá, nhưng cứ vào khoảng gần Tết, hoa lại nở đầy. Hoa màu vàng tươi như màu áo của cô gái nhỏ ngày trước.
Hoa vui Tết với bà con khoảng chín mười ngày rồi rụng xuống đất, biến mất để năm sau lại trở về. Cây hoa ấy ngày nay ta gọi là cây Mai Vàng. Ngày Tết ở miền Trung và ở Nam Bộ, bà con thường mua một cành mai vàng về cắm trên bàn thờ ông bà. ôi cũng tin rằng, có cành mai vàng vừa đẹp nhà vừa vui Tết lại vừa có thể xua đuổi được hết các loài ma quái trong suốt cả năm
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa Huệ tây

post-446-1096466121_thumb.jpg


Những giọt nước mắt nào có giúp được gì! Giắc sẽ phải lên đường chinh chiến ở một xứ xa lạ, đành bỏ lại Lilia, người vợ chưa cưới của mình trên đất Pháp. Lúc chia tay, Giắc rút trái tim ra khỏi lồng ngực mình, trao cho Lilia và nói:

- Đã là chiến binh thì phải sống không có tim. Trái tim chỉ gây phiền hà cho ta. Nàng hãy giữ lấy nó chờ ta về.

Lilia giấu trái tim của Giắc vào một cái tráp bạc và từng ngày, từng ngày chờ đợi người yêu quay trở về. Với một người đang trông đợi thì thời gian mới chậm chạp làm sao! Một ngày dài bằng cả năm, một năm bằng cả thế kỷ. Dù Lilia có làm gì và có đi đâu thì cái nhìn của nàng lúc nào cũng hướng về phía mà Giắc đã ra đi. Nàng đã mất thói quen tính ngày, tính tháng. Một lần nàng rất phẫn uất khi người cha nói với nàng:

- Con gái của ta, thế là đã mười năm trôi qua kể từ ngày người yêu cả con xông pha nơi trận mạc, không chắc nó có hồi hương. Đã đến lúc con phải lo tấm chồng khác rồi đấy.

- Cha ơi, cha mà lại nói với con như vậy ? - Nàng đau đớn nói với cha, Giắc đã trao trái tim của chàng cho con rồi và bây giờ trái tim ấy đang ở chỗ con, con không thể nào quên Giắc được đâu cha ạ.

Người cha chỉ biết lắc đầu, thở dài não nuột. Chắc chắn là ông không thể sống cho đến ngày ông được bế trên tay một đứa cháu trai.

Lại mười năm nữa qua đi, cuộc chiến cũng vừa tàn, các chiến binh liên tục trở về, người thì chống nạng, kẻ thì tay áo lủng lẳng. Lilia chờ đợi Giắc, nàng hỏi tin chàng khắp nơi, nhưng vẫn chẳng nhận thêm được điều gì.

- Có lẽ chàng đã phải lòng người con gái khác và ở lại xứ người rồi, - có lần em gái Lilia tỏ ý nghi ngờ, song Lilia không thể tin điều đó.

- Chàng có thể yêu người khác sao được một khi trái tim chàng đang còn ở chỗ ta? Một người không có tim thì không thể yêu được!

Chiến tranh đã qua rồi, nhưng một con người không có trái tim như Giắc, suốt trong những năm tháng ấy chỉ quen chém giết, cướp bóc không biết ghê tay, bây giờ chàng sống theo kiểu khác rồi. Chàng trở thành thủ lĩnh một băng cướp ở xứ người và nhiều khi còn trấn lột vàng bạc của quý của người qua đường.

Khi tên cướp già Pie bị ốm, Giắc đã thẳng tay đuổi ra khỏi băng cướp. Sau này, khi quyết định phải trả thù thủ lĩnh, Pie liền tìm đường về quê hương của Giắc với mong muốn kể cho họ hàng thân thích và người quen biết Giắc hiểu rõ rằng, Giắc đang làm một công việc tầm thường như thế nào.

Pie phải đi mất cả chục năm mới về tới nước Pháp vậy mà vẫn không tìm thấy làng quê của Giắc. Và người đầu tiên mà gã ta gặp là một bà già tóc đã bạc phơ, có cái nhìn khắc khoải.

- Bà có biết Giắc không? - Pie hỏi.

- Ôi lạy chúa, ông hỏi tôi về chuyện gì vậy? - người đàn bà kêu lên - Giắc là chồng chưa cưới của tôi, là người tôi đang mòn mỏi trông chờ, tôi không biết sao được? Hãy làm ơn nói mau, hiện chàng đang ở đâu và chàng đã gặp điều gì chẳng lành?

Pie thấy trong cặp mắt người đàn bà vẫn còn đang cháy lên niềm hy vọng, và gã hiểu ngay rằng bà vẫn còn yêu Giắc cháy bỏng như thời còn son trẻ. Gã không nỡ nói hết sự thật kinh hoàng về Giắc.

- Vậy ra bà là vợ chưa cưới của Giắc đấy! Pie thốt lên.

- Phải, tôi là Lilia, chúng tôi đã thề nguyện với nhau.

- Ôi, tôi mang đến cho bà một tin buồn - Pie cụp mắt xuống - Giắc đã lao vào cuộc chiến như một dũng sĩ.

Anh ấy mới yêu bà làm sao! Trước lúc nhắm mắt, anh ấy cứ nhắc mãi cái tên của bà - Lilia.

"Giắc của ta đã chết và đã yên giấc ngàn thu - Lilia đau buồn nghĩ - Nhưng chàng nằm xuống đất sao được khi chàng không có tim? Ta phải đi tìm mộ chàng và trả lại cho chàng trái tim nhân hậu đáng yêu".

Ôm cái tráp bạc, Lilia bắt đầu một cuộc hành trình gian khổ đến những miền đất xa xôi. Bà mất cả thói quen tính ngày, đếm tháng, nhưng gặp ai bà cũng hỏi thăm đường. Mọi người can ngăn bà không nên đi tiếp khi chỉ có một mình, vì biết đâu sẽ gặp bọn cướp ác độc, song Lilia không nghe. Quả nhiên, đến một khúc đường ngoặt, bà bị mấy tên cướp râu xồm trấn mất cái tráp đựng báu vật. Bà khóc lóc, vật nài, kể lể về mối tình bất hạnh của mình với Giắc, nhưng tất cả điều đó không hề làm bọn cướp động lòng. Bọn cướp mang cái tráp về dâng thủ lĩnh. Chúng vừa cười hô hố vừa thuật lại chuyện một bà già mất trí đi tìm mộ chồng để trao cho chồng trái tim mà ông ta đã trao cho bà làm tin trước lúc ra trận.
Trong lúc bối rối, thủ lĩnh toán cướp bèn mở tráp ra và trông thấy trái tim của chính mình mà bao năm tháng qua đã bị mất. Và thật lạ lùng, trái tim đã nói với người chủ của nó bằng tiếng nói của con người:

- Nếu còn là người, chớ có nói cho Lilia biết người là cái hạng gì. Hãy cứ để cho Lilia tin rằng người đã chết, như vậy bà ta sẽ giữ được trọn vẹn những kỷ niệm tốt đẹp về người.

Giắc vội vàng đậy nắp tráp lại và ra lệnh cho bọn đàn em phải đem trả lại ngay cho bà già, đồng thời phải chỉ cho bà thấy một nấm mộ cỏ mọc xanh rì, làm như đó là mộ của Giắc. Dọc đường đi, bọn cướp quyết định giữ cái tráp lại, song chúng vẫn không quên chỉ cho Lilia nấm mộ theo ý của Giắc.

Người đàn bà bất hạnh giờ đây vẫn còn mang tình yêu với Giắc như hồi còn trẻ, và bà không nỡ rời bỏ Giắc khi Giắc không có trái tim bên mình. Thế rồi bà đã lôi trái tim từ lồng ngực của mình ra vùi xuống nấm mộ, nơi bà nghĩ có hài cốt của Giắc.

Từ nơi trái tim ấy đã mọc lên một bông hoa, mà đời nay vẫn gọi là HOA HUỆ tây. Loài hoa tượng trưng cho sự trinh trắng, lòng chung thuỷ và cao thượng.
 
L

ly_lovely_16111997

Sự tích hoa Phụng tiên

302079808_50b30521b1_o.jpg


Niềm vui duy nhất trong đời của bà thợ cày Mađara là cô con gái Rôta. Rôta quả là một cô gái hiếm thấy - nước da rám nắng, hay lam hay làm, tính tình xởi lởi. Mới sáng ra nàng đã gặt được gần nửa cánh đồng lúa, chiều đến, trên đường trở về, nàng luôn miệng ca hát.

Việc luôn chân luôn tay, vậy mà cô gái cứ như bông hoa bừng nở, có dễ kiếm khắp làng cũng không có bông hoa nào sánh được với nàng. Chính người làm vườn của trang trại cũng rất thích được ngắm nghía rừng hoa của Rôta đang độ khoe sắc. Mặc dù tên điền chủ đã mang về nhà đủ loại hạt giống và cây non, nhưng loại hoa như của Rôta thì y lại không có. Vậy nàng đã kiếm đâu ra? Rôta vừa mỉm cười vừa đáp:

- Bầy chim non đã mang hạt giống từ miền xa lạ về cho tôi đấy. Tôi không nói dối ngài đâu.

Về mùa Xuân, khi đàn chim én bay đến sớm, hy vọng tìm nơi ấm áp trú ngụ, Rôta thường bắt chúng nhốt vào lồng, đưa vào trong nhà nuôi dưỡng, chăm bẵm và khi mùa lạnh qua đi, nàng lại thả chúng về trời. Bầy chim thơ dại muốn đền đáp ơn huệ của nàng Rôta tốt bụng, song nàng chỉ mỉm cười, nói:

- Ta cần thật nhiều loại giống hoa của các miền xa lạ. Chim hãy mang về cho ta!

Bầy chim đã giữ lời hứa. Rôta lấy làm sung sướng được chia sẻ với chị em vì sự phong lưu của mình. Người thì nàng cung cấp hạt giống, kẻ thì nàng cho cây non. Nàng càng tỏ ra hào hiệp với mọi người bao nhiêu, hoa trong vườn nhà nàng càng đơm hương, khoe sắc rực rỡ bấy nhiêu. Duy chỉ có Kexta, người đàn bà ở bên cạnh là nàng không bao giờ cho một hạt giống nào, mặc dù bà ta có hỏi xin.

- Con ngặt nghèo với láng giềng gần như thế để làm gì? - Mẹ phàn nàn với Rôta, nhưng nàng lại đáp, giọng dứt khoát:

- Con sẽ không cho mụ rắn độc này dù chỉ là một bông hoa nhỏ.

Kexta không phải là rắn độc mà là chủ nuôi rắn. Ai cũng biết mụ ta thường nuôi đến bảy con rắn độc trong nhà và lần lượt cho chúng bú sữa của mình.

Một hôm, sau khi đã bú no, con rắn đầu tiên nói nhỏ vào tai mụ :

- Vì sao hoa của nhà Rôta lúc nào cũng bừng nở, còn hoa nhà bà thì không?

Kexta nổi cơn tam bành, dẫm nát hết vườn hoa của Rôta, thậm chí cả hàng rào cao bao quanh khu vườn mụ cũng phá đi.

Con rắn thứ hai ỉ eo :

- Nếu bà có nhiều hoa đẹp, bà có thể đem ra chợ bán, bà sẽ thu được cơ man nào là tiền!

"Ôi, tiền! Tiền! Ta sẽ tích góp được nhiều tiền!" Kexta như một kẻ điên khùng. Lúc ấy có một người lạ mặt đói rách ghé vào sân nhà mụ xin ăn, con rắn thứ ba xúi:

- Chớ có phung phí tiền của nhà mình, dù cho hắn chết ngay tại đây!

Người lạ mặt liền bỏ sang nhà khác xin ăn. Thế rồi con rắn thứ năm lại phun phì phì vào tai mụ những lời đường mật:

- Mẹ bà đã còng lưng vì bà rồi, vậy bà làm việc để làm gì? Tốt nhất là bà nên nằm khệnh với chiếc chăn bông, gối nhung kia mà nghỉ cho khoẻ.

Kexta nằm ườn ra giường. Con rắn thứ sáu lại khích bác bà:

- Láng giềng ở đây rất tốt bụng với nhau. Bà thử xúi họ cãi nhau xem sao.

Thế là Kexta vùng dậy, chạy ngay sang nhà ở Babenca vốn nhẹ dạ và hay ba toác, ruột để ngoài da.

- Này, Babenca, ta đã bắt quả tang chồng mi hay trèo qua cửa sổ sang nhà con Rôta đó.

Mới nghe nói thế, cái lưỡi của Babenca đã liến láu tứ bên. Ả xộc ngay sang nhà kẻ tình địch. Nhưng con rắn thứ bảy mới là đáng gờm nhất. Nó luôn luôn rủ rỉ bên tai Kexta:

- Phải bằng mọi cách quấy rối cuộc sống của con người. Làm sao cho cả ngày lẫn đêm họ không thể sống yên.

Và mụ Kexta đã nghĩ ra một quỷ kế. Mụ buộc con chó vào đầu một sợi dây ngắn và đặt cách con vật không xa lắm một đĩa thức ăn thơm phức. Con chó ban ngày thì sủa ông ổng, tối đến cứ rống lên thảm thiết khiến láng giềng không sao chịu nổi.

Bà chủ rắn là một con người như thế, Rôta không thể đem hoa cho mụ ta được. Còn Rôta, lẽ ra nàng đã lấy chồng, đã sinh con, đẻ cái và được hưởng một cuộc đời hạnh phúc, nếu không có đợt săn lùng phù thuỷ do đám chức sắc trong vùng dấy lên. Sự cố này như một làn sóng rất xa, bắt đầu từ xứ sở mặt trời lặn và kết thúc ở nơi mặt trời mọc. Lũ sai nha trong làng Rôta đem chiếu chỉ của quan trên về lập danh sách những người bị coi là phù thủy. Nhưng phù thủy ở đâu? Đó là câu hỏi làm lũ sai nha phải đau đầu. Chúng bèn treo giải thưởng lớn cho người nào có công phát giác phù thủy.

Lập tức, bảy con rắn độc đồng thanh mách Kexta:

- Thế là bà có dịp trả thù con Rôta nanh nọc rồi đó. Bà hãy đến gặp các quan và tâu rằng chính nó là phù thủy. Bà còn được thưởng tiền nữa đấy.

Bà chủ rắn chỉ chờ có thế. Mụ te tái chạy đến gặp các vị chức sắc và không ngớt lời vu cáo Rôta:

- Cớ sao hoa vườn nhà nó lại nở nhiều và tươi tốt như vậy? Nhờ phép tà đấy! Vì sao lũ chim lại giúp nó? Có phép tà đấy! Vì sao lúc nào nó cũng hát với hỏng?

Các vị chức sắc cả mừng vì đã tìm được phù thủy, chúng bất chấp cả lệ làng, chẳng tin bất kỳ một lời nói trung thực nào, chỉ tin lời mụ chủ rắn. Rôta bị chúng đem thiêu đốt trên giàn lửa. Sau đó chúng tâu lên triều đình rằng an ninh ở làng quê đã trở lại bình thường.

Mùa xuân tới, bầy chim từ khắp các miền xa xôi bay tới đậu trên cửa sổ nhà Rôta cùng với rất nhiều loại giống hoa. Bầy chim rất đỗi kinh ngạc khi thấy một bà lão lưng còng ra mở cửa sổ chứ không phải là Rôta.

Mađara, mẹ của Rôta, đã đem những hạt giống trồng vào một chậu hoa. Chẳng bao lâu người ta thấy có những bông hoa đỏ như lửa mọc lên.

- Những bông hoa đáng yêu của ta! Các người khác nào cặp má hồng hào của Rôta! Các ngươi sẽ là phương thuốc thần hiệu giúp ta trị vết thương nơi trái tim.

Từ đó, hễ có người nào bị nỗi cay đắng dày vò, bà mẹ Rôta lại đem giống dầu thơm đó phân phát cho họ. Chẳng bao lâu trên khắp các cửa sổ các gia đình nghèo đều nở óng ánh những bông hoa đỏ tươi - đấy chính là Hoa Phụng Tiên.
 
Top Bottom