- 29 Tháng mười 2018
- 3,304
- 4,365
- 561
- TP Hồ Chí Minh
- THCS Nguyễn Hiền
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
Lời người viết: phần này được viết theo các sử liệu tản mạn và chọn lại từng đoạn để trình bày cho dễ hiểu nhất (phần này và phần kế là "Ngũ Hồ 16 nước, Nam - Bắc triều" chưa được trình bày một cách có hệ thống). Sử liệu chính thống của phần này là Tấn thư hiện chưa được dịch ra tiếng Việt. Bài này chia thành hai phần: Tây Tấn và Đông Tấn
1. Tình hình chính trị
A. Tây Tấn (265 - 316)
* Tấn Vũ đế (265 - 290):
vua Tây Tấn Vũ đế
+ Tổ chức chính quyền:
Sau khi đánh bại được Thục Hán và Đông Hán, vua Vũ đế nhà Tây Tấn chính thức thống nhất được Trung Quốc, đóng đô ở Lạc Dương. Do Lạc Dương ở phía tây nước Tấn, nên triều đại có tên là Tây Tấn (265 - 318). Khi Tấn Vũ đế chính thức cai trị Trung Quốc thống nhất, quyền lực của ông ta được mở rất rộng, về phía bắc đến trung tâm Triều Tiên và phía nam đến hết Giao Châu (Âu Lạc cũ)
Bản đồ Trung Quốc thời Tấn Vũ đế
Tấn Vũ đế thiết lập chính quyền mới ở kinh đô Lạc Dương (sau đây gọi tắt tên triều đại theo tên kinh đô). Hoàng đế chia bộ phận quan lại là Bát công (gồm Thái tể, Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Tư đồ, Tư không, Đại tư mã, Đại tướng quân) nhưng không có thực quyền. Ngoài ra có Tam sảnh (Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh và Môn hạ sảnh). Chức "Thượng thư sảnh" có quyền thế rất lớn, đứng đầu là Thượng thư lệnh và Thượng thư bộc xạ làm phó - dưới hai ông này là Phân tào thượng thư (Lại bộ, điền trung, điền tào, ngũ minh, độ chi, tả dân, thượng thư lệnh, thượng thư bộc xạ) và Lục tào thượng thư (Thượng thư lang - do Lục tào quản lý tới 35 người) => Tổ chức "Tam sảnh" tương đương với Lục bộ ngày nay. "Trung thư sảnh" coi về văn thư; "Môn hạ sảnh" để can gián Hoàng đế. Hoàng đế Tây Tấn cho mở rộng cơ quan Chiêm sự phủ để quản lý và dạy học cho Thái tử và cơ quan này không có thực quyền gì; nhưng một khi Thái tử lên ngôi thì những người này nhanh chóng leo lên.
+ Pháp luật:
Luật đời Tấn do Giả Sung, Đỗ Dự cùng các pháp quan khác biên soạn, ban hành vào năm 267 thời Tấn Vũ đế. Bộ luật có 20 thiên, 620 điều. Trong bộ luật quy định rõ về chế độ trang phục - ai vi phạm trong đó sẽ bị tử hình; giảm nhẹ hình phạt mua chuộc nhân tâm; bỏ hình phạt cấm cố thời hán mạt.
+ Phân phong cho chư hầu:
Để có thể sự ủng hộ của quý tộc và dễ dàng đàn áp khởi nghĩa nông dân, Vũ đế chia nước ra thành 19 châu. Vì muốn có sự ủng hộ của các phiên vương (vì họ ủng hộ mà ông lên được ngôi Hoàng đế), Hoàng đế Tây Tấn hào phóng cung cấp cho các phiên vương một lực lượng quân đội khá lớn theo nguyên tắc: Nước phong có 2 vạn hộ là nước lớn, quân sĩ 5.000 người; Có 1 vạn hộ là nước vừa, quân sĩ 3.000 người. Nước có 5.000 hộ là nước nhỏ, quân sĩ có 500 người. Theo một số nhà nghiên cứu, chính sách của Tấn Vũ đế là rất tốt vì giúp Hoàng đế có được sự ủng hộ của các phiên vương (như đầu thời Tây Hán). Nhưng khác với vua Hán Cao tổ, Văn - Cảnh của Tây Hán chủ trương kìm chế sức mạnh của phiên vương ngay từ đầu, Tấn Vũ đế không có một chủ trương nào kìm chế thế lực phiên vương quá hùng mạnh này. Theo "Kể chuyện Lưỡng Tấn Nam-Bắc triều", Thẩm Khởi Vĩ cho rằng đây là sai lầm cực đoan mà sau này, viên quan Lục Nghị có cảnh báo về sự sụp đổ của nhà Tây Tấn do sai lầm này của Hoàng đế
+ Đối phó với quân Ngũ Hồ:
- Sau khi chính thức lên ngôi vua Tây Tấn, Vũ đế bắt đầu ra kế hoạch các chiến dịch quân sự chống người Tiên Ti và người Khương ở Tần Châu, Lương Châu (Cam Túc), trước khi tiêu diệt Đông Ngô. Năm 271, người Tiên Ti nổi dậy ở Lũng Hữu; vua Tấn sai tướng đem quân đàn áp người Tiên Ti, đến năm sau tình hình Lũng Hữu mới yên ổn. Tuy nhiên ở phía bắc, Hữu hiền vương Nam Hung Nô là Lưu Mãnh lại dấy binh chống lại nhà Tấn ở Tinh Châu (Sơn Tây), sau cũng bị trấn áp.
- Vừa đánh tan quân Đông Ngô, tướng Quách Khâm khuyên nhà vua nên điều lưu dân ngoại tộc trở về bản quán để tách họ với người Hán, đồng thời điều quân ra biên giới phía bắc để canh phòng; nhưng vua không nghe theo. Cuối thời Vũ đế, trào lưu bài trừ lưu dân diễn ra mạnh mẽ - nhất là sau khi Vũ đế vừa qua đời không lâu.
+ Với gia quyền của các vua Ngụy, Thục Hán và Đông Ngô bại trận: vua Tấn Vũ đế rất khoan hòa. Vua Ngụy Nguyên đế sau khi bị ông ta phế, liên được triều đình Lạc Dương cho hưởng lễ nghi của hoàng đế, khi dâng biểu không cần xưng "thần". Vua Ngô Tôn Hạo thì hưởng cuộc sống đầy đủ, trong khi trên 5.000 mĩ nữ của ông thì bị vua Tấn thu nạp hết vào hậu cung Lạc Dương. Còn vua Thục Hán Lưu Thiện thì triều đình nhà Ngụy phong cho ông làm An Lạc huyện công. Những người con của Lưu Thiện đều được phong cho chức tước.
+ Chính sách cai trị nhân dân: chịu ảnh hưởng của Đạo giáo, Tấn Vũ đế ban ra 5 chiếu thư:
+ Ông vua xa xỉ:
- Sau khi ổn định xong đất nước, vua Tấn lao ngay vào lối sống xa xỉ: thích xây cất nhiều cung điện, việc ăn mặc cũng rất xa xỉ. Lối sống xa hoa của ông ảnh hưởng khắp cả nước. Các quan lại và bọn nhà giàu đua nhau bắt chước theo, khoe khoang sự giàu có, thi xem ai giàu hơn. Điển hình là việc đua của báu giữa Thạch Sùng và Vương Khải. Vương Khải thết tiệc đãi khách và sai thị tì mời rượu, nếu khách quá sau mà không cạn chén thì giết ngay tại chỗ. Lan truyền câu chuyện đua của báu giữa Thạch Sùng và Vương Khải như sau: Một hôm, Vương Khải và Thạch Sùng cạnh tranh nhau về sự giàu có. Vương Khải nói:
Nhà tôi lấy mật rửa chảo.
Thạch Sùng nói:
Nhà tôi lấy nến bạch lạp làm củi.
Các quan nghe vậy liền bảo rằng:
Lời nói không lấy gì làm bằng, muốn biết ai hơn kém thì phải lấy những thứ quý nhất đem ra, hễ ai nhiều thì được.
Vương Khải bèn lấy trướng lụa đem ra trải đường được 40 dặm. Thạch Sùng cũng đem trướng lụa ra trải, dài được 50 dặm. Vương Khải dùng phấn đá đỏ quét vôi nhà thì Thạch Sùng lại dùng hồ tiêu quét lên vách.
Các quan trong triều thấy Thạch Sùng đều hơn nên rất khen ngợi. Vua Tấn Vũ đế thấy Vương Khải kém thế nên tặng cho Vương Khải một cây san hô cao hai thước. Vương Khải liền đem cây san hô ra thi. Thạch Sùng liền lấy cây gậy ngọc Như Ý đập cây san hô ấy vỡ tan. Vương Khải cả giận nói:
Túc hạ không có của quý như thế mà đem thi, nên mới đập cây san hô của ta!
Thạch Sùng vội đáp:
Xin ngài đừng vội giận, ta xin đền cây khác lớn hơn.
Nói rồi xin trở về nhà đem đến bốn cây san hô đều cao bốn thước, sáng rực, lấy một cây đền cho Vương Khải.
Các bạn hai bên đều xin hòa, ai trở về nhà nấy.
* Ngoài ra, vua Tấn Vũ đế nổi tiếng có quá nhiều cung phi: trên 1 vạn người. Ban đầu khi mới lên ngôi, Tấn Vũ Đế nổi tiếng là một người rất sợ vợ. Vì sao ư? Vì vợ của ông cũng là một trong những đại mỹ nhân nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa - Hoàng hậu Dương Diễm. Sau khi hoàng hậu vừa mất, Vũ đế ra lệnh ra lệnh “cấm dân chúng tiến hành hôn lễ, dựng vợ gả chồng. Nhà ai có ý định giấu con gái hoặc kháng lệnh sẽ bị trừng phạt” (trích sách "Võ Nguyên Dương hoàng hậu truyện"). Sứ giả của nhà vua cưỡi xe phi tới các châu, quận để truyền lệnh vua ban. Nhiều gia đình giàu có đã phải cho con cái ăn mặc rách rưới hoặc giả bệnh để tránh việc bị tuyển vào cung.
Năm Thái Thủy thứ 9 toàn bộ hôn lễ đều bị hủy bỏ, tất cả mỹ nữ trong nước kể cả người đã là vợ chưa cưới của người khác cũng bị liệt vào danh sách mỹ nữ tiến cung cho vua Tấn Vũ Đế. Tư Mã Viêm còn đặc biệt yêu cầu con gái của các vị đại quan trong triều cũng phải vào cung ứng tuyển, nếu kháng lệnh sẽ bị xử tội. Những gia đình quý tộc không dám trái lệch vua, đành phải chuẩn bị cho con gái mình thật xinh đẹp để tiến cung.
Qua một lượt tuyển chọn, Tấn Vũ Đế là sở hữu trong tay rất nhiều người đẹp thời đó, bất luận là người đã có hôn ước hay là người chuẩn bị làm cô dâu tương lai thì cũng đều phải tiến cung. Bỗng chốc số lượng mỹ nhân trong hậu cung tăng lên tới năm ngàn người.
Vài năm sau, quân Tây Tấn đánh thắng quân Ngô. Tấn Vũ Đế nghe nói người đẹp Giang Nam không giống với mỹ nhân Bắc Kinh, nhất là người đẹp ở Ngô Việt thùy mị, kiều diễm, khiến người khác vô cùng mê mẩn. Bởi vậy Tư Mã Viêm lại hạ lệnh tuyển mỹ nữ Giang Nam tiến cung. Được biết, ngay sau khi vua Ngô qua đời, Tấn vương bèn ban lệnh đưa tất cả mỹ nữ trong cung của vua Ngô đem vào hậu cung của mình.
Ảnh minh họa hậu cung của vua Tấn Vũ đế
Mỹ nhân trong cung Tấn Vũ Đế vốn đã nhiều, nhưng sau khi thu phục được nước Ngô, số lượng mỹ nữ còn lên tới hàng nghìn người. Một năm 365 ngày, nếu mỗi đêm Tấn Vũ Đế chỉ “sủng ái” một mỹ nhân, vậy phải mất bao nhiêu năm ông mới “sủng ái” được một vạn mỹ nhân của mình. Trong hàng ngàn mỹ nhân ấy, việc qua đêm với cô nào trước, cô nào sau cũng khiến Tư Mã Viêm vô cùng đau đầu.
Xe dê của Tấn Vũ đế
Cuối cùng Tư Mã Viêm cũng nghĩ ra một cách đó là ông thường ngồi xe dê đi trong cung để chọn mỹ nhân qua đêm, cứ ngồi trên xe cho dê dẫn đi, dê dừng ở đâu thì ông sẽ ngủ lại ở đó. Những mỹ nữ được qua đêm cùng với nhà vua tất sẽ được bạn thưởng sự sủng ái. Có mỹ nhân nghĩ ra cách vảy nước muối vào lá trúc cài trước cửa để thu hút dê tới cửa phòng mình nhằm đạt được sự sủng ái từ Tư Mã Viêm. Tuy nhiên, phương pháp hay sau cùng cũng bị lộ. Các mỹ nhân thi nhau dùng muối dụ dỗ con dê, khiến muối trong hậu cung hiếm rất là. Con dê ăn nhiều muối quá, sinh bệnh, lăn ra chết. Rồi đến hàng chục con dê sau đó cũng như vậy!
Bên cạnh việc hoang dâm vô độ, Vũ Đế còn là một vị Hoàng đế sống xa hoa, thích xây cất nhiều cung điện, việc ăn mặc cũng rất xa xỉ. Lối sống xa hoa của ông ảnh hưởng khắp cả nước. Các quan lại và bọn nhà giàu đua nhau bắt chước theo, khoe khoang sự giàu có, thi xem ai giàu hơn.
Cuối thời Tấn Vũ đế, Hoàng đế hỏi đại thần là Lưu Nghị rằng:
Khanh thấy trẫm có thể so sánh với vị hoàng đế nào của nhà Hán?
Ý của vua muốn được so sánh với Cao đế, Vũ đế, Quang Vũ đế hoặc chí ít cũng như Văn đế, Cảnh đế nhưng Lưu Nghị trả lời:
Bệ hạ chỉ có thể ví mình với Hoàn đế, Linh đế thôi.
Vũ Đế tức giận, hỏi tại sao, Lưu Nghị đáp:
Hoàn Đế, Linh Đế bán quan tước lấy tiền nhưng vẫn cho vào trong quốc khố. Bệ hạ bán quan tước lấy tiền nhưng lại sử dụng cho riêng mình, như vậy là ngay cả Hoàn Đế, Linh Đế bệ hạ cũng không bằng.
Vũ Đế giận lắm, nhưng đành phải cười trừ:
Sao trẫm lại giống Hoàn Đế, Linh Đế được? Trẫm ít ra còn có trung thần dám nói sự thật như khanh.
Năm 290, Tấn Vũ đế qua đời
* Tấn Huệ đế (290 - 306)
Tấn Huệ đế
Theo sử cũ, Tư Mã Trung (tên lúc lên ngôi của Tấn Huệ đế) là ông vua thiểu năng trí tuệ, đôi khi không thực hiện nổi một hoạt động thường ngày. Ông ta lên ngôi được là do vợ là hoàng hậu Giả Nam Phong cấu kết với quần thần khiến Tấn Vũ đế lập ông này làm Thái tử, thay vì chọn người cháu trai thông minh Tư Mã Duật
Tháng 5/290, Tư Mã Trung chính thức lên ngôi với hiệu là Tấn Huệ đế. Vừa lên ngôi, ông ta giao hết việc chính sự cho các quyền thần Dương Tuấn, Vệ Quán, hoàng hậu nhiếp chính...., còn nhà vua chơi đùa với bọn thái giám. Khi cùng với các đại thần bàn chuyện chính sự, một đại thần nói: "Dân chúng chạy loạn khắp nơi". Vua hỏi: "Dân chúng không có bánh màn thầu hay sao ?" Đại thần nói: "Dân chúng lấy đâu ra bánh màn thầu để ăn ?" Vua trả lời: "Vậy cho họ húp cháo thịt đi. Món đó thì chắc chắn nhà nào cũng có...", khiến đại thần cười ồ lên.
Chân dung Giả hoàng hậu
* Giả hoàng hậu chuyên quyền và sự bùng nổ "loạn bát vương" (291 - 300)
Trong triều đình Lạc Dương, hoàng hậu và các vương tử đấu tranh bè phái liên tục. Giả hoàng hậu thấy phe cánh của Dương Tuấn đang mạnh, bèn câu kết với các hoàng thân của vua Tấn chống lại. Theo sử cũ, Giả hậu rất xấu xí, những lòng dạ nham hiểm. Năm 291, bà ta câu kết với Tư Mã Vĩ và Tư Mã Doãn lập mưu đánh bại và ám hại Dương Tuấn, sát hại cả ngàn người họ Dương. Tiếp đó, Giả hoàng hậu lấy cớ Thái hậu Dương Chỉ có âm mưu làm loạn nên cho quân vào sát hại mẹ của Thái hậu là Bàng thị, nhốt Thái hậu vào lãnh cung cho chết đói. Tiếp sau, Giả hoàng hậu bắt đầu thanh trừng Tư Mã Vĩ. Bà ta sai quân đến đánh và giết Tư Mã Lượng, Vệ Quán; rồi vin vào danh nghĩa Hoàng đế để sát hại luôn Tư Mã Vĩ.
Như vậy, mọi quyền hành nằm trong tay Giả hoàng hậu. Việc chuyên quyền của Giả hậu, kích động các vương thất tranh quyền giết hại lẫn nhau đã khởi đầu cho loạn bát vương.
Nắm trọn đại quyền, Giả hoàng hậu thường bắt con trai ngoài kinh thành vào cung để tư thông; xong thì sát hại những người con trai này trong bí mật. Cuối cùng thì sự việc cũng bị lộ do một thanh niên từ trong cung của Giả hoàng hậu ra, bị quan bắt lại. Sau khi tra hỏi thì hóa ra số bạc vàng đó là từ hoàng hậu, và những chuyện về vị mẫu nghi xấu xí cũng từ đó mà dần bại lộ. Hoàng đế Tây Tấn về sau cũng biết hết, nhưng vì là một người sợ vợ, lại ngây ngô nên Huệ Đế đành ngắm mắt bỏ qua.
Ngoài chuyện trên, Giả hoàng hậu còn ra tay sát hại những cung phi của Tấn Huệ đế mà bà ta nghi là có "long thai". Giả hoàng hậu sống với nhà vua và chỉ sinh có 4 người con gái, nên bà ta luôn có thái độ ghen ghét, đố kị và luôn tìm cách hãm hại những phi tần đang mang thai khác. Thủ đoạn của Giả Nam Phong phải nói là thâm độc và hiểm ác vô cùng.
Như khi nghe tin một cung nữ mang thai với chồng mình, mật báo rằng đó có thể là con trai, Giả Nam Phong đã dựng lên một kịch bản hoàn hảo để phá đứa con trong bụng cung nữ này.
Một ngày đẹp trời, Giả Nam Phong lấy cớ hỏi thăm "long thai" nên mời vị cung nữ kia đến phủ mình. Biết là theo nguyên tắc thứ phi sẽ dâng trà nóng mới chánh cung, nên Giả Nam Phong chờ nàng đến, dâng trà mời mình rồi bà ta giả vờ để cốc trà nóng đổ lên người. Xong, lấy cớ bị xúc phạm, hoàng hậu sẽ đùng đùng nóng giận rồi lấy ngọn kích nhỏ cầm tay phóng thẳng đến người cung nữ. Sau cú phi này, người cung nữ đã bị thương và sảy mất thai rồng.
- Năm 299, Giả hoàng hậu dùng mưu ám hại Tư Mã Duật (con trai của nhà vua có với Tạ Cửu, một cung nhân của vua tiền nhiệm là Tấn Vũ đế): Tư Mã Duật rất thông minh lanh lợi, luôn được các triều thần đánh giá cao về khả năng trị nước sau này. Điều này đã làm cho vị hoàng hậu xấu xí Giả Nam Phong chướng tai gai mắt. Bà ta bèn lập mưu hãm hại Tư Mã Duật.
Tháng 12/299, Giả hậu đã sai người dụ thái tử uống rượu say rồi lừa viết bức thư phản nghịch. Thái tử Duật vì quá say không biết gì nên cứ thế chép lại nội dung do Giả hậu soạn sẵn. Giả hậu mang thư cho Huệ Đế xem để có cớ phế truất thái tử. Huệ Đế vốn là một người sợ vợ nên đành phải răm rắp nghe theo. Sau lần này, thái tử Tư Mã Duật bị phế làm thứ dân, còn Tạ Phi – mẫu hậu của Tư Mã Duật cũng bị Giả Nam Phong hành hạ cho đến chết. Về sau, lo sợ các quan lại sẽ phế truất mình, Giả hậu (hay Giả hoàng hậu) sai người đến đầu độc Tư Mã Duật trong cung.
* "Loạn bát vương" (300 - 306)
Cuộc nội chiến này xuất phát từ sau khi Tấn Huệ đế vừa mới lên ngôi được một năm; các vương đấu tranh lẫn nhau và đồng thời đấu tranh chống sự chuyên quyền của Giả hoàng hậu, các nhiếp chính. Cái chết của Tư Mã Duật đã châm ngòi cho "loạn bát vương" chính thức bùng nổ, kéo dài đến khi Tấn Huệ đế vừa chết (306) thì tạm kết thúc:
Loạn bát vương (tranh minh họa)
- Cái chết của Tư Mã Duật vào tháng 3/300 châm ngòi cho loạn Bát vương. Triệu vương Luân lấy cớ Giả hoàng hậu giết con riêng của Hoàng đế, bèn cất quân tấn công cung điện của Giả hoàng hậu; bắt sống Giả hoàng hậu và phe cánh. Riêng Giả hoàng hậu bị giam ở thành Kim Dung, rồi bị Triệu vương Luân sai người đến hạ độc chết; lúc mới 44 tuổi.
* Tháng 2/301, Triệu vương Tư Mã Luân theo kế của Tôn Du, buộc Tấn Huệ đế nhường ngôi. Ông lên ngôi và có hiệu là Kiến Thủy đế, tôn Huệ đế làm Thượng hoàng. Trong khi đó, Tề vương (người giúp Luân lên ngôi) chỉ được chức quan nhỏ, nên căm hận và sai người đi triệu tập các vương lật đổ vua mới. Quân các vương nhanh chóng đánh bại Kiến Thủy đế, rồi truất ngôi ông ta vào tháng 4/301, giam ở thành Kim Dung. Cuối năm 301, Tề vương sai người đến đầu độc Luân. Về sau, Tề vương cũng bị giết chết
- Năm 303, các vương họp binh chống đánh nhiếp chính Tư Mã Nghệ, phế ngôi vua của Tấn Huệ đế. Trong lúc hai bên đang đánh nhau thì Đông Hải vương Tư Mã Việt làm chính biến lật đổ Tư Mã Nghệ, bắt Nghệ giam rồi sau đó giết chết. Tư Mã Việt chính thức nắm quyền trong triều. Hai vương là Tư Mã Ngung và Tư Mã Dĩnh tức giận, mang quân đánh bại quân triều đình rồi ung dung tiến vào Trường An yêu cầu vua Huệ đế phế bỏ Dương hậu và Thái tử Tư Mã Đàm. Nhiếp chính Tư Mã Việt nghe tin bèn đưa quân ra đánh tan quân của Ngung và Dĩnh. Sau khi đánh thắng, Việt chủ quan nên bị Dĩnh đánh bại lần nữa. Dĩnh tiến vào Trường An, bắt giam Tấn Huệ đế. Việt sau thất bại đã ngầm nhờ Đô đốc Vương Tuấn sau cầu viện quân Hung Nô
- Cuối năm 303, Tư Mã Việt sai người sang nhờ cậy tướng của quân Hung Nô là Lưu Uyên giúp sức, phong ông ta chức Thiền vu. Không ngờ về sau, Lưu Uyên nhanh chóng huy động lực lượng lên đến 20 vạn quân và đến năm 304 thì Lưu Uyên xưng là Hoàng đế, lập ra nước Hán.
Không quan tâm đến họa xâm lược của Hung Nô, Tư Mã Dĩnh vẫn liên tục chuẩn bị chống đánh Tư Mã Việt. Bị thua trận với tướng Vương Tuấn, Dĩnh rút chạy về Trường An; lại phế bỏ Dương hậu và Thái tử rồi ung dung lên ngôi Hoàng thái đệ
- Tháng 11/304, Tấn Huệ đế đã về và được lập lại ngôi vị ở Trường An; quyền thế lọt vào tay Tư Mã Ngung và Trương Phương; Ngung bèn lập Tư Mã Xí làm Hoàng thái đệ. Phe của Tư Mã Dĩnh thấy Ngung chuyên quyền, lại nổi binh lên đánh tiếp và thắng hai trận liền với quân triều đình do Tư Mã Việt chỉ huy. Kinh đô ngày càng rối loạn, Tư Mã Việt bèn phục chức Hoàng thái đệ cho Dĩnh (thay thế Tư Mã Xí). Lúc này chỉ có ba vương chống đánh là Ngung, Dĩnh và Việt
- Tháng 12/305, Tư Mã Dĩnh bèn đem quân đánh chiếm thành Lạc Dương bỏ trống. Trong khi đó, Tư Mã Ngung đánh tan tác quân của Tư Mã Hổ, buộc ông này rút về họp binh với Lưu Côn ở Ký Châu. Lưu Côn (người trên danh nghĩa là theo Tư Mã Việt, cùng Vương Tuấn) đem quân đánh tan tành quân của Dĩnh, buộc Dĩnh rút về theo Tư Mã Ngung. Tư Mã Việt thấy phe của mình đang thắng thế bèn tấn công liên tiếp vào quân của Ngung. Ngung thua chạy, sau phải cho giết bộ tướng Trương Phương để cầu hòa với Tư Mã Việt. Tháng 6/306, Tư Mã Việt sai người đưa Tấn Huệ đế từ Trường An về lại Lạc Dương, phục ngôi cho Hoàng đế.
- Năm 306, Huệ đế lên ngôi ở Lạc Dương. Các tướng muốn đưa Dĩnh lên ngôi, nhưng đều bị quân của Tư Mã Hổ dẹp loạn nên Dĩnh bị cô lập ở Tân Hội. Tháng 9/306, Tư Mã Dĩnh bị bộ tướng của mình đánh thuốc độc chết. Tháng 11/306, sợ Tư Mã Ngung sinh biến nên Tư Mã Việt dùng lệnh của Tấn Hoài đế mời Ngung về triều làm Tư đồ. Dọc đường về triều, Ngung bị một viên tướng khác là Tư Mã Mô ở Hứa Xương sát hại.
- Tháng 11/306, Tấn Huệ đế bị Tư Mã Việt đầu độc giết chết. Năm đó ông 48 tuổi, ở ngôi được 17 năm. Tư Mã Việt lập hoàng thái đệ Tư Mã Xí – con thứ 25 của Tấn Vũ Đế - lên ngôi, tức là Tấn Hoài đế. Việc Tấn Huệ đế bị sát hại đã chấm dứt "loạn bát vương", nhưng triều đình Lạc Dương đã suy yếu nhiều và không đủ sức chống lại loạn Ngũ Hồ. Vì chém giết lẫn nhau nên mấy chục vạn người thiệt mạng, nhân dân vô cùng khốn khổ
* Loạn Ngũ Hồ và sự chấm dứt vương triều Tây Tấn (306 - 316)
# Tấn Hoài đế (307 - 311). Tư Mã Xí là con út của Tấn Vũ đế, lên ngôi và lấy niên hiệu Quang Hi (tháng 11 - hết tháng 12/306)
- Năm 307 (niên hiệu Vĩnh Gia nguyên niên), Lại Bộ lang Châu mục, cậu Thanh Hà vương Tư Mã Đàm (con Huệ đế), là người cùng phe với Tư Mã Việt và em gái là Gia Cát Mai đề nghị Tư Mã Việt phế Tấn Hoài đế, lập Thanh Hà vương làm thiên tử. Tư Mã Việt không nghe, bèn giết hết cả hai người. Năm sau (năm 308), nhà vua phong Dự Chương vương Tư Mã Thuyên làm Hoàng Thái tử; Tư Mã Việt và một tướng khác làm Đô đốc cai quản các châu lớn
- Năm 308, Lưu Uyên xưng làm Hoàng đế, lập ra nước Hán - nước đầu tiên của Ngũ Hồ (Hung Nô, Yết, Tiên Ti, Đê, Khương; bắt đầu xâm nhập vào nước Tấn từ thời Tấn Huệ đế), đóng đô ở Bình Dương (nay thuộc tỉnh Sơn Tây, TQ; dời đô 4 lần). Cùng năm này, quân Hán (người tộc Đê) của Lưu Uyên, cùng con trai là Lưu Thông tổng tấn công vào Lạc Dương. Quân dân Tây Tấn do Tư Mã Việt và các tướng chỉ huy đã chống cự quyết liệt, đánh tan liên tiếp ba đợt tấn công của quân Lưu Uyên, giữ vững kinh đô. Năm 309, quân của Hán lại tấn công Lạc Dương, song bị đẩy lui.
- Năm 310, quân tộc Đê của nước Hán (lúc này do vua Hán là Lưu Thông: 310 - 318 chỉ huy) liên tục tấn công và đánh bại quan quân nhà Tây Tán, chiếm mất phía tây thành Lạc Dương.
Vua nước Hán là Lưu Thông (310 - 318) - người đánh tan nhà Tây Tấn, bắt và sát hại hai vua Tấn cuối cùng
- tháng 10/310, lợi dụng triều đình Lạc Dương lộn xộn (Việt giết nhiều công thần của vua Tấn), quân Hán của Lưu Thông tấn công Lạc Dương lần thứ ba. Tư Mã Việt để vua Hoài đế ở Lạc Dương, còn mình thân chinh cầm quân ra đánh. Đầu năm 311, một tướng của Hán là Thạch Lặc tấn công Hoa Trung. Quân Tấn thất bại thảm hại, vua Hoài đế sai quân thảo phạt Tư Mã Việt (về sau Việt chết ở dọc đường). Quân triều đình Tấn đưa thi thể của Việt về thì bị quân của Thạch Lặc đuổi theo, chết mất mấy vạn quân Tấn. Triều đình rệu rã, vua Hoài đế buộc phải thiên đô....nhưng giữa đường thì bị lưu dân cướp hết tài sản nên phải quay về.
- Tháng 6/311, Thạch Lặc, Vương Di, Hồ Diên Yến đem quân tấn công Lạc Dương và nhanh chóng hạ được thành. Quân tộc Đê của Thạch Lặc thẳng tay cướp bóc, đốt phá. Hơn 3 vạn người gồm vương công, quan lại và nhân dân bị tàn sát. Tấn Hoài đế bị bắt về nước Hán, bị vua Hán là Lưu Thông giáng làm Cối Kê vương. Năm 312, cháu của vua Hoài đế là Tư Mã Nghiệp lên làm Thái tử. Về số phận của cựu vương Tấn Hoài đế, mùa xuân năm 313 triều đình của Lưu Thông đãi tiệc, bắt cựu vương Tây Tấn rót rượu. Trong bữa tiệc, Lưu Thông bình luận rằng họ đang làm gì khi cựu hoàng đế vẫn còn là Dự Chương vương, dẫn đến một cuộc đàm luận, trong đó Hội Kê công khéo léo xu nịnh hoàng đế Hán (trích "Tự trị thông giám" của Tư Mã Quang). Các quan bị bắt cùng Hoài đế là Dữu Mân và Vương Tuyển cảm thấy bị sỉ nhục, ứa nước mắt khóc. Lưu Thông giận dữ, giết Dữu Mân và Vương Tuyển cùng một số quan lại khác của nhà Tấn. Sau đó Lưu Thông đầu độc chết Tấn Hoài đế.
# Tấn Mẫn đế (313 - 316), Hoàng đế Tây Tấn cuối cùng, định đô ở Trường An
Sau khi lên ngôi vào mùa hè năm 313, Tấn Mẫn đế ra "chiều Cần vương" nhưng không ai hưởng ứng. Bất lực, Sách Lâm và Cúc Doãn ở Trường An phải đơn độc chiến đấu với quân Hung Nô. Dù quân Tấn vài lần đánh lui được địch nhưng ngày càng hao mòn, lại không được tiếp viện nên không thể giữ lâu.
Tháng 8/316, Lưu Thông (Hán) cử Lưu Diệu tiến đánh Trường An. Quân tộc Đê của Lưu Diệu vây ngặt Trường An, khiến người trong thành khốn quẫn, giết nhau để ăn. Tấn Mẫn Đế cùng đường, bèn bàn với Cúc Doãn "nhẫn nhục ra hàng, để cứu sĩ dân". Tháng 11/316, Tấn Mẫn đế Mẫn Đế mang ngọc tỷ truyền quốc ra hàng, bị giải về Bình Dương của Hán - Triều Tây Tấn diệt vong.
Giống như số phận của vua chú là Tấn Hoài đế, cựu vương Mẫn đế cũng bị vua Lưu Thông bắt rót rượu đãi tiệc, cựu thần Tấn thấy vậy nhiều người khóc thất thanh. Cũng vào khoảng thời gian này, có một số cuộc nổi dậy chống lại Hán, từng tuyên bố muốn bắt Lưu Xán để đổi lấy Tấn Mẫn đế. Lưu Xán bèn khuyên Lưu Thông giết Tư Mã Nghiệp. Lưu Thông nghe theo, giết chết ông (trích "Tự trị thông giám" của Tư Mã Quang)
B. Đông Tấn (318 - 420)
Lời người soạn: Phần này mạn phép trình bày theo kiểu niên biểu, không theo các triều vua. Các vua Đông Tấn không còn quyền hành gì, mọi quyền lực thực tế rơi vào tay quyền thần và hoàng hậu. Thời Đông Tấn, đại thần Tổ Địch và Hoàn Ôn nhiều lần bắc phạt, nhưng thất bại. Thời kỳ cuối, vua Đông Tấn lên ngôi còn nhỏ tuổi là An đế, Cung đế...cuối cùng Lưu Dụ lật đổ và sát hại vua Đông Tấn cuối cùng và mở ra thời kỳ Nam - Bắc triều (sẽ trình bày ở topic tiếp theo)
- Năm 317, Lang Nha vương Tư Mã Duệ xưng là Tấn vương, đặt niên hiệu Kiến Vũ. Do phần lớn hai kinh đô Trường An và Lạc Dương ở phía tây nước Tấn bị quân Hán của tộc Ba Đê (hay tộc Đê) chiếm đóng nên vào tháng 3 âm lịch năm 318, Tư Mã Duệ bèn lên ngôi Hoàng đế, hiệu Tấn Nguyên đế (318 - 322). Ông đóng đô ở kinh đô của nước Đông Ngô (thời Tam quốc) là Kiến Nghiệp - kinh đô nằm ở phía đông nước Tấn. Vì kỵ tên húy của vua tiền nhiệm là Tấn Mẫn đế, kinh đô mới được đổi thành Kiến Khang (nay là Nam Kinh, tỉnh Giang Tô). Tấn Nguyên đế cử Vương Đạo làm Tể tướng, và vị Tể tướng mới đã thực hiện chủ trương căn bằng quyền lực Nam - Bắc giữa các đại quý tộc, địa chủ ổn thỏa nhất
- Từ năm 317 đến 321, Tổ Địch bắc phạt. Phẫn chí vì việc chính quyền Kiến Khang không ủng hộ Bắc phạt do chịu ảnh hưởng từ chính sách của Vương Đạo, Tổ Địch mộ được 2.000 quân tiến đánh Ngũ Hồ. Năm 317, Tổ Địch dùng mưu mẹo và hạ được thành Lư Châu, Kiều Thành của Hậu Triệu. Vây ngặt quân Trần Xuyên (tướng của Thạch Hổ, cháu Thạch Lặc) của Hậu Triệu đến nỗi đối phương cạn lương thực, Tổ Địch lại dùng kế "sai quân nhồi vải vào bao, giả làm gạo rồi cho quân sĩ chở vào Đông đài. Sau đó ông lại cho quân lấy vài bao gạo thật, chở đi giữa đường, giả cách mệt mỏi nghỉ lại". Với kế sách này, quân Tổ Địch nhanh chóng chặn đánh và cướp hết viện binh lương của quân Hậu Triệu, buộc quân Hậu Triệu phải bỏ chạy. Ít lâu sau, Thạch Lặc đem quân đánh Tổ Địch, cũng bị thất bại nốt (hàng binh Hậu Triệu về sau được Tổ Địch đối xử tử tế). Năm 321, vua Tấn Nguyên đế sai tướng đến kiềm chế Tổ Địch. Tổ Địch phẫn chí vì vua không quan tâm đến ông nên sinh bệnh tật, trong khi cố làm thành để ngăn quân Hậu Triệu xâm nhập. Tổ Địch mất ở Dự Châu.
- Năm 322 đến 324, loạn Vương Đôn. Đôn là phò mã của Tấn Vũ đế, dẹp khởi nghĩa ở Kinh - Tương năm 311 nên tạo được thế lực lớn ở phía nam. Đến thời Nguyên đế, Vương Đôn lại có tham vọng kiểm soát phía tây đất nước với mưu đồ chống lại chính quyền trung ương. Năm 322, quân Vương Đôn bất ngờ tấn công vào kinh đô và đánh bại quân của nhà vua. Nguyên đế sau đó phải nhượng bộ và gia tăng quyền lực cho Vương Đôn. Thời Tấn Minh đế (322 - 325), quân triều đình lợi dụng lúc ông ta bị bệnh liền đánh bại phe cánh và quân của Vương Đôn, khiến ông này qua đời vào hai năm sau đó.
- Năm 325, Tư Mã Diễn (mới 4 tuổi) lên ngôi hiệu là Tấn Khang đế. Dữu Lượng làm nhiếp chính, thi hành chính sách khắc khe. Năm 326, Dữu Lượng dùng mưu sát hại Tư Mã Dạng với tội phản nghịch.
- Năm 327, Tô Tuấn nổi loạn. Nhiếp chính Dữu Lượng không muốn thấy thế lực của Tô Tuấn (quan Lịch Dương nội sử) quá mạnh, bèn triệu ông này về triều. Tuấn kháng mệnh, bèn vượt sông tiến đánh Kiến Khang. Vua Khang đế cho Dữu Lượng tập hợp lực lượng phòng bị. Mặc cho triều đình phòng bị, quân của Tô Tuấn tiến công mãnh liệt và đánh tan quân triều đình ở Cô Thục, Từ Hồ, Lăng Khẩu; rồi tiến đánh, đốt phá kinh đô Kiến Khang. Trong kho của triều đình có 20 vạn xúc vải, 5000 cân vàng bạc, ức vạn (1 tỷ) tiền, mấy vạn xúc lụa đều bị quân của Tô Tuấn cướp sạch. Tháng 3/328, Dữu Lượng cho gọi Đào Khản, Si Giám, Dữu Băng cùng 3 tướng khác ra đem quân "cần vương". Quân triều đình gồm 4 vạn người, lập tức đánh lây Tô Tuấn; tiến đánh nhiều trận rồi mà chưa phân thắng bại. Giữa năm 328, quân triều đình đánh bại Hoàn Phủ (tướng của Tô Tuấn, Tổ Ước) ở Lư Giang, giết hơn 1 vạn quân đối phương và cướp hết lương thực của chúng. Tổ Ước tiến đánh Bồn Khẩu, nhưng bị quân của Đào Khản đánh tan. Bị quân của Đào Khản đánh liên tiếp, quân của Tổ Ước thất bại nhiều trận và tan rã dần. Tô Tuấn nghe tin thất trận liền chạy trốn, giữa đường bị quân triều đình chặn đánh ở Thạch Đầu; Tuấn chết trận. Con của Tuấn là Thạc tiếp tục chống quân triều đình, nhưng thế ngày càng suy yếu và liên tục thất trận. Sau khi Ôn Kiệu (tướng của Tô Tuấn) bị triều đình xử tử, loạn Tô Tuấn kết thúc
- Từ năm 329 đến 333, lãnh thổ Đông Tấn liên tiếp bị quân Hậu Triệu xâm nhập. Năm 329, Hậu Triệu chiếm được Hoa Trung sau khi quân Đông Tấn không được triều đình hỗ trợ; kế đó quân Hậu Triệu ung dung đánh chiếm Lạc Dương, Thọ Xuân và Tương Dương không gặp phải cản trở gì. Quân Đông Tấn sau đó phản công, lấy lại được thành Tương Dương từ tay quân Hậu Triệu năm 332; đồng thời lấy được Ninh Châu khỏi tay của quân Thành Hán
- Năm 337, thủ lĩnh tộc Tiên Ti là Mộ Dung Hoảng xưng vương tại Liêu Đông, lập ra nước Tiền Yên độc lập với triều Đông Tấn (sau này ông ta có miếu hiệu là Yên Văn Minh đế: 337 - 348). Ngay sau đó, ông này sai sứ sang liên kết với vua Hậu Triệu là Thạch Hổ tiến đánh bộ tộc Đoàn
- Năm 339, Dữu Lượng ra kế hoạch cho quân Bắc tiến. Quân Đông Tấn chưa kịp xuất phát thì quân Hậu Triệu bất ngờ tấn công, chiếm mất nhiều thành trì ở bắc Hoàng Hà và cả Chu Thành. Dữu Lượng chết, kế hoạch bị bãi bỏ .
- Năm 341, Tấn Thành đế quy định dân lánh nạn từ Hoa Bắc xuống phải đăng lý hộ khẩu theo quận đang sinh sống
- Năm 343, Dữu Dực đề xuất kế hoạch Bắc tiến. Được vua Khang đế (342 - 344) chấp thuận, Dữu Dực cho quân tiến đánh một số nơi ở biên giới... nhưng về sau Dữu Dực hủy bỏ kế hoạch này.
- Năm 344, Tư Mã Đam mới 1 tuổi lên ngôi, hiệu Tấn Mục đế; mọi việc đều do Trử thái hậu quyết định
- Năm 346 đến 347, tướng Đông Tấn là Hoàn Ôn đánh tan quân Thành Hán; buộc vua cuối cùng là Lý Thế (343 - 347) phải đầu hàng và ông này được vua Tấn phong tước hầu
- Năm 349, lợi dụng Hậu Triệu đang hỗn loạn sau cái chết của vua Thạch Hổ (Hậu Triệu Vũ đế: 344 - 349) và hai vua kế là Thạch Tuân, Thạch Giám cai trị được vài tháng trong hỗn độn; tướng Hoàn Ôn quyết định Bắc chinh. Nhưng triều đình cản trở Hoàn Ôn và vua cử Trữ Bầu sang đánh, nhưng không thành công
- Năm 350, Ân Hạo quyết định Bắc chinh. Hạo bất tài, đánh trận thua liên tục. Năm 352, Hạo lại Bắc chinh - nhưng do các tướng nổi loạn nên ông từ bỏ chiến dịch. Năm 352, Ân Hạo lại Bắc chinh lần thứ ba. Hạo lấy lại được Hứa Xương, nhưng cuối cùng bị tướng Diêu Tương phục kích gây thiệt hại nặng nề. Năm 354, Ân Hạo bị vua giáng xuống làm dân thường
- Năm 354, Hoàn Ôn bắc phạt. Quân Đông Tấn nhanh chóng đánh tan quân Tiền Tần của vua Bồ Kiên ở Thường Lạc, Thanh Nê và Lam Điền. Thắng trận Lam Điền, quân Đông Tấn được nhân dân đón và khao lương thực. Tháng 6/354, quân Đông Tấn phản công, nhưng do bị đối phương triệt lương nên phải rút lui
- Năm 356, Hoàn Ôn tiến hành chiến dịch chống lại tướng Diêu Tương của vua Tiền Yên. Diêu Tương định trá hàng, nhưng bị quân Đông Tấn bất ngờ tấn công và đánh tan ở Y Thủy. Diêu Tương bị thương phải bỏ chạy sang Tiền Tần, bị tướng Tiền Tần là Phù Kiên đón đường giết chết. Sau khi Diêu Tương qua đời, em trai ông là Diêu Trường tiếp tục phụng sự cho vua Tiền Tần. Khi vua Tiền Tần là Phù Kiên qua đời sau thất bại ở trận Phì Thủy (vua Phù Kiên (hay Bồ Kiên) sau đó bị Diêu Trường cho siết cổ đến chết), Diêu Trường chính thức xưng vương ở Trường An, lập ra nước Hậu Tần (385 - 417) của tộc Khương.
- Năm 358, một chiến dịch Bắc chinh của tướng Tuân Tiện (荀羨) nhằm chiếm lại bán đảo Sơn Đông đã thất bại.
- Năm 359, vua Tiền Yên là Cảnh Chiêu đế (Mộ Dung Tuấn: 348 - 360) gây sức ép lên vùng đất của Tấn ở phía nam Hoàng Hà. Quân Tấn dưới quyền Gia Cát Du (諸葛攸) và Tạ Vạn (謝萬) đãn tiến đánh Tiền Yên. Song Tạ Vạn nhận định sai rằng quân Tiền Yên ở gần và ra lệnh rút lui. Không có cứu viện, các vùng đất của Tấn ở phía nam Hoàng Hà bắt đầu rơi vào tay Tiền Yên.
- Tháng 7/361, Tư Mã Dục lên ngôi vua và lấy hiệu Tấn Ai đế (361 - 365), Trử thái hậu nhiếp chính (về sau ông bị pháp sư đầu độc chết)
- Đầu năm 362, vua Tiền Yên là U đế (360 - 385) tấn công để lấy lại Lạc Dương. Quân Đông Tấn tiến đánh, song do bị thiếu lực lượng nên thất bại, Lạc Dương rơi vào tay Tiền Yên
- Năm 369, Hoàn Ôn phát động bắc chinh chống lại Tiền Yên để lấy lại Lạc Dương. Tháng 6, quân Tấn tới Kim Hương bị khô hạn, thuyền không đi được, ông sai quân sĩ đào 300 dặm vùng Cự Dã để khai thông cho thuyền đi. Tháng đó ông liên tiếp thắng quân Yên ở Hoàng Hư (Hà Nam) và Lâm Chử (Tân Trịnh – Hà Nam). Vua Tiền Tần là Phù Kiên (357 - 385) cho 2 vạn cứu viện. Hoàn Ôn nghe tin có cứu viện liền rút lui, dọc đường bị quân Tiền Yên đón đánh gây thiệt hại nặng.
- Tháng 11/371, Hoàn Ôn phế vua Tấn Phế đế (365 - 371) và giáng làm Hải Tây công; đưa Tư Mã Dục lên ngôi khi ông này ngoài 50 tuổi, hiệu Tấn Giản Văn đế (371 - 372). Tháng 12/372, Giản Văn đế mất, Tư Mã Diệu lên ngôi hiệu là Tấn Hiếu Vũ đế (372 - 396) - hoàng đế duy nhất còn thực sự cai trị đế quốc. Năm 396, Hiếu Vũ đế bị thiếp của mình là Trương mỹ nhân sát hại
- Năm 373, quân Tiền Tần tấn công và chiếm Lương Châu (梁州, nay là phía nam Sơn Tây) và Ích Châu (益州, nay là Tứ Xuyên và Trùng Khánh). Tuy nhiên, về mặt đối nội thì có vẻ như Đông Tấn được Tạ An và Hoàn Xung quản lý khá tốt.
- Năm 376, 13 vạn quân Tiền Tần bất ngờ tiến đánh Tiền Lương, chư hầu của vua Đông Tấn. Quân Đông Tấn do Hoàn Xung chỉ huy quyết định đánh Tiền Tần để cứu Tiền Lương, song bị thất bại hoàn toàn. Quân Tiền Lương thất bại và vua Tiền Lương cuối cùng là Trương Thiên Tích (364 - 376) đầu hàng vua Tiền Tần Phù Kiên. Thiên Tích được vua Tiền Tần tha mạng, đã phục vụ cho vua Phù Kiên. Sau khi Tiền Tần thất bại ở Phì Thủy, Trương Thiên Tích đào thoát sang nước Đông Tấn và ở đó cho đến khi qua đời.
- Năm 378, Phù Kiên của Tiền Tần lại bắt đầu đem quân tấn công các thành Tương Dương, Ngụy Hưng và Bành Thành. Quân Đông Tấn của Tạ Huyền phản công, nhưng thất bại nặng và để mất hai thành Ngụy Hưng và Bành Thành vào tay quân Tiền Tần (riêng Tương Dương giữ được vì mẹ của tướng Chu Tự huy động hơn 100 phụ nữ đắp thêm thành mới, nên mới giữ được)
- Năm 381 (niên hiệu Thái Nguyên thứ sáu của vua Đông Tấn), quân Tiền Tần bất ngờ tiến đánh Cạnh Lăng (nay thuộc Hồ Bắc). Quân Tấn của Hoàn Thạch Kiền, Đô Quý ra quân phản công và đánh tan được quân Tiền Tần
- Năm 382, đất U Châu của Tiền Tần bị nạn cào cào nghiêm trọng; nhưng các quan lại báo cáo là được mùa khi ra bằng chứng: ruộng tốt thì mỗi mẫu thu được 70 thạch, ruộng xấu được 30 thạch. Ngoài ra, Phù Kiên lệnh cho các tổng trấn phân tán 15 vạn hộ người Đê ra các trấn để làm suy yếu tộc này.
- Tháng 11/383: trận Phì Thủy giữa quân Đông Tấn với Tiền Tần. Thất vọng vì vừa bị tướng Đông Tấn là Hoàn Xung đánh tan quân Tiền Tần ở Tương Dương vào tháng 5/383, vua Tiền Tần là Phù Kiên huy động trên 10 vạn quân bộ, hơn 1 vạn thuyền lương kéo về gần Phì Thủy. Phía vua Đông Tấn bèn cử Tạ Huyền đem 8 vạn quân bộ, cộng với 5.000 quân thủy ra đánh. Hai bên dàn trận ở Phì Thủy (một nhánh của sông Hoài, ở An Huy). Bắt đầu trận đánh, Tạ Huyền nhắn tin đòi đối phương lùi quân để Đông Tấn qua sông và Phù Kiên đồng ý. Khi quân Tiền Tần đang lui binh, bọn Chu Tự phía sau la lớn: "Quân Tiền Tần thua rồi" làm hàng ngũ quân Tiền Tần bỏ chạy tán loạn. Quân Đông Tấn nhanh chóng vượt sông và đánh vào đội hình quân địch đang rút lui. Quân Tiền Tần tan vỡ tháo chạy tán loạn, chủ tướng là Thừa tướng Phù Dung bị quân Đông Tấn giết khi đang rút. Thừa thắng, quân Đông Tấn truy đuổi quân Tiền Tần tới tận Thọ Dương, bắn bị thương vua Phù Kiên của Tiền Tần và làm tan rã luôn quân của Mô Dung Thùy đang chuẩn bị tiếp ứng cho Tiền Tần. Vua Tiền Tần chạy mãi đến Hoài Bắc chỉ còn hơn 1 vạn kỵ binh đi theo, đến năm 385 thì bị bộ tướng là Diêu Trường giết chết. Tạ Huyền trong men say chiến thắng đã dẫn đầu một chiến dịch nhằm tái chiếm các lãnh thổ đã mất, Đông Tấn sau đó đã lấy được hầu hết các châu của Tiền Tần ở phía nam Hoàng Hà một cách khá nhanh chóng, cũng như lấy lại Lương Châu và Ích Châu
ảnh minh họa trận Phì Thủy
- Năm 390, Tư Mã Đạo Tử chuyên quyền và lấn át quyền lực của vua Hiếu Vũ đế, nhà vua phải cho lực lượng ra kiềm chế Đạo Tử. Năm 395, xung đột giữa Hiếu Vũ Đế và Tư Mã Đạo Tử đã bùng nổ, song nhờ sự can thiệp của Lý Thái hậu, Hiếu Vũ Đế đã không loại bỏ em trai mình
- Năm 396, Tư Mã Đức Tông, một người bị khuyết tật về trí tuệ đến mức không thể nói được, tự mặc đồ và không biết đói hay no, không biết nóng lạnh, được tôn lên làm vua, hiệu là Đông Tấn An đế (396 - 419). Quyền lực thực tế do Tư Mã Đạo Tử và Vương Quốc Bảo nắm hết.
- Năm 397 (niên hiệu Long An nguyên niên đời Đông Tấn An đế), thứ sử Kinh Khẩu sai người đến liên kết với thứ sử Kinh Châu để chuẩn bị dấy quân thảo phạt Vương Quốc Bảo. Tư Mã Đạo Tử lo sợ hai người này liên minh đánh mình, nên bức Vương Quốc Bảo phải tự sát. Năm 398, thứ sử Kinh Khẩu tính dấy binh, nhưng bị Tư Mã Nguyên Hiển dùng mưu lung lạc rồi sát hại. Còn thứ sử Kinh Châu Ân Trọng Kham, nhiếp chính Đạo Tử dùng mưu điều người của mình ra giữ Kinh Châu khiến Ân phải lui binh. Đạo Tử sau đó trả chức vụ lại cho Trọng Kham
- Cuối năm 398, thủ lĩnh đạo Thiên sư là Tôn Thái (bạn của Tư Mã Nguyên Hiển) chuẩn bị dấy quân. Tư Mã Đạo Tử phát hiện âm mưu phản nghich này, bèn cho Nguyên Hiển dụ ông ta tới rồi giết chết. Tôn Ân (cháu của Tôn Thái) chạy ra hải đảo để chuẩn bị báo thù.
- Năm 399 đến 411, khởi nghĩa nông dân do Tôn An (có chỗ ghi Tôn Ân) lãnh đạo đã bùng nổ ở đông Chiết Giang, lôi kéo được nông dân vùng Thái Hồ cho đến lân cận Kiến Khang tham gia đến mấy vạn người. Triều đình phái quân đi đánh dẹp, khiến Tôn Ân phải 4 lần chạy thoát ra đảo. Năm 402, Tôn Ân tấn công Lâm Hải bị thất bại, bèn nhảy xuống biển tự vẫn. Tàn dư nghĩa quân Tôn Ân bèn đưa Lư Tuần, Lư Kính Đạo ra chỉ huy, tiếp tục chiến đấu. Bị quân triều đình của Lưu Dụ liên tiếp đánh bại, nghĩa quân rút sang châu Giao (bắc Việt Nam), liên kết với nghĩa quân châu Giao cùng tấn công thành Long Biên và đánh phá quận Cửu Chân, giết chết viên thái thú của quận này. Đây là cuộc liên kết lý thú giữa nhân dân Việt Nam với nông dân Trung Quốc cùng chống kẻ thù chung là triều Đông Tấn. Năm 404, nghĩa quân Lư Tuần đánh chiếm Quảng Châu. Năm 409, nghĩa quân lại theo lời hiệu triệu của Lưu Dụ (lúc này ông ta đánh Nam Yên) tiến đánh kinh đô Kiến Khang vào năm 410. Trong năm 410, quân triều đình của Lưu Dụ bất ngờ phản công khiến quân khởi nghĩa thất bại nhiều trận liền, liền rút tàn quân về Giao Châu thì bị thứ sử Giao Châu là Đỗ Tuệ Độ đánh bại hoàn toàn vào năm 411. Thất trận, Lư Tuần tự vẫn cùng nhiều thê thiếp. Thứ sử Giao Châu bèn chém đầu Lư Tuần và đồng đảng, truyền về kinh thành Kiến Khang.
- Mùa hè năm 399, Tư Mã Nguyên Hiển chớp thời cơ vua An đế say rượu để có được một chỉ dụ về việc chuyển giao quyền lực của Tư Mã Đạo Tử cho mình. Khi Tư Mã Đạo Tử thức dậy trong sự kinh ngạc, ông trở nên tức giận, nhưng sau thời điểm đó, quyền lực của ông cực kỳ hạn chế, mặc dù trên danh nghĩa ông vẫn là người nhiếp chính. Trong năm này, Hoàn Huyền nổi lên thành một thế lực lớn sánh ngang với Tư Mã Nguyên Hiển; Ân Trọng Kham chưa kịp ra tay thì Hoàn Huyền bất ngờ đem quân tới, đánh tan và giết Trọng Kham trên đường rút chạy.
- Năm 402, Nguyên Hiển thảo phạt Hoàn Huyền ở Giang Lăng. Hoàn Huyền ra hịch kể tội trạng của Nguyên Hiển, rồi bất ngờ tiến đánh Lịch Dương (buộc Lưu Lao Chi đầu hàng) rồi tiến nhanh vào Kiến Khang. Tại kinh đô, Hoàn Huyền truất phế Nguyên Hiển rồi giết chết, hạ độc Tư Mã Đạo Tử. Sau đó, Hoàn Huyền sai Lưu Dụ đi trấn áp nghĩa quân Lư Tuần
- Tháng 12/403, Hoàn Huyền buộc vua Đông Tấn An để nhường ngôi rồi xưng đế với hiệu Vũ Điệu đế (403 - 404), thành lập vương triều Hoàn Sở. Chính quyền mới cắt cử quan lại tùy tiện, khôi phục nhục hình và xây dựng cung điện vô tội vạ, khiến lòng dân căm giận. Năm 404, Lưu Dụ xuất binh đánh bại em của Huyền là Tu. Hoàn Huyền sai tướng Lưu Nghị đem quân phản công, nhưng Lưu Nghị bất ngờ trở giáo và phát động binh biến giết chết Hoàn Hoằng (em trai của Huyền). Tháng 5/404, Lưu Dụ đánh bại quân của Hoàn Huyền; Huyền bỏ chạy và sau đó bị giết chết. Ngôi vua Đông Tấn được Lưu Dụ trả về cho An đế.
- Năm 405, tàn quân của Hoàn Huyền rút về Tứ Xuyên, tôn Tiều Túng lên ngôi và lập ra nước Tây Thục, đóng ở Thành Đô. Lợi dụng Tiều Túng mâu thuẫn với tướng Diêu Hưng và Hoàn Khiêm, Lưu Kính Tuyên (Đông Tấn) kéo quân Đông Tấn chuẩn bị tiến đánh Tây Thục; nhưng đội quân của ông ta bị đối phương vây tới 60 ngày, tuyệt lương nên phải rút lui. Mùa thu năm 410, quân Tây Thục tiến đến Kinh Châu; nhưng nội bộ bị mâu thuẫn nên phải rút lui. Từ năm 412, Lưu Dụ đem 3 vạn quân Đông Tấn tiến đánh Tây Thục. Quân Tây Thục kháng cự được một năm, cuối cùng phải chịu thất bại, Tiều Túng phải tự sát và tướng Tiêu Đạo Phúc bị quân Đông Tấn giết hại trên được rút chạy. Nước Tây Thục diệt vong.
- Năm 410, quân Đông Tấn tiêu diệt Nam Yên: năm 409, vua Nam Yên là Mộ Dung Siêu (405 - 410) cho quân đánh phá biên giới phía bắc của Đông Tấn. Đáp lại, Lưu Dụ được sự ủng hộ của Mạnh Sưởng đã đem quân Đông Tấn đánh tan chủ lực Nam Yên. Mùa xuân năm 410, quân Đông Tấn bao vây thành Lâm Cù, buộc vua Mộ Dung Siêu chạy về thành Quảng Cố và ông này sai người sang cầu viện vua Hậu Tần là Diêu Hưng (394 - 416). Song, quân Hậu Tần cũng bị quân Hạ của Hách Liên Bột Bột đánh thua liểng xiểng ở Nhị Thành (nay thuộc Thiểm Tây) nên không dám ứng cứu cho Nam Yên. Tháng 3/410, quân Đông Tấn tổng tấn công vào kinh đô Nam Yên, vua Mộ Dung Siêu phải bỏ thành chạy. Quân Đông Tấn đuổi kịp, bắt sống Mộ Dung Siêu cùng hơn 3.000 quý tộc, quan lại Nam Yên đưa về Kiến Khang xử tử. Nước Nam Yên diệt vong.
- Năm 412, Lưu Dụ nghi ngờ Lưu Nghĩa ở Kinh Châu chống lại mình, nên xuất quân đánh tan Lưu Nghĩa, rồi giết hại ông này. Năm 413, Lưu Dụ giết luôn quân sư Gia Cát Trường Dân do nghi ngờ ông này ủng hộ Nghĩa
- Năm 414, Lưu Dụ bất ngờ cho giết chết Tư Mã Văn Tư (thứ sử Kinh Châu) do nghi ngờ ông này chống lại mình. Tiếp đó, năm 415 Lưu Dụ lại đem quân tấn công Tư Mã Lưu Chi (thứ sử Kinh Châu mới nhậm chức), chiếm Giang Lăng và buộc Lưu Chi và cháu mình phải chạy trốn sang Hậu Tần
- Năm 416, lợi dụng vua Hậu Tần là Diêu Hưng vừa qua đời, Lưu Dụ xuất quân tiến đánh Hậu Tần, giao kinh đô Lạc Dương cho người thân tín trông coi. Khi Đàn Đạo Tế giữ được Lạc Dương, Lưu Dụ bức vua Đông Tấn An đế phong cho mình làm Tống công.
- Mùa xuân năm 417, Lưu Dụ chia quân thành 2 cánh tấn công vào Hậu Tần. Cánh quân đầu tiên đánh tan và khiến tướng Diêu Thiệu của Hậu Tần chết trong giận dữ. Cánh quân còn lại của Đông Tấn thì tiến đánh tan hoàn toàn quân Hậu Tần, buộc vua Hậu Tần là Diêu Hoằng (416 - 417) rút về Trường An. Quân Đông Tấn tiến đánh Trường An, bắt vua Hậu Tần cùng hoàng tộc giải về Kiến Khang rồi xử tử toàn bộ. Hậu Tần diệt vong.
- Trong năm 417, lợi dụng việc Lưu Dụ rời khỏi Trường An, quân Hạ của Hách Liên Bột Bột tiến đánh Trường An. Tận dụng nội bộ tướng lĩnh Đông Tấn trong thành đang lục đục, quân Hạ bao vây Trường An. Lưu Dụ nghe tin bèn lệnh cho con trai đang trấn giữ Trường An là Lưu Nghĩa Chân rút lui. Trên đường rút, quân Đông Tấn bị Hạ tiêu diệt toàn bộ ở Thanh Nê. Hách Liên Bột Bột xếp chồng các thủ cấp của lính Đông Tấn đã chết thành một khối, trông giống như một ngọn đồi. Sau đó, Hách Liên Bột Bột xưng đế.
- Năm 418, Lưu Dụ ép vua phong mình làm Tống vương. Sang năm 419, Lưu Dụ sai sát thủ đi siết cổ vua Đông Tấn An đế đến chết. Sau đó, Lưu Dụ lập Tư Mã Đức Văn làm hoàng đế, hiệu Đông Tấn Cung đế.
- Mùa thu năm 420, Lưu Dụ sai người về kinh đô Kiến Khang buộc Cung đế nhường ngôi. Mùa thu năm 421, Lưu Dụ sai sát thủ sử dụng một tấm chăn để làm cho cựu vương Cung đế ngạt thở. Triều Đông Tấn diệt vong.
2. Tình hình kinh tế, chính trị và văn hóa thời Tấn
* Kinh tế: bị phá hoại nghiêm trọng do chiến tranh liên miên; miền Nam lạc hậu hơn miền Bắc. Về thu thuế khóa, vua Tây Tấn thực hành "chiếm điền chế" và quy định chính đinh (từ 16 đến 59 tuổi) thu điền tô 4 hộc (tức mỗi mẫu 8 thăng). Đinh nam làm chủ hộ thì đóng mỗi năm một khoảng hộ điều là 4 tấm lụa và 3 cân bông; phụ nữ và thứ đinh nam làm chủ hộ thì giảm một nửa; vùng biên viễn thì giảm 1/3 hay 2/3. Ở triều Tấn thì tiền tệ không rõ ràng và phức tạp; nhưng hình dáng thì giữ nguyên kiểu cách của đồng 5 thù. Có trường hợp dùng 2 loại tiền mới - cũ cùng lúc, có trường hợp chỉ dùng tiền cũ thôi; lại có trường hợp không đủ tiền mới dùng đến thóc lúa để chi trả.
* Quân đội: đầu thời Tây Tấn, ở kinh sư đặt Trung, Hậu nhị vệ và Tả quân, Tiền quân, Hậu quân, Kiêu kị. Trung quân tướng quân quản lý hết bảy đội quân này; vua Tây Tấn đặt thêm năm hiệu úy, mỗi người lãnh 1.000 quân làm một doanh. Sau khi bình Ngô, để phòng ngừa các thế lực địa phương bành trướng thì vua Tây Tấn Vũ đế giảm nhiều quân ở châu quận, quận lớn không quá 100 người, quận nhỏ chỉ 50 quân. Để tăng cường tôn thất, vua Vũ đế lệnh cho các chư hầu được chiêu mộ quân, nước lớn 5.000, nước vừa 3.000 và nước nhỏ 1.000; kết quả chư hầu đều có quân đội riêng, ấp ủ nên mối họa "Loạn bát vương". Sau loạn Vĩnh Gia đầu thời Tấn Hoài đế, ở các nơi đều đua nhau lập các lực lượng địa phương. Triều đình Kiến Khang của Đông Tấn dùng "phát nô binh" của địa chủ, hoặc tướng soái tự chiêu mộ, như "Bắc phủ binh" của Tạ Huyền. Đến đầu thời Đông Tấn, quân lực ở các châu quận to lớn, còn võ bị của triều đình thì bạc nhược. Binh quyền thời Đông Tấn chủ yếu nằm trong tay các gia tộc họ Vương, Tạ, Dữu, Hoàn và các quân phiệt địa phương; trong đó có vài họ phản loạn chống Kiến Khang như Vương Đôn, Tô Tuấn, Hoàn Huyền.
* Tổ chức hành chính địa phương: thời Tây Tấn thì có 19 châu, gồm 13 châu ban đầu và thêm Quảng Châu của quân Đông Ngô, bốn châu của quân Thục Hán (Tư lệ hiệu úy quản lý 4 châu mới này). Đầu thời Đông Tấn, sĩ tộc và lưu dân phía bắc vào nhiều nên chính quyền đặt ra kiều châu, kiều quận, kiều huyện; cử người phương bắc quản lý các châu này. Do phép kiều ký (ngụ cư) nên dẫn tới trong châu có châu, trong quận có quận, gây nên sự xáo trộn hành chính địa phương rất nghiêm trọng
* Dạy học: thời Tấn có lập nhiều trường học; thi hành chế độ "cửu phẩm trung chính. Triều đình cử các quan gọi là Trung chính về các địa phương để căn cứ theo tài năng và đức hanh, chia những người có học thức trong vùng thành chín hạng để nhà nước tùy theo tài năng mà bổ dụng. Biện pháp nay có tiêu cực là chỉ có con em quý tộc và quan lại mới được lựa chọn, số còn lại thì ít được lựa chọn
* Khoa học kỹ thuật và văn học:
- Cát Hồng (283 - 363) theo Đạo giáo với quyển "Bão Phác Tử" nổi tiếng. Quyển này gồm 12 thiên, chủ yếu nói về y dược thần tiên, dưỡng sinh sống lâu, đeo bùa tránh thú dữ. Sách của ông này nói về luyện đan, thực chất là phản ứng hóa học; ông viết "đan sa đốt lên thành thủy ngân, nhiều lần thay đổi thành đan sa" - chính là nói đem đan sa đi nấu, lưu hoàng trong đó sẽ tách thành SO2, đồng thời tách thủy ngân ra khỏi kim loại, đem thủy ngân và lưu hoàng hóa hợp, sẽ thành HgS. Ngoài luyện đan, Cát Hồng nghiên cứu nhiều về các cây cỏ bồi bổ sức khỏe con người. Ở sách Bão Phác Tử ngoại thiên, Cát Hồng phê phán bọn phong kiến Đông Tấn cậy quyền cậy thế và dốt nát. Trong hai thiên Hán quá và Ngô thất của sách này, Cát Hồng châm chích việc đương thời; thiên Ngô thất đề cập thẳng vấn đề địa chủ trưng tập nhiều nông dân mất ruộng, lập ra lực lượng vũ trang riêng
Cát Hồng
- Phạm Ninh (339 - 401) trong tác phẩm đã phê phán tình hình nhà nước đương thời rất hà khắc, như nói "Người xưa dùng người mỗi năm không quá ba ngày, lao dịch hiện nay không thể có chuyện ba ngày là nghỉ, đến nỗi có người làm tổn thương thân thể để được miễn trừ (lao dịch). Sinh con không dám nuôi, đàn bà độc thân không dám cưới gả. Há không phải người quỷ cùng oán, cảm thương hòa khí sao" (Tấn thư, quyển 75).
- Vương Hy Chi (303 - 361) là nhà thư pháp nổi tiếng thời Tấn. Có nhiều điển tích xoay quanh nhà thi pháp tài hoa này: Một lần Hy Giám sai môn đến chỗ Vương Đạo tìm con rể. Vương Đạo bảo ông ta qua phòng phía đông mà xem. Ong ta xem xong bèn nói: "Con em nhà họ Vương đều giỏi, chỉ là nhìn thấy tôi hơi có vẻ căng thẳng, có một người nằm phơi bụng trên giường phía đông ăn bánh, giông như không có chuyện gì". Hy Giám nói" "Đó chính là con rể giỏi", bèn sai người tới hỏi, quả nhiên đúng là Hy Chi. Hy Giám bèn gả con gái cho ông ta.
Vương Hy Chi
Tranh về chân dung Vương Hy Chi (thời Nguyên)
Một lần Vương Hi Chi cùng bạn bè mở tiệc rượu ở Lan Đình thuộc Âm Sơn, Cối Kê (nay thuộc tỉnh Chiết Giang). Ông đã cao hứng vung bút viết một bài văn kỷ niệm. Đó là bài “Lan Đình tập tự”, được coi là một kiệt tác của lịch sử thư pháp Trung Hoa. Rất tiếc, bản chính ngày nay đã thất truyền.
Lần khác, họ Vương đến chơi nhà một học trò. Ngồi trong thư phòng bên cạnh một chiếc bàn mới, thấy mặt bàn sạch sẻ bóng loáng ông cao hứng, viết lên đó mấy dòng chữ rồi ra về. Người học trò nâng niu trân trọng bút tích của Vương hơn cả một bảo vật. Hôm sau anh có việc đi ra ngoài. Người cha vào dọn dẹp thư phòng, ngỡ là mặt bàn bị vấy mực bẩn, bèn lấy dao cạo sạch vết mực. Người học trò trở về, kêu trời không thấu.
Một lần khác nữa, Vương Hi Chi đi qua một chợ làng, thấy có bà lão đang rao bán một sọt quạt đan bằng nan tre. Vì loại quạt quá thô lại không trang trí nên chẳng ai để tâm. Vẻ lo buồn của bà lão làm Vương động lòng. Bèn lấy bút mực viết lên mỗi chiêc quạt vài chữ rồi bảo bà đem rao bán, nói “Đây là chữ của Vương Hữu Quân”. Bà lão bán tín bán nghi nhưng cũng làm theo lời dặn. Quả nhiên trong chớp mắt sọt quạt đã hết sạch.
Vương Hy Chi viết thư pháp trong khi ngắm Bạch Nga
Vương Hi Chi bình sinh rất thích Bạch Nga (Ngỗng trắng). Tương truyền tại Sơn Âm (nay là huyện Thiệu Hưng, Chiết Giang) có một đạo sĩ nuôi một đàn ngỗng rất đẹp. Vương Hi Chi sáng sớm nào cũng thả một chiếc thuyền con đến ngắm say mê. Họ Vương nhiều lần thương lượng để mua nhưng đạo sĩ không đồng ý. Mãi về sau đạo sĩ mới nói: “Lâu nay tôi chỉ thích một bản chép “Đạo Đức kinh”. Lụa và bút mực tôi đã chuẩn bị sẵn từ lâu nhưng không ai chép được. Ngài chỉ cần chép cho tôi hai chương thôi, đàn ngỗng này sẽ là của ngài”. Trừ những lúc cao hứng tự vung bút, bình thương xin chữ của Vương Hi Chi rất khó. Nhưng lần này ông sảng khoái ngồi viết suốt nửa ngày. Giao hai chương sách cho đạo sĩ rồi lùa bầy ngỗng đi ngay. Lòng tràn ngập vui sướng tới độ quên cám ơn và chào từ biệt chủ nhân.
- Cố Khải Chi (345 - 406) là nhà danh họa nổi tiếng thời Đông Tấn. Có nhiều giai thoại về ông:
Có thời gian Cố Khải Chi giúp việc cho đại danh gia của một vọng tộc lớn thời Lục triều là Ân Trọng Kham. Cố Khải Chi nhiều lần ngỏ ý muốn vẽ chân dung ân Trọng Kham, nhưng đều bị từ chối. Đó là do họ ân biết Cố Khải Chi rất chú trọng vẽ đôi mắt, mà ân Trọng Kham thì biết đôi mắt mình có khuyết tật, vẽ vào tranh sẽ phơi bày điểm yếu đó. Cố Khải Chi thuyết phục mãi họ ân mới đồng ý. Cố Khải Chi vẽ bức chân dung rất giống và đẹp, sau đó ông dùng ngọn bút khỏa nhẹ lên đôi tròng mắt, tựa như một lớp sương khói mỏng. Do vậy, đôi mắt ân Trọng Kham giống như thật, mà lại đẹp và chất chứa nhiều xúc cảm cuộc đời, một vẻ đẹp hơn hẳn cả khi đôi mắt chưa bị khuyết tật.
Cố Khải Chi
Toàn bộ bức Nữ sử châm đồ (Ảnh: wenguzhai)
Một góc bức họa “Lạc thần phú đồ” – Cố Khải Chi (Ảnh: I.zhuixue)
Năm 24 tuổi, Cố Khải Chi, đã là một họa gia danh tiếng, đến kinh thành. Dịp đó chùa Ngoãn Quan vừa trùng tu xong, các vị hòa thượng lên kế hoạch lạc quyên. Khá nhiều người hảo tâm đã đến làm công đức, hầu hết là quan chức và các bậc phú hào, nhưng chưa có người nào cúng dâng tới 10 vạn tiền. Cố Khải Chi tới chùa, lướt nhìn danh sách những người đã lạc quyên, rồi cầm bút ghi vào danh sách đó 100 vạn tiền. Việc này lập tức lan truyền khắp kinh thành. Người đời ai chả biết Cố Khải Chi là một danh họa thanh hàn. Một số hòa thượng đến hỏi xem Cố Khải Chi có thể cho tiền không, Cố liền bảo: “Xin hãy quét vôi lại bức tường phía Đông trong Hậu cung. Chỉ trong vòng 30 ngày là có đủ 100 vạn tiền”. Vốn trọng tài năng và nhân cách của Cố Khải Chi, các vị hòa thượng làm theo lời ông. Cố Khải Chi lền đóng cửa Hậu điện, vẽ một bức bích họa mô tả cuộc biện thuyết của Bồ tát Văn Thù với Bồ tát Duy Ma Cật. Trong bức bích họa, Cố Khải Chi phải dừng lại nhiều buổi mới vẽ xong đôi tròng mắt Duy Ma Cật. Hoàn tất, bức tranh mô tả sinh động toàn cảnh cuộc biện thuyết, có cả chư tiên trên trời rải hoa xuống trong nghi thức cúng dường… Rồi Cố Khải Chi bảo các vị hòa thượng mở cửa Hậu điện cho khách thập phương vào xem và thu tiền lạc quyên. Các thí chủ kéo đến, không tiếc tiền của trước chùa Ngoãn Quan cũng như trước bức bích họa của Cố Khải Chi. Quả nhiên, chỉ vài ngày, số tiền thu được đã lên tới hơn 100 vạn!
- Đới Quỳ (326 - 396) là ẩn sĩ, giỏi tạc tượng
- Sử học: Can Bảo soạn Tấn kỷ về sử nhà Tấn, sau này có nhiều đoạn được Tư Mã Quang dẫn lại khi soạn Tư trị thông giám. Điêu Tạc Xỉ soạn sách Hán Tấn Xuân Thu theo lối biên niên, từ Hán Quang Vũ Đế tới Tấn Mẫn Đế (25-316)
- Thơ ca: có đại thi thơ Đào Tiềm ( ? - 427). Từ nhỏ ông sinh hoạt khá hàn vi, nhưng tính chăm học, bách gia chư tử sách vở đều có đọc qua.
Năm 29 tuổi, ông làm Tế tửu Giang Châu. Mười ba năm tiếp theo, mấy lần ông làm quan nhỏ, mỗi lần chỉ trong thời gian ngắn. Khoảng 40 tuổi, vì nhà nghèo mà còn phải nuôi mẹ già, vợ con (ông có cả thảy năm người con trai), nên ông ra làm huyện lệnh Bành Trạch (vì thế ông còn được gọi là Đào Bành Trạch). Được hơn 80 ngày, nhân cuối năm quận phái viên đốc bưu đến huyện, nha lại khuyên Đào Tiềm chỉnh đốn y phục ra đón. Ông than rằng: "Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa" (Ta lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!). Ngay hôm ấy ông viết bài "Quy khứ lai từ" (Lời bày tỏ việc trở về), rồi trả ấn bỏ quan mà về.
Năm ông 62 tuổi, gặp lúc đói kém, nhà thơ lâm cảnh khốn cùng đến mức phải đi xin ăn. Tiêu Thống đời Lương viết Truyện Đào Uyên Minh kể lại rằng: "Khi Thứ sử Giang Châu là Đàn Đạo Tế đến thăm thì thấy nhà thơ nằm co ro, nhịn đói đã mấy ngày. Đạo Tế cho đưa rượu thịt tới, ông vẫy tay bảo đưa ra. Không bao lâu thì mất (năm 427 thời Nam Bắc triều), thọ 63 tuổi".
Đào Tiềm
Về thơ ca của Đào Tiềm, nhiều học giả nhận định: "Ông là người phẩm cách cao quý và ưa sự tự do. Thấy chánh sự trong nước bấy giờ đồi bại không thể cứu vãn được, ông quyết lui về nơi vườn ruộng để giữ lấy tiết sạch giá trong (...). Về văn từ, lời thơ ông bình thường, điềm đạm, mới đọc không lấy gì làm hay, làm lạ, nhưng ngẫm nghĩ kỹ mới thấy thú vị đậm đà (Dương Quảng Hàm). "Không hề làm một vị quan lớn, không có quyền uy, không có sự nghiệp nào cả trừ một tập thơ mỏng và vài ba thiên tản văn, mà Đào Uyên Minh chiếu sáng cổ kim như một ngọn đuốc lớn, và được các văn nhân thi sĩ coi là tiêu biểu cho một nhân cách cao quý nhất. Đời ông vô tư, tự do, khiêm tốn, giản phác... Ông có thiên tài cảm được và tả được một lối sống điều hòa, thiên tài đó tới cái mức hoàn toàn tự nhiên, bình dị mà từ xưa chưa ai đạt được. (...). Trong bài phú "Quy khứ lai từ" thì "Ông lánh chính trị chứ không lánh đời. Ông vui vẻ trở về cảnh điền viên giữa gia đình. Như vậy kết cục là một sự hòa hợp với thiên nhiên, với đời sống, chứ đâu phải là một sự phản kháng" (Lâm Ngữ Đường).
* Phật giáo: thời Tây Tấn, Trúc Pháp Lư người Nguyệt Chi dịch hơn 150 bộ kinh ở hang Đôn Hoàng; ông tới Trường An giảng pháp và hơn 1.000 tín đồ đến lắng nghe. Năm 310, tăng nhân Phật Đồ Trừ người Tây Vực sang Lạc Dương, được chú cháu Thạch Lặc, Thạch Hổ đón tiếp trịnh trọng. Vị tăng nhân khuyên họ Thạch không giết người nữa, xây 893 chùa và có gần 1 vạn tín đồ theo sư. Nhà sư mất năm 348, lúc 81 tuổi.
Thích Đạo An (312? - 385), theo học Phật Đồ Trừng lúc trẻ. Khi quân Tiền Tần tiến đánh Tương Dương năm 379 đã cho mời Thích Đạo An về Trường An giảng kinh Phật, tổ chức dịch Kinh Phật. Đệ tử của ông là Tuệ Viễn (334 - 417?) làm hòa thượng hơn 30 năm ở Lư Sơn, dựng nơi đón tiếp tăng nhân Tây Vực sang Trung Quốc; đồng thời viết Sa môn bất kinh vương giả luận thuyết phục được Hoàn Huyền
Cưu-ma-la-thập
Cưu-ma-la-thập (344 - 413) là nhà sư của nước Quy Tư. Ông xuất gia theo mẹ lúc mới 7 tuổi, thông hiểu Đại thừa và Tiểu thừa. Năm 384, ông bị vua Hậu Lương Thái tổ là Lữ Quang đưa về Lương Châu. Năm 401, Diêu Hưng của Hậu Tần đánh bại quân Hậu Lương và đón Cưu-ma-la-thập về Trường An. Tại Trường An, sư tổ chức dịch được 74 bộ với 384 quyền (hiện còn lại 39 bộ với 313 quyển) với lời văn đẹp đẽ
Bức họa Pháp Hiển tại phế tích đền Ashoka
- Tăng nhân người Hán sang Thiên Trúc cầu kinh rất nhiều. Pháp Hiển (337 - 422) xuất gia năm 3 tuổi và làm nhà sư năm 20 tuổi. Năm Long An thứ 3 thời Đông Tấn (401), Pháp Hiển cùng bốn nhà sư khác bắt đầu đi bộ sang phía tây cầu kinh. Sư Pháp Hiển thăm nhiều địa điểm Phật giáo thiêng liêng ở Tân Cương, Pakistan, Ấn Độ, Nepal, Bangladesh và Sri Lanka từ năm 399-412 để tìm kinh Phật. Cuộc hành trình của ông được mô tả trong quyển Phật quốc ký. Về sau, Pháp Hiến về tu hành ở Kinh Châu, cùng các nhà sư khác dịch Hoa Nghiêm kinh rồi viên tịch không lâu sau đó
1. Tình hình chính trị
A. Tây Tấn (265 - 316)
* Tấn Vũ đế (265 - 290):
vua Tây Tấn Vũ đế
+ Tổ chức chính quyền:
Sau khi đánh bại được Thục Hán và Đông Hán, vua Vũ đế nhà Tây Tấn chính thức thống nhất được Trung Quốc, đóng đô ở Lạc Dương. Do Lạc Dương ở phía tây nước Tấn, nên triều đại có tên là Tây Tấn (265 - 318). Khi Tấn Vũ đế chính thức cai trị Trung Quốc thống nhất, quyền lực của ông ta được mở rất rộng, về phía bắc đến trung tâm Triều Tiên và phía nam đến hết Giao Châu (Âu Lạc cũ)
Bản đồ Trung Quốc thời Tấn Vũ đế
Tấn Vũ đế thiết lập chính quyền mới ở kinh đô Lạc Dương (sau đây gọi tắt tên triều đại theo tên kinh đô). Hoàng đế chia bộ phận quan lại là Bát công (gồm Thái tể, Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Tư đồ, Tư không, Đại tư mã, Đại tướng quân) nhưng không có thực quyền. Ngoài ra có Tam sảnh (Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh và Môn hạ sảnh). Chức "Thượng thư sảnh" có quyền thế rất lớn, đứng đầu là Thượng thư lệnh và Thượng thư bộc xạ làm phó - dưới hai ông này là Phân tào thượng thư (Lại bộ, điền trung, điền tào, ngũ minh, độ chi, tả dân, thượng thư lệnh, thượng thư bộc xạ) và Lục tào thượng thư (Thượng thư lang - do Lục tào quản lý tới 35 người) => Tổ chức "Tam sảnh" tương đương với Lục bộ ngày nay. "Trung thư sảnh" coi về văn thư; "Môn hạ sảnh" để can gián Hoàng đế. Hoàng đế Tây Tấn cho mở rộng cơ quan Chiêm sự phủ để quản lý và dạy học cho Thái tử và cơ quan này không có thực quyền gì; nhưng một khi Thái tử lên ngôi thì những người này nhanh chóng leo lên.
+ Pháp luật:
Luật đời Tấn do Giả Sung, Đỗ Dự cùng các pháp quan khác biên soạn, ban hành vào năm 267 thời Tấn Vũ đế. Bộ luật có 20 thiên, 620 điều. Trong bộ luật quy định rõ về chế độ trang phục - ai vi phạm trong đó sẽ bị tử hình; giảm nhẹ hình phạt mua chuộc nhân tâm; bỏ hình phạt cấm cố thời hán mạt.
+ Phân phong cho chư hầu:
Để có thể sự ủng hộ của quý tộc và dễ dàng đàn áp khởi nghĩa nông dân, Vũ đế chia nước ra thành 19 châu. Vì muốn có sự ủng hộ của các phiên vương (vì họ ủng hộ mà ông lên được ngôi Hoàng đế), Hoàng đế Tây Tấn hào phóng cung cấp cho các phiên vương một lực lượng quân đội khá lớn theo nguyên tắc: Nước phong có 2 vạn hộ là nước lớn, quân sĩ 5.000 người; Có 1 vạn hộ là nước vừa, quân sĩ 3.000 người. Nước có 5.000 hộ là nước nhỏ, quân sĩ có 500 người. Theo một số nhà nghiên cứu, chính sách của Tấn Vũ đế là rất tốt vì giúp Hoàng đế có được sự ủng hộ của các phiên vương (như đầu thời Tây Hán). Nhưng khác với vua Hán Cao tổ, Văn - Cảnh của Tây Hán chủ trương kìm chế sức mạnh của phiên vương ngay từ đầu, Tấn Vũ đế không có một chủ trương nào kìm chế thế lực phiên vương quá hùng mạnh này. Theo "Kể chuyện Lưỡng Tấn Nam-Bắc triều", Thẩm Khởi Vĩ cho rằng đây là sai lầm cực đoan mà sau này, viên quan Lục Nghị có cảnh báo về sự sụp đổ của nhà Tây Tấn do sai lầm này của Hoàng đế
+ Đối phó với quân Ngũ Hồ:
- Sau khi chính thức lên ngôi vua Tây Tấn, Vũ đế bắt đầu ra kế hoạch các chiến dịch quân sự chống người Tiên Ti và người Khương ở Tần Châu, Lương Châu (Cam Túc), trước khi tiêu diệt Đông Ngô. Năm 271, người Tiên Ti nổi dậy ở Lũng Hữu; vua Tấn sai tướng đem quân đàn áp người Tiên Ti, đến năm sau tình hình Lũng Hữu mới yên ổn. Tuy nhiên ở phía bắc, Hữu hiền vương Nam Hung Nô là Lưu Mãnh lại dấy binh chống lại nhà Tấn ở Tinh Châu (Sơn Tây), sau cũng bị trấn áp.
- Vừa đánh tan quân Đông Ngô, tướng Quách Khâm khuyên nhà vua nên điều lưu dân ngoại tộc trở về bản quán để tách họ với người Hán, đồng thời điều quân ra biên giới phía bắc để canh phòng; nhưng vua không nghe theo. Cuối thời Vũ đế, trào lưu bài trừ lưu dân diễn ra mạnh mẽ - nhất là sau khi Vũ đế vừa qua đời không lâu.
+ Với gia quyền của các vua Ngụy, Thục Hán và Đông Ngô bại trận: vua Tấn Vũ đế rất khoan hòa. Vua Ngụy Nguyên đế sau khi bị ông ta phế, liên được triều đình Lạc Dương cho hưởng lễ nghi của hoàng đế, khi dâng biểu không cần xưng "thần". Vua Ngô Tôn Hạo thì hưởng cuộc sống đầy đủ, trong khi trên 5.000 mĩ nữ của ông thì bị vua Tấn thu nạp hết vào hậu cung Lạc Dương. Còn vua Thục Hán Lưu Thiện thì triều đình nhà Ngụy phong cho ông làm An Lạc huyện công. Những người con của Lưu Thiện đều được phong cho chức tước.
+ Chính sách cai trị nhân dân: chịu ảnh hưởng của Đạo giáo, Tấn Vũ đế ban ra 5 chiếu thư:
- Thứ nhất là chính thân, yêu cầu quan lại phải liêm khiết, yêu thương dân chúng.
- Thứ hai là tích cực chăm lo việc của dân.
- Thứ ba là giúp đỡ người cô quả, cẩn phải kịp thời cứu giúp những người hoạn nạn.
- Thứ tư là coi trọng nông nghiệp, hạn chế các ngành nghề khác phát triển (như thương nghiệp).
- Thứ năm là về nhân sự, loại bỏ những chức vụ không cần thiết.
+ Ông vua xa xỉ:
- Sau khi ổn định xong đất nước, vua Tấn lao ngay vào lối sống xa xỉ: thích xây cất nhiều cung điện, việc ăn mặc cũng rất xa xỉ. Lối sống xa hoa của ông ảnh hưởng khắp cả nước. Các quan lại và bọn nhà giàu đua nhau bắt chước theo, khoe khoang sự giàu có, thi xem ai giàu hơn. Điển hình là việc đua của báu giữa Thạch Sùng và Vương Khải. Vương Khải thết tiệc đãi khách và sai thị tì mời rượu, nếu khách quá sau mà không cạn chén thì giết ngay tại chỗ. Lan truyền câu chuyện đua của báu giữa Thạch Sùng và Vương Khải như sau: Một hôm, Vương Khải và Thạch Sùng cạnh tranh nhau về sự giàu có. Vương Khải nói:
Nhà tôi lấy mật rửa chảo.
Thạch Sùng nói:
Nhà tôi lấy nến bạch lạp làm củi.
Các quan nghe vậy liền bảo rằng:
Lời nói không lấy gì làm bằng, muốn biết ai hơn kém thì phải lấy những thứ quý nhất đem ra, hễ ai nhiều thì được.
Vương Khải bèn lấy trướng lụa đem ra trải đường được 40 dặm. Thạch Sùng cũng đem trướng lụa ra trải, dài được 50 dặm. Vương Khải dùng phấn đá đỏ quét vôi nhà thì Thạch Sùng lại dùng hồ tiêu quét lên vách.
Các quan trong triều thấy Thạch Sùng đều hơn nên rất khen ngợi. Vua Tấn Vũ đế thấy Vương Khải kém thế nên tặng cho Vương Khải một cây san hô cao hai thước. Vương Khải liền đem cây san hô ra thi. Thạch Sùng liền lấy cây gậy ngọc Như Ý đập cây san hô ấy vỡ tan. Vương Khải cả giận nói:
Túc hạ không có của quý như thế mà đem thi, nên mới đập cây san hô của ta!
Thạch Sùng vội đáp:
Xin ngài đừng vội giận, ta xin đền cây khác lớn hơn.
Nói rồi xin trở về nhà đem đến bốn cây san hô đều cao bốn thước, sáng rực, lấy một cây đền cho Vương Khải.
Các bạn hai bên đều xin hòa, ai trở về nhà nấy.
* Ngoài ra, vua Tấn Vũ đế nổi tiếng có quá nhiều cung phi: trên 1 vạn người. Ban đầu khi mới lên ngôi, Tấn Vũ Đế nổi tiếng là một người rất sợ vợ. Vì sao ư? Vì vợ của ông cũng là một trong những đại mỹ nhân nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa - Hoàng hậu Dương Diễm. Sau khi hoàng hậu vừa mất, Vũ đế ra lệnh ra lệnh “cấm dân chúng tiến hành hôn lễ, dựng vợ gả chồng. Nhà ai có ý định giấu con gái hoặc kháng lệnh sẽ bị trừng phạt” (trích sách "Võ Nguyên Dương hoàng hậu truyện"). Sứ giả của nhà vua cưỡi xe phi tới các châu, quận để truyền lệnh vua ban. Nhiều gia đình giàu có đã phải cho con cái ăn mặc rách rưới hoặc giả bệnh để tránh việc bị tuyển vào cung.
Năm Thái Thủy thứ 9 toàn bộ hôn lễ đều bị hủy bỏ, tất cả mỹ nữ trong nước kể cả người đã là vợ chưa cưới của người khác cũng bị liệt vào danh sách mỹ nữ tiến cung cho vua Tấn Vũ Đế. Tư Mã Viêm còn đặc biệt yêu cầu con gái của các vị đại quan trong triều cũng phải vào cung ứng tuyển, nếu kháng lệnh sẽ bị xử tội. Những gia đình quý tộc không dám trái lệch vua, đành phải chuẩn bị cho con gái mình thật xinh đẹp để tiến cung.
Qua một lượt tuyển chọn, Tấn Vũ Đế là sở hữu trong tay rất nhiều người đẹp thời đó, bất luận là người đã có hôn ước hay là người chuẩn bị làm cô dâu tương lai thì cũng đều phải tiến cung. Bỗng chốc số lượng mỹ nhân trong hậu cung tăng lên tới năm ngàn người.
Vài năm sau, quân Tây Tấn đánh thắng quân Ngô. Tấn Vũ Đế nghe nói người đẹp Giang Nam không giống với mỹ nhân Bắc Kinh, nhất là người đẹp ở Ngô Việt thùy mị, kiều diễm, khiến người khác vô cùng mê mẩn. Bởi vậy Tư Mã Viêm lại hạ lệnh tuyển mỹ nữ Giang Nam tiến cung. Được biết, ngay sau khi vua Ngô qua đời, Tấn vương bèn ban lệnh đưa tất cả mỹ nữ trong cung của vua Ngô đem vào hậu cung của mình.
Ảnh minh họa hậu cung của vua Tấn Vũ đế
Mỹ nhân trong cung Tấn Vũ Đế vốn đã nhiều, nhưng sau khi thu phục được nước Ngô, số lượng mỹ nữ còn lên tới hàng nghìn người. Một năm 365 ngày, nếu mỗi đêm Tấn Vũ Đế chỉ “sủng ái” một mỹ nhân, vậy phải mất bao nhiêu năm ông mới “sủng ái” được một vạn mỹ nhân của mình. Trong hàng ngàn mỹ nhân ấy, việc qua đêm với cô nào trước, cô nào sau cũng khiến Tư Mã Viêm vô cùng đau đầu.
Xe dê của Tấn Vũ đế
Cuối cùng Tư Mã Viêm cũng nghĩ ra một cách đó là ông thường ngồi xe dê đi trong cung để chọn mỹ nhân qua đêm, cứ ngồi trên xe cho dê dẫn đi, dê dừng ở đâu thì ông sẽ ngủ lại ở đó. Những mỹ nữ được qua đêm cùng với nhà vua tất sẽ được bạn thưởng sự sủng ái. Có mỹ nhân nghĩ ra cách vảy nước muối vào lá trúc cài trước cửa để thu hút dê tới cửa phòng mình nhằm đạt được sự sủng ái từ Tư Mã Viêm. Tuy nhiên, phương pháp hay sau cùng cũng bị lộ. Các mỹ nhân thi nhau dùng muối dụ dỗ con dê, khiến muối trong hậu cung hiếm rất là. Con dê ăn nhiều muối quá, sinh bệnh, lăn ra chết. Rồi đến hàng chục con dê sau đó cũng như vậy!
Bên cạnh việc hoang dâm vô độ, Vũ Đế còn là một vị Hoàng đế sống xa hoa, thích xây cất nhiều cung điện, việc ăn mặc cũng rất xa xỉ. Lối sống xa hoa của ông ảnh hưởng khắp cả nước. Các quan lại và bọn nhà giàu đua nhau bắt chước theo, khoe khoang sự giàu có, thi xem ai giàu hơn.
Cuối thời Tấn Vũ đế, Hoàng đế hỏi đại thần là Lưu Nghị rằng:
Khanh thấy trẫm có thể so sánh với vị hoàng đế nào của nhà Hán?
Ý của vua muốn được so sánh với Cao đế, Vũ đế, Quang Vũ đế hoặc chí ít cũng như Văn đế, Cảnh đế nhưng Lưu Nghị trả lời:
Bệ hạ chỉ có thể ví mình với Hoàn đế, Linh đế thôi.
Vũ Đế tức giận, hỏi tại sao, Lưu Nghị đáp:
Hoàn Đế, Linh Đế bán quan tước lấy tiền nhưng vẫn cho vào trong quốc khố. Bệ hạ bán quan tước lấy tiền nhưng lại sử dụng cho riêng mình, như vậy là ngay cả Hoàn Đế, Linh Đế bệ hạ cũng không bằng.
Vũ Đế giận lắm, nhưng đành phải cười trừ:
Sao trẫm lại giống Hoàn Đế, Linh Đế được? Trẫm ít ra còn có trung thần dám nói sự thật như khanh.
Năm 290, Tấn Vũ đế qua đời
* Tấn Huệ đế (290 - 306)
Theo sử cũ, Tư Mã Trung (tên lúc lên ngôi của Tấn Huệ đế) là ông vua thiểu năng trí tuệ, đôi khi không thực hiện nổi một hoạt động thường ngày. Ông ta lên ngôi được là do vợ là hoàng hậu Giả Nam Phong cấu kết với quần thần khiến Tấn Vũ đế lập ông này làm Thái tử, thay vì chọn người cháu trai thông minh Tư Mã Duật
Tháng 5/290, Tư Mã Trung chính thức lên ngôi với hiệu là Tấn Huệ đế. Vừa lên ngôi, ông ta giao hết việc chính sự cho các quyền thần Dương Tuấn, Vệ Quán, hoàng hậu nhiếp chính...., còn nhà vua chơi đùa với bọn thái giám. Khi cùng với các đại thần bàn chuyện chính sự, một đại thần nói: "Dân chúng chạy loạn khắp nơi". Vua hỏi: "Dân chúng không có bánh màn thầu hay sao ?" Đại thần nói: "Dân chúng lấy đâu ra bánh màn thầu để ăn ?" Vua trả lời: "Vậy cho họ húp cháo thịt đi. Món đó thì chắc chắn nhà nào cũng có...", khiến đại thần cười ồ lên.
* Giả hoàng hậu chuyên quyền và sự bùng nổ "loạn bát vương" (291 - 300)
Trong triều đình Lạc Dương, hoàng hậu và các vương tử đấu tranh bè phái liên tục. Giả hoàng hậu thấy phe cánh của Dương Tuấn đang mạnh, bèn câu kết với các hoàng thân của vua Tấn chống lại. Theo sử cũ, Giả hậu rất xấu xí, những lòng dạ nham hiểm. Năm 291, bà ta câu kết với Tư Mã Vĩ và Tư Mã Doãn lập mưu đánh bại và ám hại Dương Tuấn, sát hại cả ngàn người họ Dương. Tiếp đó, Giả hoàng hậu lấy cớ Thái hậu Dương Chỉ có âm mưu làm loạn nên cho quân vào sát hại mẹ của Thái hậu là Bàng thị, nhốt Thái hậu vào lãnh cung cho chết đói. Tiếp sau, Giả hoàng hậu bắt đầu thanh trừng Tư Mã Vĩ. Bà ta sai quân đến đánh và giết Tư Mã Lượng, Vệ Quán; rồi vin vào danh nghĩa Hoàng đế để sát hại luôn Tư Mã Vĩ.
Như vậy, mọi quyền hành nằm trong tay Giả hoàng hậu. Việc chuyên quyền của Giả hậu, kích động các vương thất tranh quyền giết hại lẫn nhau đã khởi đầu cho loạn bát vương.
Nắm trọn đại quyền, Giả hoàng hậu thường bắt con trai ngoài kinh thành vào cung để tư thông; xong thì sát hại những người con trai này trong bí mật. Cuối cùng thì sự việc cũng bị lộ do một thanh niên từ trong cung của Giả hoàng hậu ra, bị quan bắt lại. Sau khi tra hỏi thì hóa ra số bạc vàng đó là từ hoàng hậu, và những chuyện về vị mẫu nghi xấu xí cũng từ đó mà dần bại lộ. Hoàng đế Tây Tấn về sau cũng biết hết, nhưng vì là một người sợ vợ, lại ngây ngô nên Huệ Đế đành ngắm mắt bỏ qua.
Ngoài chuyện trên, Giả hoàng hậu còn ra tay sát hại những cung phi của Tấn Huệ đế mà bà ta nghi là có "long thai". Giả hoàng hậu sống với nhà vua và chỉ sinh có 4 người con gái, nên bà ta luôn có thái độ ghen ghét, đố kị và luôn tìm cách hãm hại những phi tần đang mang thai khác. Thủ đoạn của Giả Nam Phong phải nói là thâm độc và hiểm ác vô cùng.
Như khi nghe tin một cung nữ mang thai với chồng mình, mật báo rằng đó có thể là con trai, Giả Nam Phong đã dựng lên một kịch bản hoàn hảo để phá đứa con trong bụng cung nữ này.
Một ngày đẹp trời, Giả Nam Phong lấy cớ hỏi thăm "long thai" nên mời vị cung nữ kia đến phủ mình. Biết là theo nguyên tắc thứ phi sẽ dâng trà nóng mới chánh cung, nên Giả Nam Phong chờ nàng đến, dâng trà mời mình rồi bà ta giả vờ để cốc trà nóng đổ lên người. Xong, lấy cớ bị xúc phạm, hoàng hậu sẽ đùng đùng nóng giận rồi lấy ngọn kích nhỏ cầm tay phóng thẳng đến người cung nữ. Sau cú phi này, người cung nữ đã bị thương và sảy mất thai rồng.
- Năm 299, Giả hoàng hậu dùng mưu ám hại Tư Mã Duật (con trai của nhà vua có với Tạ Cửu, một cung nhân của vua tiền nhiệm là Tấn Vũ đế): Tư Mã Duật rất thông minh lanh lợi, luôn được các triều thần đánh giá cao về khả năng trị nước sau này. Điều này đã làm cho vị hoàng hậu xấu xí Giả Nam Phong chướng tai gai mắt. Bà ta bèn lập mưu hãm hại Tư Mã Duật.
Tháng 12/299, Giả hậu đã sai người dụ thái tử uống rượu say rồi lừa viết bức thư phản nghịch. Thái tử Duật vì quá say không biết gì nên cứ thế chép lại nội dung do Giả hậu soạn sẵn. Giả hậu mang thư cho Huệ Đế xem để có cớ phế truất thái tử. Huệ Đế vốn là một người sợ vợ nên đành phải răm rắp nghe theo. Sau lần này, thái tử Tư Mã Duật bị phế làm thứ dân, còn Tạ Phi – mẫu hậu của Tư Mã Duật cũng bị Giả Nam Phong hành hạ cho đến chết. Về sau, lo sợ các quan lại sẽ phế truất mình, Giả hậu (hay Giả hoàng hậu) sai người đến đầu độc Tư Mã Duật trong cung.
* "Loạn bát vương" (300 - 306)
Cuộc nội chiến này xuất phát từ sau khi Tấn Huệ đế vừa mới lên ngôi được một năm; các vương đấu tranh lẫn nhau và đồng thời đấu tranh chống sự chuyên quyền của Giả hoàng hậu, các nhiếp chính. Cái chết của Tư Mã Duật đã châm ngòi cho "loạn bát vương" chính thức bùng nổ, kéo dài đến khi Tấn Huệ đế vừa chết (306) thì tạm kết thúc:
Loạn bát vương (tranh minh họa)
- Cái chết của Tư Mã Duật vào tháng 3/300 châm ngòi cho loạn Bát vương. Triệu vương Luân lấy cớ Giả hoàng hậu giết con riêng của Hoàng đế, bèn cất quân tấn công cung điện của Giả hoàng hậu; bắt sống Giả hoàng hậu và phe cánh. Riêng Giả hoàng hậu bị giam ở thành Kim Dung, rồi bị Triệu vương Luân sai người đến hạ độc chết; lúc mới 44 tuổi.
* Tháng 2/301, Triệu vương Tư Mã Luân theo kế của Tôn Du, buộc Tấn Huệ đế nhường ngôi. Ông lên ngôi và có hiệu là Kiến Thủy đế, tôn Huệ đế làm Thượng hoàng. Trong khi đó, Tề vương (người giúp Luân lên ngôi) chỉ được chức quan nhỏ, nên căm hận và sai người đi triệu tập các vương lật đổ vua mới. Quân các vương nhanh chóng đánh bại Kiến Thủy đế, rồi truất ngôi ông ta vào tháng 4/301, giam ở thành Kim Dung. Cuối năm 301, Tề vương sai người đến đầu độc Luân. Về sau, Tề vương cũng bị giết chết
- Năm 303, các vương họp binh chống đánh nhiếp chính Tư Mã Nghệ, phế ngôi vua của Tấn Huệ đế. Trong lúc hai bên đang đánh nhau thì Đông Hải vương Tư Mã Việt làm chính biến lật đổ Tư Mã Nghệ, bắt Nghệ giam rồi sau đó giết chết. Tư Mã Việt chính thức nắm quyền trong triều. Hai vương là Tư Mã Ngung và Tư Mã Dĩnh tức giận, mang quân đánh bại quân triều đình rồi ung dung tiến vào Trường An yêu cầu vua Huệ đế phế bỏ Dương hậu và Thái tử Tư Mã Đàm. Nhiếp chính Tư Mã Việt nghe tin bèn đưa quân ra đánh tan quân của Ngung và Dĩnh. Sau khi đánh thắng, Việt chủ quan nên bị Dĩnh đánh bại lần nữa. Dĩnh tiến vào Trường An, bắt giam Tấn Huệ đế. Việt sau thất bại đã ngầm nhờ Đô đốc Vương Tuấn sau cầu viện quân Hung Nô
- Cuối năm 303, Tư Mã Việt sai người sang nhờ cậy tướng của quân Hung Nô là Lưu Uyên giúp sức, phong ông ta chức Thiền vu. Không ngờ về sau, Lưu Uyên nhanh chóng huy động lực lượng lên đến 20 vạn quân và đến năm 304 thì Lưu Uyên xưng là Hoàng đế, lập ra nước Hán.
Không quan tâm đến họa xâm lược của Hung Nô, Tư Mã Dĩnh vẫn liên tục chuẩn bị chống đánh Tư Mã Việt. Bị thua trận với tướng Vương Tuấn, Dĩnh rút chạy về Trường An; lại phế bỏ Dương hậu và Thái tử rồi ung dung lên ngôi Hoàng thái đệ
- Tháng 11/304, Tấn Huệ đế đã về và được lập lại ngôi vị ở Trường An; quyền thế lọt vào tay Tư Mã Ngung và Trương Phương; Ngung bèn lập Tư Mã Xí làm Hoàng thái đệ. Phe của Tư Mã Dĩnh thấy Ngung chuyên quyền, lại nổi binh lên đánh tiếp và thắng hai trận liền với quân triều đình do Tư Mã Việt chỉ huy. Kinh đô ngày càng rối loạn, Tư Mã Việt bèn phục chức Hoàng thái đệ cho Dĩnh (thay thế Tư Mã Xí). Lúc này chỉ có ba vương chống đánh là Ngung, Dĩnh và Việt
- Tháng 12/305, Tư Mã Dĩnh bèn đem quân đánh chiếm thành Lạc Dương bỏ trống. Trong khi đó, Tư Mã Ngung đánh tan tác quân của Tư Mã Hổ, buộc ông này rút về họp binh với Lưu Côn ở Ký Châu. Lưu Côn (người trên danh nghĩa là theo Tư Mã Việt, cùng Vương Tuấn) đem quân đánh tan tành quân của Dĩnh, buộc Dĩnh rút về theo Tư Mã Ngung. Tư Mã Việt thấy phe của mình đang thắng thế bèn tấn công liên tiếp vào quân của Ngung. Ngung thua chạy, sau phải cho giết bộ tướng Trương Phương để cầu hòa với Tư Mã Việt. Tháng 6/306, Tư Mã Việt sai người đưa Tấn Huệ đế từ Trường An về lại Lạc Dương, phục ngôi cho Hoàng đế.
- Năm 306, Huệ đế lên ngôi ở Lạc Dương. Các tướng muốn đưa Dĩnh lên ngôi, nhưng đều bị quân của Tư Mã Hổ dẹp loạn nên Dĩnh bị cô lập ở Tân Hội. Tháng 9/306, Tư Mã Dĩnh bị bộ tướng của mình đánh thuốc độc chết. Tháng 11/306, sợ Tư Mã Ngung sinh biến nên Tư Mã Việt dùng lệnh của Tấn Hoài đế mời Ngung về triều làm Tư đồ. Dọc đường về triều, Ngung bị một viên tướng khác là Tư Mã Mô ở Hứa Xương sát hại.
- Tháng 11/306, Tấn Huệ đế bị Tư Mã Việt đầu độc giết chết. Năm đó ông 48 tuổi, ở ngôi được 17 năm. Tư Mã Việt lập hoàng thái đệ Tư Mã Xí – con thứ 25 của Tấn Vũ Đế - lên ngôi, tức là Tấn Hoài đế. Việc Tấn Huệ đế bị sát hại đã chấm dứt "loạn bát vương", nhưng triều đình Lạc Dương đã suy yếu nhiều và không đủ sức chống lại loạn Ngũ Hồ. Vì chém giết lẫn nhau nên mấy chục vạn người thiệt mạng, nhân dân vô cùng khốn khổ
* Loạn Ngũ Hồ và sự chấm dứt vương triều Tây Tấn (306 - 316)
# Tấn Hoài đế (307 - 311). Tư Mã Xí là con út của Tấn Vũ đế, lên ngôi và lấy niên hiệu Quang Hi (tháng 11 - hết tháng 12/306)
- Năm 307 (niên hiệu Vĩnh Gia nguyên niên), Lại Bộ lang Châu mục, cậu Thanh Hà vương Tư Mã Đàm (con Huệ đế), là người cùng phe với Tư Mã Việt và em gái là Gia Cát Mai đề nghị Tư Mã Việt phế Tấn Hoài đế, lập Thanh Hà vương làm thiên tử. Tư Mã Việt không nghe, bèn giết hết cả hai người. Năm sau (năm 308), nhà vua phong Dự Chương vương Tư Mã Thuyên làm Hoàng Thái tử; Tư Mã Việt và một tướng khác làm Đô đốc cai quản các châu lớn
- Năm 308, Lưu Uyên xưng làm Hoàng đế, lập ra nước Hán - nước đầu tiên của Ngũ Hồ (Hung Nô, Yết, Tiên Ti, Đê, Khương; bắt đầu xâm nhập vào nước Tấn từ thời Tấn Huệ đế), đóng đô ở Bình Dương (nay thuộc tỉnh Sơn Tây, TQ; dời đô 4 lần). Cùng năm này, quân Hán (người tộc Đê) của Lưu Uyên, cùng con trai là Lưu Thông tổng tấn công vào Lạc Dương. Quân dân Tây Tấn do Tư Mã Việt và các tướng chỉ huy đã chống cự quyết liệt, đánh tan liên tiếp ba đợt tấn công của quân Lưu Uyên, giữ vững kinh đô. Năm 309, quân của Hán lại tấn công Lạc Dương, song bị đẩy lui.
- Năm 310, quân tộc Đê của nước Hán (lúc này do vua Hán là Lưu Thông: 310 - 318 chỉ huy) liên tục tấn công và đánh bại quan quân nhà Tây Tán, chiếm mất phía tây thành Lạc Dương.
Vua nước Hán là Lưu Thông (310 - 318) - người đánh tan nhà Tây Tấn, bắt và sát hại hai vua Tấn cuối cùng
- tháng 10/310, lợi dụng triều đình Lạc Dương lộn xộn (Việt giết nhiều công thần của vua Tấn), quân Hán của Lưu Thông tấn công Lạc Dương lần thứ ba. Tư Mã Việt để vua Hoài đế ở Lạc Dương, còn mình thân chinh cầm quân ra đánh. Đầu năm 311, một tướng của Hán là Thạch Lặc tấn công Hoa Trung. Quân Tấn thất bại thảm hại, vua Hoài đế sai quân thảo phạt Tư Mã Việt (về sau Việt chết ở dọc đường). Quân triều đình Tấn đưa thi thể của Việt về thì bị quân của Thạch Lặc đuổi theo, chết mất mấy vạn quân Tấn. Triều đình rệu rã, vua Hoài đế buộc phải thiên đô....nhưng giữa đường thì bị lưu dân cướp hết tài sản nên phải quay về.
- Tháng 6/311, Thạch Lặc, Vương Di, Hồ Diên Yến đem quân tấn công Lạc Dương và nhanh chóng hạ được thành. Quân tộc Đê của Thạch Lặc thẳng tay cướp bóc, đốt phá. Hơn 3 vạn người gồm vương công, quan lại và nhân dân bị tàn sát. Tấn Hoài đế bị bắt về nước Hán, bị vua Hán là Lưu Thông giáng làm Cối Kê vương. Năm 312, cháu của vua Hoài đế là Tư Mã Nghiệp lên làm Thái tử. Về số phận của cựu vương Tấn Hoài đế, mùa xuân năm 313 triều đình của Lưu Thông đãi tiệc, bắt cựu vương Tây Tấn rót rượu. Trong bữa tiệc, Lưu Thông bình luận rằng họ đang làm gì khi cựu hoàng đế vẫn còn là Dự Chương vương, dẫn đến một cuộc đàm luận, trong đó Hội Kê công khéo léo xu nịnh hoàng đế Hán (trích "Tự trị thông giám" của Tư Mã Quang). Các quan bị bắt cùng Hoài đế là Dữu Mân và Vương Tuyển cảm thấy bị sỉ nhục, ứa nước mắt khóc. Lưu Thông giận dữ, giết Dữu Mân và Vương Tuyển cùng một số quan lại khác của nhà Tấn. Sau đó Lưu Thông đầu độc chết Tấn Hoài đế.
# Tấn Mẫn đế (313 - 316), Hoàng đế Tây Tấn cuối cùng, định đô ở Trường An
Sau khi lên ngôi vào mùa hè năm 313, Tấn Mẫn đế ra "chiều Cần vương" nhưng không ai hưởng ứng. Bất lực, Sách Lâm và Cúc Doãn ở Trường An phải đơn độc chiến đấu với quân Hung Nô. Dù quân Tấn vài lần đánh lui được địch nhưng ngày càng hao mòn, lại không được tiếp viện nên không thể giữ lâu.
Tháng 8/316, Lưu Thông (Hán) cử Lưu Diệu tiến đánh Trường An. Quân tộc Đê của Lưu Diệu vây ngặt Trường An, khiến người trong thành khốn quẫn, giết nhau để ăn. Tấn Mẫn Đế cùng đường, bèn bàn với Cúc Doãn "nhẫn nhục ra hàng, để cứu sĩ dân". Tháng 11/316, Tấn Mẫn đế Mẫn Đế mang ngọc tỷ truyền quốc ra hàng, bị giải về Bình Dương của Hán - Triều Tây Tấn diệt vong.
Giống như số phận của vua chú là Tấn Hoài đế, cựu vương Mẫn đế cũng bị vua Lưu Thông bắt rót rượu đãi tiệc, cựu thần Tấn thấy vậy nhiều người khóc thất thanh. Cũng vào khoảng thời gian này, có một số cuộc nổi dậy chống lại Hán, từng tuyên bố muốn bắt Lưu Xán để đổi lấy Tấn Mẫn đế. Lưu Xán bèn khuyên Lưu Thông giết Tư Mã Nghiệp. Lưu Thông nghe theo, giết chết ông (trích "Tự trị thông giám" của Tư Mã Quang)
B. Đông Tấn (318 - 420)
Lời người soạn: Phần này mạn phép trình bày theo kiểu niên biểu, không theo các triều vua. Các vua Đông Tấn không còn quyền hành gì, mọi quyền lực thực tế rơi vào tay quyền thần và hoàng hậu. Thời Đông Tấn, đại thần Tổ Địch và Hoàn Ôn nhiều lần bắc phạt, nhưng thất bại. Thời kỳ cuối, vua Đông Tấn lên ngôi còn nhỏ tuổi là An đế, Cung đế...cuối cùng Lưu Dụ lật đổ và sát hại vua Đông Tấn cuối cùng và mở ra thời kỳ Nam - Bắc triều (sẽ trình bày ở topic tiếp theo)
- Năm 317, Lang Nha vương Tư Mã Duệ xưng là Tấn vương, đặt niên hiệu Kiến Vũ. Do phần lớn hai kinh đô Trường An và Lạc Dương ở phía tây nước Tấn bị quân Hán của tộc Ba Đê (hay tộc Đê) chiếm đóng nên vào tháng 3 âm lịch năm 318, Tư Mã Duệ bèn lên ngôi Hoàng đế, hiệu Tấn Nguyên đế (318 - 322). Ông đóng đô ở kinh đô của nước Đông Ngô (thời Tam quốc) là Kiến Nghiệp - kinh đô nằm ở phía đông nước Tấn. Vì kỵ tên húy của vua tiền nhiệm là Tấn Mẫn đế, kinh đô mới được đổi thành Kiến Khang (nay là Nam Kinh, tỉnh Giang Tô). Tấn Nguyên đế cử Vương Đạo làm Tể tướng, và vị Tể tướng mới đã thực hiện chủ trương căn bằng quyền lực Nam - Bắc giữa các đại quý tộc, địa chủ ổn thỏa nhất
- Từ năm 317 đến 321, Tổ Địch bắc phạt. Phẫn chí vì việc chính quyền Kiến Khang không ủng hộ Bắc phạt do chịu ảnh hưởng từ chính sách của Vương Đạo, Tổ Địch mộ được 2.000 quân tiến đánh Ngũ Hồ. Năm 317, Tổ Địch dùng mưu mẹo và hạ được thành Lư Châu, Kiều Thành của Hậu Triệu. Vây ngặt quân Trần Xuyên (tướng của Thạch Hổ, cháu Thạch Lặc) của Hậu Triệu đến nỗi đối phương cạn lương thực, Tổ Địch lại dùng kế "sai quân nhồi vải vào bao, giả làm gạo rồi cho quân sĩ chở vào Đông đài. Sau đó ông lại cho quân lấy vài bao gạo thật, chở đi giữa đường, giả cách mệt mỏi nghỉ lại". Với kế sách này, quân Tổ Địch nhanh chóng chặn đánh và cướp hết viện binh lương của quân Hậu Triệu, buộc quân Hậu Triệu phải bỏ chạy. Ít lâu sau, Thạch Lặc đem quân đánh Tổ Địch, cũng bị thất bại nốt (hàng binh Hậu Triệu về sau được Tổ Địch đối xử tử tế). Năm 321, vua Tấn Nguyên đế sai tướng đến kiềm chế Tổ Địch. Tổ Địch phẫn chí vì vua không quan tâm đến ông nên sinh bệnh tật, trong khi cố làm thành để ngăn quân Hậu Triệu xâm nhập. Tổ Địch mất ở Dự Châu.
- Năm 322 đến 324, loạn Vương Đôn. Đôn là phò mã của Tấn Vũ đế, dẹp khởi nghĩa ở Kinh - Tương năm 311 nên tạo được thế lực lớn ở phía nam. Đến thời Nguyên đế, Vương Đôn lại có tham vọng kiểm soát phía tây đất nước với mưu đồ chống lại chính quyền trung ương. Năm 322, quân Vương Đôn bất ngờ tấn công vào kinh đô và đánh bại quân của nhà vua. Nguyên đế sau đó phải nhượng bộ và gia tăng quyền lực cho Vương Đôn. Thời Tấn Minh đế (322 - 325), quân triều đình lợi dụng lúc ông ta bị bệnh liền đánh bại phe cánh và quân của Vương Đôn, khiến ông này qua đời vào hai năm sau đó.
- Năm 325, Tư Mã Diễn (mới 4 tuổi) lên ngôi hiệu là Tấn Khang đế. Dữu Lượng làm nhiếp chính, thi hành chính sách khắc khe. Năm 326, Dữu Lượng dùng mưu sát hại Tư Mã Dạng với tội phản nghịch.
- Năm 327, Tô Tuấn nổi loạn. Nhiếp chính Dữu Lượng không muốn thấy thế lực của Tô Tuấn (quan Lịch Dương nội sử) quá mạnh, bèn triệu ông này về triều. Tuấn kháng mệnh, bèn vượt sông tiến đánh Kiến Khang. Vua Khang đế cho Dữu Lượng tập hợp lực lượng phòng bị. Mặc cho triều đình phòng bị, quân của Tô Tuấn tiến công mãnh liệt và đánh tan quân triều đình ở Cô Thục, Từ Hồ, Lăng Khẩu; rồi tiến đánh, đốt phá kinh đô Kiến Khang. Trong kho của triều đình có 20 vạn xúc vải, 5000 cân vàng bạc, ức vạn (1 tỷ) tiền, mấy vạn xúc lụa đều bị quân của Tô Tuấn cướp sạch. Tháng 3/328, Dữu Lượng cho gọi Đào Khản, Si Giám, Dữu Băng cùng 3 tướng khác ra đem quân "cần vương". Quân triều đình gồm 4 vạn người, lập tức đánh lây Tô Tuấn; tiến đánh nhiều trận rồi mà chưa phân thắng bại. Giữa năm 328, quân triều đình đánh bại Hoàn Phủ (tướng của Tô Tuấn, Tổ Ước) ở Lư Giang, giết hơn 1 vạn quân đối phương và cướp hết lương thực của chúng. Tổ Ước tiến đánh Bồn Khẩu, nhưng bị quân của Đào Khản đánh tan. Bị quân của Đào Khản đánh liên tiếp, quân của Tổ Ước thất bại nhiều trận và tan rã dần. Tô Tuấn nghe tin thất trận liền chạy trốn, giữa đường bị quân triều đình chặn đánh ở Thạch Đầu; Tuấn chết trận. Con của Tuấn là Thạc tiếp tục chống quân triều đình, nhưng thế ngày càng suy yếu và liên tục thất trận. Sau khi Ôn Kiệu (tướng của Tô Tuấn) bị triều đình xử tử, loạn Tô Tuấn kết thúc
- Từ năm 329 đến 333, lãnh thổ Đông Tấn liên tiếp bị quân Hậu Triệu xâm nhập. Năm 329, Hậu Triệu chiếm được Hoa Trung sau khi quân Đông Tấn không được triều đình hỗ trợ; kế đó quân Hậu Triệu ung dung đánh chiếm Lạc Dương, Thọ Xuân và Tương Dương không gặp phải cản trở gì. Quân Đông Tấn sau đó phản công, lấy lại được thành Tương Dương từ tay quân Hậu Triệu năm 332; đồng thời lấy được Ninh Châu khỏi tay của quân Thành Hán
- Năm 337, thủ lĩnh tộc Tiên Ti là Mộ Dung Hoảng xưng vương tại Liêu Đông, lập ra nước Tiền Yên độc lập với triều Đông Tấn (sau này ông ta có miếu hiệu là Yên Văn Minh đế: 337 - 348). Ngay sau đó, ông này sai sứ sang liên kết với vua Hậu Triệu là Thạch Hổ tiến đánh bộ tộc Đoàn
- Năm 339, Dữu Lượng ra kế hoạch cho quân Bắc tiến. Quân Đông Tấn chưa kịp xuất phát thì quân Hậu Triệu bất ngờ tấn công, chiếm mất nhiều thành trì ở bắc Hoàng Hà và cả Chu Thành. Dữu Lượng chết, kế hoạch bị bãi bỏ .
- Năm 341, Tấn Thành đế quy định dân lánh nạn từ Hoa Bắc xuống phải đăng lý hộ khẩu theo quận đang sinh sống
- Năm 343, Dữu Dực đề xuất kế hoạch Bắc tiến. Được vua Khang đế (342 - 344) chấp thuận, Dữu Dực cho quân tiến đánh một số nơi ở biên giới... nhưng về sau Dữu Dực hủy bỏ kế hoạch này.
- Năm 344, Tư Mã Đam mới 1 tuổi lên ngôi, hiệu Tấn Mục đế; mọi việc đều do Trử thái hậu quyết định
- Năm 346 đến 347, tướng Đông Tấn là Hoàn Ôn đánh tan quân Thành Hán; buộc vua cuối cùng là Lý Thế (343 - 347) phải đầu hàng và ông này được vua Tấn phong tước hầu
- Năm 349, lợi dụng Hậu Triệu đang hỗn loạn sau cái chết của vua Thạch Hổ (Hậu Triệu Vũ đế: 344 - 349) và hai vua kế là Thạch Tuân, Thạch Giám cai trị được vài tháng trong hỗn độn; tướng Hoàn Ôn quyết định Bắc chinh. Nhưng triều đình cản trở Hoàn Ôn và vua cử Trữ Bầu sang đánh, nhưng không thành công
- Năm 350, Ân Hạo quyết định Bắc chinh. Hạo bất tài, đánh trận thua liên tục. Năm 352, Hạo lại Bắc chinh - nhưng do các tướng nổi loạn nên ông từ bỏ chiến dịch. Năm 352, Ân Hạo lại Bắc chinh lần thứ ba. Hạo lấy lại được Hứa Xương, nhưng cuối cùng bị tướng Diêu Tương phục kích gây thiệt hại nặng nề. Năm 354, Ân Hạo bị vua giáng xuống làm dân thường
- Năm 354, Hoàn Ôn bắc phạt. Quân Đông Tấn nhanh chóng đánh tan quân Tiền Tần của vua Bồ Kiên ở Thường Lạc, Thanh Nê và Lam Điền. Thắng trận Lam Điền, quân Đông Tấn được nhân dân đón và khao lương thực. Tháng 6/354, quân Đông Tấn phản công, nhưng do bị đối phương triệt lương nên phải rút lui
- Năm 356, Hoàn Ôn tiến hành chiến dịch chống lại tướng Diêu Tương của vua Tiền Yên. Diêu Tương định trá hàng, nhưng bị quân Đông Tấn bất ngờ tấn công và đánh tan ở Y Thủy. Diêu Tương bị thương phải bỏ chạy sang Tiền Tần, bị tướng Tiền Tần là Phù Kiên đón đường giết chết. Sau khi Diêu Tương qua đời, em trai ông là Diêu Trường tiếp tục phụng sự cho vua Tiền Tần. Khi vua Tiền Tần là Phù Kiên qua đời sau thất bại ở trận Phì Thủy (vua Phù Kiên (hay Bồ Kiên) sau đó bị Diêu Trường cho siết cổ đến chết), Diêu Trường chính thức xưng vương ở Trường An, lập ra nước Hậu Tần (385 - 417) của tộc Khương.
- Năm 358, một chiến dịch Bắc chinh của tướng Tuân Tiện (荀羨) nhằm chiếm lại bán đảo Sơn Đông đã thất bại.
- Năm 359, vua Tiền Yên là Cảnh Chiêu đế (Mộ Dung Tuấn: 348 - 360) gây sức ép lên vùng đất của Tấn ở phía nam Hoàng Hà. Quân Tấn dưới quyền Gia Cát Du (諸葛攸) và Tạ Vạn (謝萬) đãn tiến đánh Tiền Yên. Song Tạ Vạn nhận định sai rằng quân Tiền Yên ở gần và ra lệnh rút lui. Không có cứu viện, các vùng đất của Tấn ở phía nam Hoàng Hà bắt đầu rơi vào tay Tiền Yên.
- Tháng 7/361, Tư Mã Dục lên ngôi vua và lấy hiệu Tấn Ai đế (361 - 365), Trử thái hậu nhiếp chính (về sau ông bị pháp sư đầu độc chết)
- Đầu năm 362, vua Tiền Yên là U đế (360 - 385) tấn công để lấy lại Lạc Dương. Quân Đông Tấn tiến đánh, song do bị thiếu lực lượng nên thất bại, Lạc Dương rơi vào tay Tiền Yên
- Năm 369, Hoàn Ôn phát động bắc chinh chống lại Tiền Yên để lấy lại Lạc Dương. Tháng 6, quân Tấn tới Kim Hương bị khô hạn, thuyền không đi được, ông sai quân sĩ đào 300 dặm vùng Cự Dã để khai thông cho thuyền đi. Tháng đó ông liên tiếp thắng quân Yên ở Hoàng Hư (Hà Nam) và Lâm Chử (Tân Trịnh – Hà Nam). Vua Tiền Tần là Phù Kiên (357 - 385) cho 2 vạn cứu viện. Hoàn Ôn nghe tin có cứu viện liền rút lui, dọc đường bị quân Tiền Yên đón đánh gây thiệt hại nặng.
- Tháng 11/371, Hoàn Ôn phế vua Tấn Phế đế (365 - 371) và giáng làm Hải Tây công; đưa Tư Mã Dục lên ngôi khi ông này ngoài 50 tuổi, hiệu Tấn Giản Văn đế (371 - 372). Tháng 12/372, Giản Văn đế mất, Tư Mã Diệu lên ngôi hiệu là Tấn Hiếu Vũ đế (372 - 396) - hoàng đế duy nhất còn thực sự cai trị đế quốc. Năm 396, Hiếu Vũ đế bị thiếp của mình là Trương mỹ nhân sát hại
- Năm 373, quân Tiền Tần tấn công và chiếm Lương Châu (梁州, nay là phía nam Sơn Tây) và Ích Châu (益州, nay là Tứ Xuyên và Trùng Khánh). Tuy nhiên, về mặt đối nội thì có vẻ như Đông Tấn được Tạ An và Hoàn Xung quản lý khá tốt.
- Năm 376, 13 vạn quân Tiền Tần bất ngờ tiến đánh Tiền Lương, chư hầu của vua Đông Tấn. Quân Đông Tấn do Hoàn Xung chỉ huy quyết định đánh Tiền Tần để cứu Tiền Lương, song bị thất bại hoàn toàn. Quân Tiền Lương thất bại và vua Tiền Lương cuối cùng là Trương Thiên Tích (364 - 376) đầu hàng vua Tiền Tần Phù Kiên. Thiên Tích được vua Tiền Tần tha mạng, đã phục vụ cho vua Phù Kiên. Sau khi Tiền Tần thất bại ở Phì Thủy, Trương Thiên Tích đào thoát sang nước Đông Tấn và ở đó cho đến khi qua đời.
- Năm 378, Phù Kiên của Tiền Tần lại bắt đầu đem quân tấn công các thành Tương Dương, Ngụy Hưng và Bành Thành. Quân Đông Tấn của Tạ Huyền phản công, nhưng thất bại nặng và để mất hai thành Ngụy Hưng và Bành Thành vào tay quân Tiền Tần (riêng Tương Dương giữ được vì mẹ của tướng Chu Tự huy động hơn 100 phụ nữ đắp thêm thành mới, nên mới giữ được)
- Năm 381 (niên hiệu Thái Nguyên thứ sáu của vua Đông Tấn), quân Tiền Tần bất ngờ tiến đánh Cạnh Lăng (nay thuộc Hồ Bắc). Quân Tấn của Hoàn Thạch Kiền, Đô Quý ra quân phản công và đánh tan được quân Tiền Tần
- Năm 382, đất U Châu của Tiền Tần bị nạn cào cào nghiêm trọng; nhưng các quan lại báo cáo là được mùa khi ra bằng chứng: ruộng tốt thì mỗi mẫu thu được 70 thạch, ruộng xấu được 30 thạch. Ngoài ra, Phù Kiên lệnh cho các tổng trấn phân tán 15 vạn hộ người Đê ra các trấn để làm suy yếu tộc này.
- Tháng 11/383: trận Phì Thủy giữa quân Đông Tấn với Tiền Tần. Thất vọng vì vừa bị tướng Đông Tấn là Hoàn Xung đánh tan quân Tiền Tần ở Tương Dương vào tháng 5/383, vua Tiền Tần là Phù Kiên huy động trên 10 vạn quân bộ, hơn 1 vạn thuyền lương kéo về gần Phì Thủy. Phía vua Đông Tấn bèn cử Tạ Huyền đem 8 vạn quân bộ, cộng với 5.000 quân thủy ra đánh. Hai bên dàn trận ở Phì Thủy (một nhánh của sông Hoài, ở An Huy). Bắt đầu trận đánh, Tạ Huyền nhắn tin đòi đối phương lùi quân để Đông Tấn qua sông và Phù Kiên đồng ý. Khi quân Tiền Tần đang lui binh, bọn Chu Tự phía sau la lớn: "Quân Tiền Tần thua rồi" làm hàng ngũ quân Tiền Tần bỏ chạy tán loạn. Quân Đông Tấn nhanh chóng vượt sông và đánh vào đội hình quân địch đang rút lui. Quân Tiền Tần tan vỡ tháo chạy tán loạn, chủ tướng là Thừa tướng Phù Dung bị quân Đông Tấn giết khi đang rút. Thừa thắng, quân Đông Tấn truy đuổi quân Tiền Tần tới tận Thọ Dương, bắn bị thương vua Phù Kiên của Tiền Tần và làm tan rã luôn quân của Mô Dung Thùy đang chuẩn bị tiếp ứng cho Tiền Tần. Vua Tiền Tần chạy mãi đến Hoài Bắc chỉ còn hơn 1 vạn kỵ binh đi theo, đến năm 385 thì bị bộ tướng là Diêu Trường giết chết. Tạ Huyền trong men say chiến thắng đã dẫn đầu một chiến dịch nhằm tái chiếm các lãnh thổ đã mất, Đông Tấn sau đó đã lấy được hầu hết các châu của Tiền Tần ở phía nam Hoàng Hà một cách khá nhanh chóng, cũng như lấy lại Lương Châu và Ích Châu
- Năm 390, Tư Mã Đạo Tử chuyên quyền và lấn át quyền lực của vua Hiếu Vũ đế, nhà vua phải cho lực lượng ra kiềm chế Đạo Tử. Năm 395, xung đột giữa Hiếu Vũ Đế và Tư Mã Đạo Tử đã bùng nổ, song nhờ sự can thiệp của Lý Thái hậu, Hiếu Vũ Đế đã không loại bỏ em trai mình
- Năm 396, Tư Mã Đức Tông, một người bị khuyết tật về trí tuệ đến mức không thể nói được, tự mặc đồ và không biết đói hay no, không biết nóng lạnh, được tôn lên làm vua, hiệu là Đông Tấn An đế (396 - 419). Quyền lực thực tế do Tư Mã Đạo Tử và Vương Quốc Bảo nắm hết.
- Năm 397 (niên hiệu Long An nguyên niên đời Đông Tấn An đế), thứ sử Kinh Khẩu sai người đến liên kết với thứ sử Kinh Châu để chuẩn bị dấy quân thảo phạt Vương Quốc Bảo. Tư Mã Đạo Tử lo sợ hai người này liên minh đánh mình, nên bức Vương Quốc Bảo phải tự sát. Năm 398, thứ sử Kinh Khẩu tính dấy binh, nhưng bị Tư Mã Nguyên Hiển dùng mưu lung lạc rồi sát hại. Còn thứ sử Kinh Châu Ân Trọng Kham, nhiếp chính Đạo Tử dùng mưu điều người của mình ra giữ Kinh Châu khiến Ân phải lui binh. Đạo Tử sau đó trả chức vụ lại cho Trọng Kham
- Cuối năm 398, thủ lĩnh đạo Thiên sư là Tôn Thái (bạn của Tư Mã Nguyên Hiển) chuẩn bị dấy quân. Tư Mã Đạo Tử phát hiện âm mưu phản nghich này, bèn cho Nguyên Hiển dụ ông ta tới rồi giết chết. Tôn Ân (cháu của Tôn Thái) chạy ra hải đảo để chuẩn bị báo thù.
- Năm 399 đến 411, khởi nghĩa nông dân do Tôn An (có chỗ ghi Tôn Ân) lãnh đạo đã bùng nổ ở đông Chiết Giang, lôi kéo được nông dân vùng Thái Hồ cho đến lân cận Kiến Khang tham gia đến mấy vạn người. Triều đình phái quân đi đánh dẹp, khiến Tôn Ân phải 4 lần chạy thoát ra đảo. Năm 402, Tôn Ân tấn công Lâm Hải bị thất bại, bèn nhảy xuống biển tự vẫn. Tàn dư nghĩa quân Tôn Ân bèn đưa Lư Tuần, Lư Kính Đạo ra chỉ huy, tiếp tục chiến đấu. Bị quân triều đình của Lưu Dụ liên tiếp đánh bại, nghĩa quân rút sang châu Giao (bắc Việt Nam), liên kết với nghĩa quân châu Giao cùng tấn công thành Long Biên và đánh phá quận Cửu Chân, giết chết viên thái thú của quận này. Đây là cuộc liên kết lý thú giữa nhân dân Việt Nam với nông dân Trung Quốc cùng chống kẻ thù chung là triều Đông Tấn. Năm 404, nghĩa quân Lư Tuần đánh chiếm Quảng Châu. Năm 409, nghĩa quân lại theo lời hiệu triệu của Lưu Dụ (lúc này ông ta đánh Nam Yên) tiến đánh kinh đô Kiến Khang vào năm 410. Trong năm 410, quân triều đình của Lưu Dụ bất ngờ phản công khiến quân khởi nghĩa thất bại nhiều trận liền, liền rút tàn quân về Giao Châu thì bị thứ sử Giao Châu là Đỗ Tuệ Độ đánh bại hoàn toàn vào năm 411. Thất trận, Lư Tuần tự vẫn cùng nhiều thê thiếp. Thứ sử Giao Châu bèn chém đầu Lư Tuần và đồng đảng, truyền về kinh thành Kiến Khang.
- Mùa hè năm 399, Tư Mã Nguyên Hiển chớp thời cơ vua An đế say rượu để có được một chỉ dụ về việc chuyển giao quyền lực của Tư Mã Đạo Tử cho mình. Khi Tư Mã Đạo Tử thức dậy trong sự kinh ngạc, ông trở nên tức giận, nhưng sau thời điểm đó, quyền lực của ông cực kỳ hạn chế, mặc dù trên danh nghĩa ông vẫn là người nhiếp chính. Trong năm này, Hoàn Huyền nổi lên thành một thế lực lớn sánh ngang với Tư Mã Nguyên Hiển; Ân Trọng Kham chưa kịp ra tay thì Hoàn Huyền bất ngờ đem quân tới, đánh tan và giết Trọng Kham trên đường rút chạy.
- Năm 402, Nguyên Hiển thảo phạt Hoàn Huyền ở Giang Lăng. Hoàn Huyền ra hịch kể tội trạng của Nguyên Hiển, rồi bất ngờ tiến đánh Lịch Dương (buộc Lưu Lao Chi đầu hàng) rồi tiến nhanh vào Kiến Khang. Tại kinh đô, Hoàn Huyền truất phế Nguyên Hiển rồi giết chết, hạ độc Tư Mã Đạo Tử. Sau đó, Hoàn Huyền sai Lưu Dụ đi trấn áp nghĩa quân Lư Tuần
- Tháng 12/403, Hoàn Huyền buộc vua Đông Tấn An để nhường ngôi rồi xưng đế với hiệu Vũ Điệu đế (403 - 404), thành lập vương triều Hoàn Sở. Chính quyền mới cắt cử quan lại tùy tiện, khôi phục nhục hình và xây dựng cung điện vô tội vạ, khiến lòng dân căm giận. Năm 404, Lưu Dụ xuất binh đánh bại em của Huyền là Tu. Hoàn Huyền sai tướng Lưu Nghị đem quân phản công, nhưng Lưu Nghị bất ngờ trở giáo và phát động binh biến giết chết Hoàn Hoằng (em trai của Huyền). Tháng 5/404, Lưu Dụ đánh bại quân của Hoàn Huyền; Huyền bỏ chạy và sau đó bị giết chết. Ngôi vua Đông Tấn được Lưu Dụ trả về cho An đế.
- Năm 405, tàn quân của Hoàn Huyền rút về Tứ Xuyên, tôn Tiều Túng lên ngôi và lập ra nước Tây Thục, đóng ở Thành Đô. Lợi dụng Tiều Túng mâu thuẫn với tướng Diêu Hưng và Hoàn Khiêm, Lưu Kính Tuyên (Đông Tấn) kéo quân Đông Tấn chuẩn bị tiến đánh Tây Thục; nhưng đội quân của ông ta bị đối phương vây tới 60 ngày, tuyệt lương nên phải rút lui. Mùa thu năm 410, quân Tây Thục tiến đến Kinh Châu; nhưng nội bộ bị mâu thuẫn nên phải rút lui. Từ năm 412, Lưu Dụ đem 3 vạn quân Đông Tấn tiến đánh Tây Thục. Quân Tây Thục kháng cự được một năm, cuối cùng phải chịu thất bại, Tiều Túng phải tự sát và tướng Tiêu Đạo Phúc bị quân Đông Tấn giết hại trên được rút chạy. Nước Tây Thục diệt vong.
- Năm 410, quân Đông Tấn tiêu diệt Nam Yên: năm 409, vua Nam Yên là Mộ Dung Siêu (405 - 410) cho quân đánh phá biên giới phía bắc của Đông Tấn. Đáp lại, Lưu Dụ được sự ủng hộ của Mạnh Sưởng đã đem quân Đông Tấn đánh tan chủ lực Nam Yên. Mùa xuân năm 410, quân Đông Tấn bao vây thành Lâm Cù, buộc vua Mộ Dung Siêu chạy về thành Quảng Cố và ông này sai người sang cầu viện vua Hậu Tần là Diêu Hưng (394 - 416). Song, quân Hậu Tần cũng bị quân Hạ của Hách Liên Bột Bột đánh thua liểng xiểng ở Nhị Thành (nay thuộc Thiểm Tây) nên không dám ứng cứu cho Nam Yên. Tháng 3/410, quân Đông Tấn tổng tấn công vào kinh đô Nam Yên, vua Mộ Dung Siêu phải bỏ thành chạy. Quân Đông Tấn đuổi kịp, bắt sống Mộ Dung Siêu cùng hơn 3.000 quý tộc, quan lại Nam Yên đưa về Kiến Khang xử tử. Nước Nam Yên diệt vong.
- Năm 412, Lưu Dụ nghi ngờ Lưu Nghĩa ở Kinh Châu chống lại mình, nên xuất quân đánh tan Lưu Nghĩa, rồi giết hại ông này. Năm 413, Lưu Dụ giết luôn quân sư Gia Cát Trường Dân do nghi ngờ ông này ủng hộ Nghĩa
- Năm 414, Lưu Dụ bất ngờ cho giết chết Tư Mã Văn Tư (thứ sử Kinh Châu) do nghi ngờ ông này chống lại mình. Tiếp đó, năm 415 Lưu Dụ lại đem quân tấn công Tư Mã Lưu Chi (thứ sử Kinh Châu mới nhậm chức), chiếm Giang Lăng và buộc Lưu Chi và cháu mình phải chạy trốn sang Hậu Tần
- Năm 416, lợi dụng vua Hậu Tần là Diêu Hưng vừa qua đời, Lưu Dụ xuất quân tiến đánh Hậu Tần, giao kinh đô Lạc Dương cho người thân tín trông coi. Khi Đàn Đạo Tế giữ được Lạc Dương, Lưu Dụ bức vua Đông Tấn An đế phong cho mình làm Tống công.
- Mùa xuân năm 417, Lưu Dụ chia quân thành 2 cánh tấn công vào Hậu Tần. Cánh quân đầu tiên đánh tan và khiến tướng Diêu Thiệu của Hậu Tần chết trong giận dữ. Cánh quân còn lại của Đông Tấn thì tiến đánh tan hoàn toàn quân Hậu Tần, buộc vua Hậu Tần là Diêu Hoằng (416 - 417) rút về Trường An. Quân Đông Tấn tiến đánh Trường An, bắt vua Hậu Tần cùng hoàng tộc giải về Kiến Khang rồi xử tử toàn bộ. Hậu Tần diệt vong.
- Trong năm 417, lợi dụng việc Lưu Dụ rời khỏi Trường An, quân Hạ của Hách Liên Bột Bột tiến đánh Trường An. Tận dụng nội bộ tướng lĩnh Đông Tấn trong thành đang lục đục, quân Hạ bao vây Trường An. Lưu Dụ nghe tin bèn lệnh cho con trai đang trấn giữ Trường An là Lưu Nghĩa Chân rút lui. Trên đường rút, quân Đông Tấn bị Hạ tiêu diệt toàn bộ ở Thanh Nê. Hách Liên Bột Bột xếp chồng các thủ cấp của lính Đông Tấn đã chết thành một khối, trông giống như một ngọn đồi. Sau đó, Hách Liên Bột Bột xưng đế.
- Năm 418, Lưu Dụ ép vua phong mình làm Tống vương. Sang năm 419, Lưu Dụ sai sát thủ đi siết cổ vua Đông Tấn An đế đến chết. Sau đó, Lưu Dụ lập Tư Mã Đức Văn làm hoàng đế, hiệu Đông Tấn Cung đế.
- Mùa thu năm 420, Lưu Dụ sai người về kinh đô Kiến Khang buộc Cung đế nhường ngôi. Mùa thu năm 421, Lưu Dụ sai sát thủ sử dụng một tấm chăn để làm cho cựu vương Cung đế ngạt thở. Triều Đông Tấn diệt vong.
2. Tình hình kinh tế, chính trị và văn hóa thời Tấn
* Kinh tế: bị phá hoại nghiêm trọng do chiến tranh liên miên; miền Nam lạc hậu hơn miền Bắc. Về thu thuế khóa, vua Tây Tấn thực hành "chiếm điền chế" và quy định chính đinh (từ 16 đến 59 tuổi) thu điền tô 4 hộc (tức mỗi mẫu 8 thăng). Đinh nam làm chủ hộ thì đóng mỗi năm một khoảng hộ điều là 4 tấm lụa và 3 cân bông; phụ nữ và thứ đinh nam làm chủ hộ thì giảm một nửa; vùng biên viễn thì giảm 1/3 hay 2/3. Ở triều Tấn thì tiền tệ không rõ ràng và phức tạp; nhưng hình dáng thì giữ nguyên kiểu cách của đồng 5 thù. Có trường hợp dùng 2 loại tiền mới - cũ cùng lúc, có trường hợp chỉ dùng tiền cũ thôi; lại có trường hợp không đủ tiền mới dùng đến thóc lúa để chi trả.
* Quân đội: đầu thời Tây Tấn, ở kinh sư đặt Trung, Hậu nhị vệ và Tả quân, Tiền quân, Hậu quân, Kiêu kị. Trung quân tướng quân quản lý hết bảy đội quân này; vua Tây Tấn đặt thêm năm hiệu úy, mỗi người lãnh 1.000 quân làm một doanh. Sau khi bình Ngô, để phòng ngừa các thế lực địa phương bành trướng thì vua Tây Tấn Vũ đế giảm nhiều quân ở châu quận, quận lớn không quá 100 người, quận nhỏ chỉ 50 quân. Để tăng cường tôn thất, vua Vũ đế lệnh cho các chư hầu được chiêu mộ quân, nước lớn 5.000, nước vừa 3.000 và nước nhỏ 1.000; kết quả chư hầu đều có quân đội riêng, ấp ủ nên mối họa "Loạn bát vương". Sau loạn Vĩnh Gia đầu thời Tấn Hoài đế, ở các nơi đều đua nhau lập các lực lượng địa phương. Triều đình Kiến Khang của Đông Tấn dùng "phát nô binh" của địa chủ, hoặc tướng soái tự chiêu mộ, như "Bắc phủ binh" của Tạ Huyền. Đến đầu thời Đông Tấn, quân lực ở các châu quận to lớn, còn võ bị của triều đình thì bạc nhược. Binh quyền thời Đông Tấn chủ yếu nằm trong tay các gia tộc họ Vương, Tạ, Dữu, Hoàn và các quân phiệt địa phương; trong đó có vài họ phản loạn chống Kiến Khang như Vương Đôn, Tô Tuấn, Hoàn Huyền.
* Tổ chức hành chính địa phương: thời Tây Tấn thì có 19 châu, gồm 13 châu ban đầu và thêm Quảng Châu của quân Đông Ngô, bốn châu của quân Thục Hán (Tư lệ hiệu úy quản lý 4 châu mới này). Đầu thời Đông Tấn, sĩ tộc và lưu dân phía bắc vào nhiều nên chính quyền đặt ra kiều châu, kiều quận, kiều huyện; cử người phương bắc quản lý các châu này. Do phép kiều ký (ngụ cư) nên dẫn tới trong châu có châu, trong quận có quận, gây nên sự xáo trộn hành chính địa phương rất nghiêm trọng
* Dạy học: thời Tấn có lập nhiều trường học; thi hành chế độ "cửu phẩm trung chính. Triều đình cử các quan gọi là Trung chính về các địa phương để căn cứ theo tài năng và đức hanh, chia những người có học thức trong vùng thành chín hạng để nhà nước tùy theo tài năng mà bổ dụng. Biện pháp nay có tiêu cực là chỉ có con em quý tộc và quan lại mới được lựa chọn, số còn lại thì ít được lựa chọn
* Khoa học kỹ thuật và văn học:
- Cát Hồng (283 - 363) theo Đạo giáo với quyển "Bão Phác Tử" nổi tiếng. Quyển này gồm 12 thiên, chủ yếu nói về y dược thần tiên, dưỡng sinh sống lâu, đeo bùa tránh thú dữ. Sách của ông này nói về luyện đan, thực chất là phản ứng hóa học; ông viết "đan sa đốt lên thành thủy ngân, nhiều lần thay đổi thành đan sa" - chính là nói đem đan sa đi nấu, lưu hoàng trong đó sẽ tách thành SO2, đồng thời tách thủy ngân ra khỏi kim loại, đem thủy ngân và lưu hoàng hóa hợp, sẽ thành HgS. Ngoài luyện đan, Cát Hồng nghiên cứu nhiều về các cây cỏ bồi bổ sức khỏe con người. Ở sách Bão Phác Tử ngoại thiên, Cát Hồng phê phán bọn phong kiến Đông Tấn cậy quyền cậy thế và dốt nát. Trong hai thiên Hán quá và Ngô thất của sách này, Cát Hồng châm chích việc đương thời; thiên Ngô thất đề cập thẳng vấn đề địa chủ trưng tập nhiều nông dân mất ruộng, lập ra lực lượng vũ trang riêng
- Phạm Ninh (339 - 401) trong tác phẩm đã phê phán tình hình nhà nước đương thời rất hà khắc, như nói "Người xưa dùng người mỗi năm không quá ba ngày, lao dịch hiện nay không thể có chuyện ba ngày là nghỉ, đến nỗi có người làm tổn thương thân thể để được miễn trừ (lao dịch). Sinh con không dám nuôi, đàn bà độc thân không dám cưới gả. Há không phải người quỷ cùng oán, cảm thương hòa khí sao" (Tấn thư, quyển 75).
- Vương Hy Chi (303 - 361) là nhà thư pháp nổi tiếng thời Tấn. Có nhiều điển tích xoay quanh nhà thi pháp tài hoa này: Một lần Hy Giám sai môn đến chỗ Vương Đạo tìm con rể. Vương Đạo bảo ông ta qua phòng phía đông mà xem. Ong ta xem xong bèn nói: "Con em nhà họ Vương đều giỏi, chỉ là nhìn thấy tôi hơi có vẻ căng thẳng, có một người nằm phơi bụng trên giường phía đông ăn bánh, giông như không có chuyện gì". Hy Giám nói" "Đó chính là con rể giỏi", bèn sai người tới hỏi, quả nhiên đúng là Hy Chi. Hy Giám bèn gả con gái cho ông ta.
Tranh về chân dung Vương Hy Chi (thời Nguyên)
Một lần Vương Hi Chi cùng bạn bè mở tiệc rượu ở Lan Đình thuộc Âm Sơn, Cối Kê (nay thuộc tỉnh Chiết Giang). Ông đã cao hứng vung bút viết một bài văn kỷ niệm. Đó là bài “Lan Đình tập tự”, được coi là một kiệt tác của lịch sử thư pháp Trung Hoa. Rất tiếc, bản chính ngày nay đã thất truyền.
Lần khác, họ Vương đến chơi nhà một học trò. Ngồi trong thư phòng bên cạnh một chiếc bàn mới, thấy mặt bàn sạch sẻ bóng loáng ông cao hứng, viết lên đó mấy dòng chữ rồi ra về. Người học trò nâng niu trân trọng bút tích của Vương hơn cả một bảo vật. Hôm sau anh có việc đi ra ngoài. Người cha vào dọn dẹp thư phòng, ngỡ là mặt bàn bị vấy mực bẩn, bèn lấy dao cạo sạch vết mực. Người học trò trở về, kêu trời không thấu.
Một lần khác nữa, Vương Hi Chi đi qua một chợ làng, thấy có bà lão đang rao bán một sọt quạt đan bằng nan tre. Vì loại quạt quá thô lại không trang trí nên chẳng ai để tâm. Vẻ lo buồn của bà lão làm Vương động lòng. Bèn lấy bút mực viết lên mỗi chiêc quạt vài chữ rồi bảo bà đem rao bán, nói “Đây là chữ của Vương Hữu Quân”. Bà lão bán tín bán nghi nhưng cũng làm theo lời dặn. Quả nhiên trong chớp mắt sọt quạt đã hết sạch.
Vương Hy Chi viết thư pháp trong khi ngắm Bạch Nga
Vương Hi Chi bình sinh rất thích Bạch Nga (Ngỗng trắng). Tương truyền tại Sơn Âm (nay là huyện Thiệu Hưng, Chiết Giang) có một đạo sĩ nuôi một đàn ngỗng rất đẹp. Vương Hi Chi sáng sớm nào cũng thả một chiếc thuyền con đến ngắm say mê. Họ Vương nhiều lần thương lượng để mua nhưng đạo sĩ không đồng ý. Mãi về sau đạo sĩ mới nói: “Lâu nay tôi chỉ thích một bản chép “Đạo Đức kinh”. Lụa và bút mực tôi đã chuẩn bị sẵn từ lâu nhưng không ai chép được. Ngài chỉ cần chép cho tôi hai chương thôi, đàn ngỗng này sẽ là của ngài”. Trừ những lúc cao hứng tự vung bút, bình thương xin chữ của Vương Hi Chi rất khó. Nhưng lần này ông sảng khoái ngồi viết suốt nửa ngày. Giao hai chương sách cho đạo sĩ rồi lùa bầy ngỗng đi ngay. Lòng tràn ngập vui sướng tới độ quên cám ơn và chào từ biệt chủ nhân.
- Cố Khải Chi (345 - 406) là nhà danh họa nổi tiếng thời Đông Tấn. Có nhiều giai thoại về ông:
Có thời gian Cố Khải Chi giúp việc cho đại danh gia của một vọng tộc lớn thời Lục triều là Ân Trọng Kham. Cố Khải Chi nhiều lần ngỏ ý muốn vẽ chân dung ân Trọng Kham, nhưng đều bị từ chối. Đó là do họ ân biết Cố Khải Chi rất chú trọng vẽ đôi mắt, mà ân Trọng Kham thì biết đôi mắt mình có khuyết tật, vẽ vào tranh sẽ phơi bày điểm yếu đó. Cố Khải Chi thuyết phục mãi họ ân mới đồng ý. Cố Khải Chi vẽ bức chân dung rất giống và đẹp, sau đó ông dùng ngọn bút khỏa nhẹ lên đôi tròng mắt, tựa như một lớp sương khói mỏng. Do vậy, đôi mắt ân Trọng Kham giống như thật, mà lại đẹp và chất chứa nhiều xúc cảm cuộc đời, một vẻ đẹp hơn hẳn cả khi đôi mắt chưa bị khuyết tật.
Toàn bộ bức Nữ sử châm đồ (Ảnh: wenguzhai)
Một góc bức họa “Lạc thần phú đồ” – Cố Khải Chi (Ảnh: I.zhuixue)
Năm 24 tuổi, Cố Khải Chi, đã là một họa gia danh tiếng, đến kinh thành. Dịp đó chùa Ngoãn Quan vừa trùng tu xong, các vị hòa thượng lên kế hoạch lạc quyên. Khá nhiều người hảo tâm đã đến làm công đức, hầu hết là quan chức và các bậc phú hào, nhưng chưa có người nào cúng dâng tới 10 vạn tiền. Cố Khải Chi tới chùa, lướt nhìn danh sách những người đã lạc quyên, rồi cầm bút ghi vào danh sách đó 100 vạn tiền. Việc này lập tức lan truyền khắp kinh thành. Người đời ai chả biết Cố Khải Chi là một danh họa thanh hàn. Một số hòa thượng đến hỏi xem Cố Khải Chi có thể cho tiền không, Cố liền bảo: “Xin hãy quét vôi lại bức tường phía Đông trong Hậu cung. Chỉ trong vòng 30 ngày là có đủ 100 vạn tiền”. Vốn trọng tài năng và nhân cách của Cố Khải Chi, các vị hòa thượng làm theo lời ông. Cố Khải Chi lền đóng cửa Hậu điện, vẽ một bức bích họa mô tả cuộc biện thuyết của Bồ tát Văn Thù với Bồ tát Duy Ma Cật. Trong bức bích họa, Cố Khải Chi phải dừng lại nhiều buổi mới vẽ xong đôi tròng mắt Duy Ma Cật. Hoàn tất, bức tranh mô tả sinh động toàn cảnh cuộc biện thuyết, có cả chư tiên trên trời rải hoa xuống trong nghi thức cúng dường… Rồi Cố Khải Chi bảo các vị hòa thượng mở cửa Hậu điện cho khách thập phương vào xem và thu tiền lạc quyên. Các thí chủ kéo đến, không tiếc tiền của trước chùa Ngoãn Quan cũng như trước bức bích họa của Cố Khải Chi. Quả nhiên, chỉ vài ngày, số tiền thu được đã lên tới hơn 100 vạn!
- Đới Quỳ (326 - 396) là ẩn sĩ, giỏi tạc tượng
- Sử học: Can Bảo soạn Tấn kỷ về sử nhà Tấn, sau này có nhiều đoạn được Tư Mã Quang dẫn lại khi soạn Tư trị thông giám. Điêu Tạc Xỉ soạn sách Hán Tấn Xuân Thu theo lối biên niên, từ Hán Quang Vũ Đế tới Tấn Mẫn Đế (25-316)
- Thơ ca: có đại thi thơ Đào Tiềm ( ? - 427). Từ nhỏ ông sinh hoạt khá hàn vi, nhưng tính chăm học, bách gia chư tử sách vở đều có đọc qua.
Năm 29 tuổi, ông làm Tế tửu Giang Châu. Mười ba năm tiếp theo, mấy lần ông làm quan nhỏ, mỗi lần chỉ trong thời gian ngắn. Khoảng 40 tuổi, vì nhà nghèo mà còn phải nuôi mẹ già, vợ con (ông có cả thảy năm người con trai), nên ông ra làm huyện lệnh Bành Trạch (vì thế ông còn được gọi là Đào Bành Trạch). Được hơn 80 ngày, nhân cuối năm quận phái viên đốc bưu đến huyện, nha lại khuyên Đào Tiềm chỉnh đốn y phục ra đón. Ông than rằng: "Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa" (Ta lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!). Ngay hôm ấy ông viết bài "Quy khứ lai từ" (Lời bày tỏ việc trở về), rồi trả ấn bỏ quan mà về.
Năm ông 62 tuổi, gặp lúc đói kém, nhà thơ lâm cảnh khốn cùng đến mức phải đi xin ăn. Tiêu Thống đời Lương viết Truyện Đào Uyên Minh kể lại rằng: "Khi Thứ sử Giang Châu là Đàn Đạo Tế đến thăm thì thấy nhà thơ nằm co ro, nhịn đói đã mấy ngày. Đạo Tế cho đưa rượu thịt tới, ông vẫy tay bảo đưa ra. Không bao lâu thì mất (năm 427 thời Nam Bắc triều), thọ 63 tuổi".
Đào Tiềm
Về thơ ca của Đào Tiềm, nhiều học giả nhận định: "Ông là người phẩm cách cao quý và ưa sự tự do. Thấy chánh sự trong nước bấy giờ đồi bại không thể cứu vãn được, ông quyết lui về nơi vườn ruộng để giữ lấy tiết sạch giá trong (...). Về văn từ, lời thơ ông bình thường, điềm đạm, mới đọc không lấy gì làm hay, làm lạ, nhưng ngẫm nghĩ kỹ mới thấy thú vị đậm đà (Dương Quảng Hàm). "Không hề làm một vị quan lớn, không có quyền uy, không có sự nghiệp nào cả trừ một tập thơ mỏng và vài ba thiên tản văn, mà Đào Uyên Minh chiếu sáng cổ kim như một ngọn đuốc lớn, và được các văn nhân thi sĩ coi là tiêu biểu cho một nhân cách cao quý nhất. Đời ông vô tư, tự do, khiêm tốn, giản phác... Ông có thiên tài cảm được và tả được một lối sống điều hòa, thiên tài đó tới cái mức hoàn toàn tự nhiên, bình dị mà từ xưa chưa ai đạt được. (...). Trong bài phú "Quy khứ lai từ" thì "Ông lánh chính trị chứ không lánh đời. Ông vui vẻ trở về cảnh điền viên giữa gia đình. Như vậy kết cục là một sự hòa hợp với thiên nhiên, với đời sống, chứ đâu phải là một sự phản kháng" (Lâm Ngữ Đường).
* Phật giáo: thời Tây Tấn, Trúc Pháp Lư người Nguyệt Chi dịch hơn 150 bộ kinh ở hang Đôn Hoàng; ông tới Trường An giảng pháp và hơn 1.000 tín đồ đến lắng nghe. Năm 310, tăng nhân Phật Đồ Trừ người Tây Vực sang Lạc Dương, được chú cháu Thạch Lặc, Thạch Hổ đón tiếp trịnh trọng. Vị tăng nhân khuyên họ Thạch không giết người nữa, xây 893 chùa và có gần 1 vạn tín đồ theo sư. Nhà sư mất năm 348, lúc 81 tuổi.
Thích Đạo An (312? - 385), theo học Phật Đồ Trừng lúc trẻ. Khi quân Tiền Tần tiến đánh Tương Dương năm 379 đã cho mời Thích Đạo An về Trường An giảng kinh Phật, tổ chức dịch Kinh Phật. Đệ tử của ông là Tuệ Viễn (334 - 417?) làm hòa thượng hơn 30 năm ở Lư Sơn, dựng nơi đón tiếp tăng nhân Tây Vực sang Trung Quốc; đồng thời viết Sa môn bất kinh vương giả luận thuyết phục được Hoàn Huyền
Cưu-ma-la-thập (344 - 413) là nhà sư của nước Quy Tư. Ông xuất gia theo mẹ lúc mới 7 tuổi, thông hiểu Đại thừa và Tiểu thừa. Năm 384, ông bị vua Hậu Lương Thái tổ là Lữ Quang đưa về Lương Châu. Năm 401, Diêu Hưng của Hậu Tần đánh bại quân Hậu Lương và đón Cưu-ma-la-thập về Trường An. Tại Trường An, sư tổ chức dịch được 74 bộ với 384 quyền (hiện còn lại 39 bộ với 313 quyển) với lời văn đẹp đẽ
Bức họa Pháp Hiển tại phế tích đền Ashoka
- Tăng nhân người Hán sang Thiên Trúc cầu kinh rất nhiều. Pháp Hiển (337 - 422) xuất gia năm 3 tuổi và làm nhà sư năm 20 tuổi. Năm Long An thứ 3 thời Đông Tấn (401), Pháp Hiển cùng bốn nhà sư khác bắt đầu đi bộ sang phía tây cầu kinh. Sư Pháp Hiển thăm nhiều địa điểm Phật giáo thiêng liêng ở Tân Cương, Pakistan, Ấn Độ, Nepal, Bangladesh và Sri Lanka từ năm 399-412 để tìm kinh Phật. Cuộc hành trình của ông được mô tả trong quyển Phật quốc ký. Về sau, Pháp Hiến về tu hành ở Kinh Châu, cùng các nhà sư khác dịch Hoa Nghiêm kinh rồi viên tịch không lâu sau đó
Last edited: