C
conu
Đề: Phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân.
Bài làm:
Tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân đã tạc lưu lại trong tâm trí người đọc không chỉ bởi một ấn tượng dễ gọi mang tên nỗi ám ảnh về cái đói, cái cùng của những người nông dân sống trong đêm trước Cách mạng. Những tháng ngày 1945 ấy, cái đói cứ bủa vây nơi nơi, tưởng đâu đâu cũng ngửi thấy "mùi đói". Làng quê chìm trong ko khí tang thương với tiếng quạ kêu quang quác, tiếng khóc hờ của những nhà có người chết đói và thân vận rẻ rúng của bao cảnh đời: người ta có thể nhặt được vợ giữa đường chợ chỉ với 4 bát bánh đúc và mấy câu đùa cợt.... Tạm gác lại cái cứu cánh nội dung ấy, lật giở lại tác phẩm và để lòng ta lắng lại với những dư vị của cảm xúc. Ta đã hiểu... Nếu như nói đến văn học là nói đến 1 phạm trù ko giới hạn của nghệ thuật, có khả năng gợi mở mọi chiều kích của các giác quan và trường liên tưởng, thì đây: với tác phẩm vợ nhặt này ta không chỉ biết đến 1 anh Tràng thô nhám, cục mịch mà có lúc ngượng nghịu, ngẩn ngơ như một đứa trẻ lớn hiền lành, 1 chị vợ "chao chát, chỏng lỏn" mà "hiền hậu, đúng mực", ta còn biết đến 1 nhân vật nữa: một nv giữ cho câu chuyện "VN" có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Đó là nhân vật bà cụ Tứ. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng của người mẹ nông dân này.
Đến khoảng giữa câu chuyện, Kim Lân mới cho nhân vật Bà cụ Tứ xuất hiện như để hoàn chỉnh hơn ý niệm về một gia đình, trong mối quan hệ "mẹ chồng nàng dâu" với người "vợ nhặt". Nhưng hẳn không chỉ thế. Hãy xem cách mà Kim Lân dẫn dắt chúng ta đến với nhân vật. Bắt đầu là cái dáng "lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng".... Chao ôi! những câu giản dị nhường ấy mà chất chứa bao yêu thương trìu mến. Ta gặp lại cái dáng gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Từ "lọng khọng" đầy sáng tạo và có sức gợi hình, gợi tả tạc lại trong ta một dáng hình. Có phải không? Kim Lân đã gửi trọn tấm lòng kính yêu của mình để cảm thông cùng với những nỗi đau suốt một đời đã đè nặng lên đôi vai người mẹ. Vả chăng, với nhân vật bà lão, nhà văn còn có dịp nhìn việc lấy vợ của Tràng từ một góc độ khác, trong 1 tâm trạng khác. Tôi những muốn viết ngay về những diễn biến phức tạp trong tâm hồn người mẹ khi biết đứa con trai xấu xí, cục mịch của mình đã lấy được vợ lại giữa 1 hoàn cảnh đặc biệt éo le. Nhưng, 1 ấn tượng nữa về bà lão cứ hiển hiện trong tâm trí tôi - 1 ấn tượng dù chỉ thoáng gặp nhưng cũng thật khó quên. Tôi đã lần theo từng câu chữ của tác phẩm và tìm thấy những dòng tâm trạng này: "Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa, dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà nghĩ đến cuộc đời khổ cực dằng dặc của mình" Ta biết được người phụ nữ nông dân này có một số phận đầy bất hạnh. Cuộc đời bà là một chuỗi ngày khổ đau, tê tái. Bà đã vĩnh viễn mất đi người chồng và đứa con gái út yêu thương.. Dẫu biết thời gian có thể xoá nhoà đi tất cả nhưng vết thương lòng đâu dễ biến tan. Ta không gặp 1 cơn hấp hối trong đau đớn, cũng chẳng gặp những quằn quại quay quắt, ta chỉ gặp ở đó 1 con người của hiện tại với 1 cái thở dài đầy chiêm nghiệm đang nhìn trông về bờ quá khứ. Điều ấy lý giải vì sao con người già cả ấy lại quen đánh giá sự việc bằng kinh nghiệm và sự từng trải, bằng 1 nỗi lòng đầy ám ảnh của 1 quá vãng nặng trĩu những đắng cay.
Ai đã từng nói rằng: "Văn chương là lịch sử tâm trạng của con người". Nếu đúng như vậy thì Kim Lân quả là 1 nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy. Ngòi bút của ông đã thêm 1 lần chấm vào nghiên mực cuôc đời để khắc hoạ lại hình ảnh của nhân vật bà cụ Tứ với những diễn biến tâm trạng đầy tinh tế. Tưởng như, bà cụ Tứ bước từ căn nhà rúm ró, tồi tàn của mình đi vào trang truyện chứ ko hề do dụng công xây dựng của tác giả. Hình ảnh bà - hình ảnh của người mẹ nông dân Việt Nam 1945 hiện lên chân thực như nó vốn có qua những lời nói tưởng như ngớ ngẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình. Cuộc đời tuy có mất mát nhưng cũng không cướp đi của bà tất cả. Bà vẫn còn có anh Tràng - đứa con trai độc nhất để yêu thương chăm sóc. Làm mẹ, ai cũng mong cho con mình chóng khôn lớn, trưởng thành và yên bề gia thất. Rồi cái ngày hạnh phúc ấy cũng đã đến: cái ngày anh Tràng lấy vợ. Những tưởng niềm vui ánh lên rạng ngời trong trái tim già cỗi ấy, nhưng lòng người mẹ lại ngổn ngang bao tâm sự thầm kín. Dạo đầu của chuỗi tâm trạng ấy là 1 loạt những câu hỏi đầy vẻ ngạc nhiên, thắc mắc: "Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường con mình thế kia?" "ai thế nhỉ? sao lại chào mình bằng u?". Phải, làm sao bà ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói mỏi, nhà lại nghèo mà con trai bà lại dẫn không về 1 người vợ. Mọi việc đến với bà quá nhanh. Chính bởi tình huống hết sức đặc biệt này của câu chuyện "vợ nhặt", mọi diễn biến nội tại đã được đẩy lên đến cao trào, trở thành 1 sợi chỉ xuyên suốt làm cho mạch tp đi theo 1 chiều hướng rất logic của tâm lý nhân vật. Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới mức: "không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa". "Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu".
Tâm trạng cứ băn khoăn như thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ thông qua lời xác nhận của con trai: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ..." Lúc ấy tâm trạng của người mẹ lại bước sang 1 trang khác, hứa hẹn nhiều biến động hơn và tinh tế hơn. Kim Lân đã không tả thêm nữa những suy nghĩ, những căn vặn trong tâm não của nhân vật, hay những động thái tâm lý phức tạp khác, mà chỉ đơn giản là 1 cái "cúi đầu nín lặng". Không chỉ là câu trần thuật, trong câu văn ngắn này còn rưng rưng tấm lòng hoà cảm đầy ân tình của Kim Lân. Bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong cái im lặng cúi đầu ấy. Cái im lặng tủi phận. Cái im lặng cam chịu. Cái im lặng xót xa. Bà thương thầm cho cái số kiếp của đứa con trai độc nhất. Vì người mẹ ấy giờ đây ý thức rõ hơn vợ chồng Tràng rất nhiều về cái nghịch cảnh quá éo le, nghiệt ngã của cuộc hôn nhân này. Chừng ấy năm sống trên đời mách bảo bà lão 1 điều rằng: mối duyên kiếp trớ trêu kia hình như không nên có. "Chao ôi! người ta dựng vơ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này - còn mình thì..." Bao nhiêu ngập ngừng, tủi cực, chua xót dồn nén sau chữ "thì" vô vọng ấy. Bà xót xa vì không thể làm tròn bổn phận của người mẹ: ko lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ đây, giữa lúc người chết đói "như ngả rạ", lại có người theo con trai mình về làm vợ. Người mẹ bị dồn vào cảnh túng quẫn, khó xử, không biết lấy gì cúng tổ tiên, trình làng khi con đã có vợ. Cái buồn, cái tủi lại chan đầy nước mắt, và bà đâm khóc vì thương con, thương dâu ko biết làm sao đây để vượt qua cơn khốn khó này: "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rũ xuống 2 hàng nước mắt", lý trí đã ko ngăn nổi tình cảm. Kim Lân như 1 nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình chớp lấy thần cảnh, thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim 1 đời vất vả của người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra 2 dòng nước mắt khô héo. Nước mắt của người già, mà như Nguyễn Khuyến xưa đã từng viết trong "Khốc Dương Khuê":
"Tuổi già hạt lê như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan"
Thời gian là kẻ khách quan và quá đỗi vô tình, nó đã mang đi tuổi thanh xuân của mẹ cùng bao lo toan, nhọc nhằn, vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ khó có thể khóc được nữa, bởi "nước mắt người già chảy ngược vào tim". Khi mẹ khóc tức là mẹ đang đau lắm. Một người mẹ thương con như bà cụ Tứ ko đau sao được khi chứng kiến cảnh con mình lấy vợ trong 1 hiện thực và tương lai ảm đạm đến thế.
Và bà đã lo lắng để rồi tự cật vấn: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không". Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa như xát muối. Bà thương con, tủi phận để rồi lại thương dâu: Bà "đăm đăm nhìn người đàn bà" như để nhận mặt người đồng hành khốn cùng trong cuộc đời khổ nghèo. Người con dâu đứng đấy, tay "vân vê tà áo đã rách bợt". Và cũng từ đó đã thức dậy trong bà lão bao ý nghĩ nhân đạo và một sự hàm ơn: "Ngườita có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con..." Câu văn thật cảm động! Nó vừa nhoi nhói 1 tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp, vừa như cố nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước 1 sự việc đã rồi, lại vừa rưng rưng, xao xuyến 1 niềm vui. Những lời độc thoại cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ, vừa khắc khoải, dạt dào, vừa bao la, vỗ về đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những rung cảm xót xa trong trái tim nhân đạo của Kim Lân. Ta cũng thấy tim ta thổn thức cùng với những trăn trở bình dị mà xiết bao ân tình. Đẹp biết bao 2 tiếng "mừng lòng" của bà lão nói với các con. Chữ "mừng" thật là đắc địa, có vẻ như ko đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại lột tả đúng cái thần thái của 1 tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi dòng nước mắt xót thương vì sợ phiền lòng cho chính người mình đang thương xót. "Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên 1 tí cho sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ". Người mẹ già như cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình thương của mình an ủi các con. Nỗi lo sợ ngày mai mãi chỉ là 1 niềm riêng không chia sẻ. Bới trái tim người mẹ ấy hiền hậu nhân từ lắm. Chẳng muốn con buồn, chẳng muốn con đau, chỉ mong con hãy tận hưởng trọn vẹn cái hạnh phúc lứa đôi. Đến đây, ta càng thấm thía hơn 1 câu danh ngôn: "tình yêu thương của người mẹ dành cho con luôn âm thầm, lặng lẽ như mạch nước ngầm trong lành đi theo con suốt cuộc đời". Suối nguồn của tình mẹ và những giọt nước mắt, giọt mồ hôi thật thiêng liêng và đáng quý vô cùng. Rồi có ai đã từng ví trong câu hát "tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào", thì đây, những giọt nước mắt buồn thương vẫn mặn mà, nồng ấm, vẫn âm vang nhịp đập thuỷ triều. Mẹ kêu con thắp đèn lên "cho sáng sủa" hay chính tình yêu bao la của mẹ đang toả sáng cho hạnh phúc của các con. Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: "con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân". Còn đâu là ranh giới giữa mẹ chồng - nàng dâu? Hay tình yêu thương đã xoá nhoà đi tất cả. Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: "kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo...chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá....". "Lúc này" ở đây chính là thời điểm năm 1945 - cái mốc in dấu 1 nạn đói khủng khiếp đã đi vào lịch sử: "hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói" (Tuyên ngôn độc lập), câu nói ấy vẫn còn vang lên như 1 chứng tích tội ác của thực dan Pháp, ko khí quê hương "vẩn lên 1 mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", "dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma". Ấy vậy mà, "như bèo gặp nước", vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái khổ. Thử hỏi sao lòng người mẹ ko đau đáu. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm... (còn tiếp)
Bài làm:
Tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân đã tạc lưu lại trong tâm trí người đọc không chỉ bởi một ấn tượng dễ gọi mang tên nỗi ám ảnh về cái đói, cái cùng của những người nông dân sống trong đêm trước Cách mạng. Những tháng ngày 1945 ấy, cái đói cứ bủa vây nơi nơi, tưởng đâu đâu cũng ngửi thấy "mùi đói". Làng quê chìm trong ko khí tang thương với tiếng quạ kêu quang quác, tiếng khóc hờ của những nhà có người chết đói và thân vận rẻ rúng của bao cảnh đời: người ta có thể nhặt được vợ giữa đường chợ chỉ với 4 bát bánh đúc và mấy câu đùa cợt.... Tạm gác lại cái cứu cánh nội dung ấy, lật giở lại tác phẩm và để lòng ta lắng lại với những dư vị của cảm xúc. Ta đã hiểu... Nếu như nói đến văn học là nói đến 1 phạm trù ko giới hạn của nghệ thuật, có khả năng gợi mở mọi chiều kích của các giác quan và trường liên tưởng, thì đây: với tác phẩm vợ nhặt này ta không chỉ biết đến 1 anh Tràng thô nhám, cục mịch mà có lúc ngượng nghịu, ngẩn ngơ như một đứa trẻ lớn hiền lành, 1 chị vợ "chao chát, chỏng lỏn" mà "hiền hậu, đúng mực", ta còn biết đến 1 nhân vật nữa: một nv giữ cho câu chuyện "VN" có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Đó là nhân vật bà cụ Tứ. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng của người mẹ nông dân này.
Đến khoảng giữa câu chuyện, Kim Lân mới cho nhân vật Bà cụ Tứ xuất hiện như để hoàn chỉnh hơn ý niệm về một gia đình, trong mối quan hệ "mẹ chồng nàng dâu" với người "vợ nhặt". Nhưng hẳn không chỉ thế. Hãy xem cách mà Kim Lân dẫn dắt chúng ta đến với nhân vật. Bắt đầu là cái dáng "lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng".... Chao ôi! những câu giản dị nhường ấy mà chất chứa bao yêu thương trìu mến. Ta gặp lại cái dáng gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Từ "lọng khọng" đầy sáng tạo và có sức gợi hình, gợi tả tạc lại trong ta một dáng hình. Có phải không? Kim Lân đã gửi trọn tấm lòng kính yêu của mình để cảm thông cùng với những nỗi đau suốt một đời đã đè nặng lên đôi vai người mẹ. Vả chăng, với nhân vật bà lão, nhà văn còn có dịp nhìn việc lấy vợ của Tràng từ một góc độ khác, trong 1 tâm trạng khác. Tôi những muốn viết ngay về những diễn biến phức tạp trong tâm hồn người mẹ khi biết đứa con trai xấu xí, cục mịch của mình đã lấy được vợ lại giữa 1 hoàn cảnh đặc biệt éo le. Nhưng, 1 ấn tượng nữa về bà lão cứ hiển hiện trong tâm trí tôi - 1 ấn tượng dù chỉ thoáng gặp nhưng cũng thật khó quên. Tôi đã lần theo từng câu chữ của tác phẩm và tìm thấy những dòng tâm trạng này: "Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa, dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà nghĩ đến cuộc đời khổ cực dằng dặc của mình" Ta biết được người phụ nữ nông dân này có một số phận đầy bất hạnh. Cuộc đời bà là một chuỗi ngày khổ đau, tê tái. Bà đã vĩnh viễn mất đi người chồng và đứa con gái út yêu thương.. Dẫu biết thời gian có thể xoá nhoà đi tất cả nhưng vết thương lòng đâu dễ biến tan. Ta không gặp 1 cơn hấp hối trong đau đớn, cũng chẳng gặp những quằn quại quay quắt, ta chỉ gặp ở đó 1 con người của hiện tại với 1 cái thở dài đầy chiêm nghiệm đang nhìn trông về bờ quá khứ. Điều ấy lý giải vì sao con người già cả ấy lại quen đánh giá sự việc bằng kinh nghiệm và sự từng trải, bằng 1 nỗi lòng đầy ám ảnh của 1 quá vãng nặng trĩu những đắng cay.
Ai đã từng nói rằng: "Văn chương là lịch sử tâm trạng của con người". Nếu đúng như vậy thì Kim Lân quả là 1 nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy. Ngòi bút của ông đã thêm 1 lần chấm vào nghiên mực cuôc đời để khắc hoạ lại hình ảnh của nhân vật bà cụ Tứ với những diễn biến tâm trạng đầy tinh tế. Tưởng như, bà cụ Tứ bước từ căn nhà rúm ró, tồi tàn của mình đi vào trang truyện chứ ko hề do dụng công xây dựng của tác giả. Hình ảnh bà - hình ảnh của người mẹ nông dân Việt Nam 1945 hiện lên chân thực như nó vốn có qua những lời nói tưởng như ngớ ngẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình. Cuộc đời tuy có mất mát nhưng cũng không cướp đi của bà tất cả. Bà vẫn còn có anh Tràng - đứa con trai độc nhất để yêu thương chăm sóc. Làm mẹ, ai cũng mong cho con mình chóng khôn lớn, trưởng thành và yên bề gia thất. Rồi cái ngày hạnh phúc ấy cũng đã đến: cái ngày anh Tràng lấy vợ. Những tưởng niềm vui ánh lên rạng ngời trong trái tim già cỗi ấy, nhưng lòng người mẹ lại ngổn ngang bao tâm sự thầm kín. Dạo đầu của chuỗi tâm trạng ấy là 1 loạt những câu hỏi đầy vẻ ngạc nhiên, thắc mắc: "Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường con mình thế kia?" "ai thế nhỉ? sao lại chào mình bằng u?". Phải, làm sao bà ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói mỏi, nhà lại nghèo mà con trai bà lại dẫn không về 1 người vợ. Mọi việc đến với bà quá nhanh. Chính bởi tình huống hết sức đặc biệt này của câu chuyện "vợ nhặt", mọi diễn biến nội tại đã được đẩy lên đến cao trào, trở thành 1 sợi chỉ xuyên suốt làm cho mạch tp đi theo 1 chiều hướng rất logic của tâm lý nhân vật. Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới mức: "không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa". "Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu".
Tâm trạng cứ băn khoăn như thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ thông qua lời xác nhận của con trai: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ..." Lúc ấy tâm trạng của người mẹ lại bước sang 1 trang khác, hứa hẹn nhiều biến động hơn và tinh tế hơn. Kim Lân đã không tả thêm nữa những suy nghĩ, những căn vặn trong tâm não của nhân vật, hay những động thái tâm lý phức tạp khác, mà chỉ đơn giản là 1 cái "cúi đầu nín lặng". Không chỉ là câu trần thuật, trong câu văn ngắn này còn rưng rưng tấm lòng hoà cảm đầy ân tình của Kim Lân. Bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong cái im lặng cúi đầu ấy. Cái im lặng tủi phận. Cái im lặng cam chịu. Cái im lặng xót xa. Bà thương thầm cho cái số kiếp của đứa con trai độc nhất. Vì người mẹ ấy giờ đây ý thức rõ hơn vợ chồng Tràng rất nhiều về cái nghịch cảnh quá éo le, nghiệt ngã của cuộc hôn nhân này. Chừng ấy năm sống trên đời mách bảo bà lão 1 điều rằng: mối duyên kiếp trớ trêu kia hình như không nên có. "Chao ôi! người ta dựng vơ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này - còn mình thì..." Bao nhiêu ngập ngừng, tủi cực, chua xót dồn nén sau chữ "thì" vô vọng ấy. Bà xót xa vì không thể làm tròn bổn phận của người mẹ: ko lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ đây, giữa lúc người chết đói "như ngả rạ", lại có người theo con trai mình về làm vợ. Người mẹ bị dồn vào cảnh túng quẫn, khó xử, không biết lấy gì cúng tổ tiên, trình làng khi con đã có vợ. Cái buồn, cái tủi lại chan đầy nước mắt, và bà đâm khóc vì thương con, thương dâu ko biết làm sao đây để vượt qua cơn khốn khó này: "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rũ xuống 2 hàng nước mắt", lý trí đã ko ngăn nổi tình cảm. Kim Lân như 1 nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình chớp lấy thần cảnh, thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim 1 đời vất vả của người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra 2 dòng nước mắt khô héo. Nước mắt của người già, mà như Nguyễn Khuyến xưa đã từng viết trong "Khốc Dương Khuê":
"Tuổi già hạt lê như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan"
Thời gian là kẻ khách quan và quá đỗi vô tình, nó đã mang đi tuổi thanh xuân của mẹ cùng bao lo toan, nhọc nhằn, vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ khó có thể khóc được nữa, bởi "nước mắt người già chảy ngược vào tim". Khi mẹ khóc tức là mẹ đang đau lắm. Một người mẹ thương con như bà cụ Tứ ko đau sao được khi chứng kiến cảnh con mình lấy vợ trong 1 hiện thực và tương lai ảm đạm đến thế.
Và bà đã lo lắng để rồi tự cật vấn: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không". Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa như xát muối. Bà thương con, tủi phận để rồi lại thương dâu: Bà "đăm đăm nhìn người đàn bà" như để nhận mặt người đồng hành khốn cùng trong cuộc đời khổ nghèo. Người con dâu đứng đấy, tay "vân vê tà áo đã rách bợt". Và cũng từ đó đã thức dậy trong bà lão bao ý nghĩ nhân đạo và một sự hàm ơn: "Ngườita có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con..." Câu văn thật cảm động! Nó vừa nhoi nhói 1 tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp, vừa như cố nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước 1 sự việc đã rồi, lại vừa rưng rưng, xao xuyến 1 niềm vui. Những lời độc thoại cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ, vừa khắc khoải, dạt dào, vừa bao la, vỗ về đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những rung cảm xót xa trong trái tim nhân đạo của Kim Lân. Ta cũng thấy tim ta thổn thức cùng với những trăn trở bình dị mà xiết bao ân tình. Đẹp biết bao 2 tiếng "mừng lòng" của bà lão nói với các con. Chữ "mừng" thật là đắc địa, có vẻ như ko đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại lột tả đúng cái thần thái của 1 tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi dòng nước mắt xót thương vì sợ phiền lòng cho chính người mình đang thương xót. "Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên 1 tí cho sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ". Người mẹ già như cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình thương của mình an ủi các con. Nỗi lo sợ ngày mai mãi chỉ là 1 niềm riêng không chia sẻ. Bới trái tim người mẹ ấy hiền hậu nhân từ lắm. Chẳng muốn con buồn, chẳng muốn con đau, chỉ mong con hãy tận hưởng trọn vẹn cái hạnh phúc lứa đôi. Đến đây, ta càng thấm thía hơn 1 câu danh ngôn: "tình yêu thương của người mẹ dành cho con luôn âm thầm, lặng lẽ như mạch nước ngầm trong lành đi theo con suốt cuộc đời". Suối nguồn của tình mẹ và những giọt nước mắt, giọt mồ hôi thật thiêng liêng và đáng quý vô cùng. Rồi có ai đã từng ví trong câu hát "tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào", thì đây, những giọt nước mắt buồn thương vẫn mặn mà, nồng ấm, vẫn âm vang nhịp đập thuỷ triều. Mẹ kêu con thắp đèn lên "cho sáng sủa" hay chính tình yêu bao la của mẹ đang toả sáng cho hạnh phúc của các con. Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: "con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân". Còn đâu là ranh giới giữa mẹ chồng - nàng dâu? Hay tình yêu thương đã xoá nhoà đi tất cả. Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: "kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo...chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá....". "Lúc này" ở đây chính là thời điểm năm 1945 - cái mốc in dấu 1 nạn đói khủng khiếp đã đi vào lịch sử: "hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói" (Tuyên ngôn độc lập), câu nói ấy vẫn còn vang lên như 1 chứng tích tội ác của thực dan Pháp, ko khí quê hương "vẩn lên 1 mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", "dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma". Ấy vậy mà, "như bèo gặp nước", vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái khổ. Thử hỏi sao lòng người mẹ ko đau đáu. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm... (còn tiếp)
Last edited by a moderator: