tiếp nữa nè:
Từ thực tiễn lịch sử văn học các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, có thể xem Thơ mới, về một phương diện nào đó, là kết quả của quá trình tiếp xúc, giao lưu, ảnh hưởng phương Tây, tiếp thu phương Tây để cách tân, đổi mới và phát triển văn học. Nhưng đồng thời, ở phương diện khác, sự hình thành và phát triển của Thơ mới cũng được xem là sự tự ý thức, sự chủ động tiếp thu và tiếp biến các giá trị văn học tiến bộ để các nước châu á hiện đại hóa văn học, gia nhập tiến trình chung của văn học thế giới.
Trở lại với Thơ mới ở Việt Nam, có thể nói đây là hiện tượng đã từng ngốn không ít giấy mực của giới lý luận phê bình và công chúng yêu thích văn học Việt Nam suốt 80 năm qua. Như trên đã nói, Thơ mới có ở nhiều nước trong khu vực, nhưng hình như không ở đâu nó có số phận thăng trầm gống như ở nước ta. Ngay lúc mới ra đời, Thơ mới giống như đứa trẻ được o bế, cưng chiều, được đón nhận vồ vập. Chỉ trong 10 năm, nó đã qui tụ thành một phong trào rộng lớn với những tên tuổi và tài năng lừng lẫy, đưa thi đàn dân tộc lên đỉnh cao chưa từng thấy. Vào năm 1941, khi tổng kết phong trào Thơ mới, Hoài Thanh đã xem đó là Một thời đại trong thi ca. Sự xuất hiện và thắng thế của Thơ mới đã “làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch” của thơ cũ vốn bị gò bó bởi các qui phạm, điển phạm, các phép tắc, niêm luật, vần điệu, sáo ngữ,… từng ngự trị suốt 10 thế kỷ. Cùng với Thơ mới, một quan niệm văn học mới, một ý thức mới về cái tôi cá nhân, một hình thức mới thể hiện thế giới cảm xúc của con người, một cảm quan mới về nhân sinh và vũ trụ,… đã được xác lập. Cũng giống như văn xuôi của các nhà văn trong Tự lực văn đoàn, Thơ mới với những phẩm chất cách tân của nó đã góp phần quan trọng vào việc phát triển ngôn ngữ tiếng Việt nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng. Từ góc độ văn hóa có thể nhận thấy ở Thơ mới những giá trị tiềm ẩn, những điểm dung hợp giữa truyền thống với hiện đại. Tuy lúc đầu, khi phong trào đang phát triển bồng bột, những người cổ súy cho Thơ mới có lúc đã chĩa mũi nhọn tấn công vào thơ cũ (thơ truyền thống), nhưng khi giành toàn thắng, chính những đại diện của Thơ mới đã cung kính nhận lại những giá trị đích thực của truyền thống thi ca mà vào giai đoạn cuối không ít người đã có xu hướng quay trở lại.
Nhìn lại lịch sử văn học hiện đại, có lẽ chưa có một trào lưu, khuynh hướng thơ ca nào có nhiều tác giả tài năng kiệt xuất và nổi tiếng sớm (phần lớn là ở tuổi 19, 20) như phong trào Thơ mới. Khi cách mạng tháng Tám nổ ra, phần lớn những thành viên của Thơ mới lại đầu quân lại vào văn học cách mạng, trở thành những nhà thơ trụ cột, mang tài năng của mình ra phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Nhưng, do những ấu trĩ nhất thời, lịch sử văn học cũng đã có lúc thành kiến với Thơ mới khiến cho những giá trị đích thực và tự thân của nó có lúc bị lu mờ. Ngay cả một số tên tuổi cự phách của Thơ mới, trong một hoàn cảnh nào đó cũng từng ghẻ lạnh với cả những đứa con tinh thần tuấn tú của mình. Cũng may là chính lịch sử sau 40 năm, đến thời kỳ đổi mới (1986), dưới ánh sáng của tư duy mới, của tinh thần dân chủ mới, nhiều giá trị văn học từng bị bỏ sót hoặc đánh giá chưa thỏa đáng đã được nhận thức lại, trong đó có Thơ mới. Có thể nói sau sự bừng tỉnh của lý trí, Thơ mới lại được đón nhận với một thái độ tất hữu. Tầm vóc của hiện tượng thi ca có ý nghĩa khu vực và quốc tế này đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước xác quyết, minh định. Đó là một hiện tượng thơ ca có ý nghĩa đặc biệt trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
Kỷ niệm 80 năm Thơ mới (1932 - 2012) là dịp để khẳng định lại một lần nữa ý nghĩa cách tân to lớn của phong trào Thơ mới đối với lịch sử văn học hiện đại; khẳng định lại tài năng, tâm huyết và cống hiến xuất sắc của các nhà Thơ mới cho nền văn học nước nhà.
Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập quốc tế đang diễn ra trên thế giới như một xu hướng không thể đảo ngược hiện nay, ôn lại những bài học từ Thơ mới thiết tưởng có thể mang lại cho chúng ta những suy nghĩ bổ ích, những kinh nghiệm lý thú, đặc biệt là về quá trình giao lưu như một qui luật phổ biến và tất yếu của sự phát triển văn học. Dưới tác động của qui luật đó, sự tìm tòi, thể nghiệm, cách tân vừa trở thành nhu cầu chủ quan, vừa trở thành nhu cầu khách quan của sự phát triển văn học. Nhưng cách tân theo hướng nào và như thế nào để thực sự tạo ra những bước phát triển đột biến làm cơ sở cho những sáng tạo nghệ thuật đích thực, làm sinh động, phong phú thêm cho nền văn học nói chung, cho thơ ca nói riêng, lại là vấn đề không đơn giản. Trước hết, cần một động cơ sáng tạo trung thực và sau đó là một tài năng, một vốn liếng tri thức văn hóa và văn học đủ để đảm bảo cho những tìm kiếm đúng hướng và có hiệu quả, có giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ cao. Kinh nghiệm từ quá trình vận động và phát triển của Thơ mới cho thấy mọi kiếm tìm nếu chỉ dừng lại ở hình thức, chạy theo hình thức đơn thuần sẽ dẫn nhà thơ đến ngõ cụt. Một khi thơ đã bị tước đi yếu tố cảm xúc và giá trị nhân văn thì mọi nỗ lực gia công về kỹ thuật cùng lắm cũng chỉ biến thi ca thành trò chơi ngôn ngữ như các nhà cấu trúc đã làm mà thôi.
Trong khi công chúng đang tỏ ra thờ ơ đối với thơ thì đích đến của mọi cách tân bất kể là nội dung hay hình thức không thể là nơi không có công chúng. Nếu có một thống kê đầy đủ và tin cậy về số lượng công chúng của Thơ mới trong suốt 80 năm qua thì chắc chắn đó sẽ là con số có ý nghĩa, đáng để chúng ta suy ngẫm.
Nguồn: Văn nghệ