Sử 7 tổng kết sử lớp 7

L

linh_ns

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1.Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX có những thành tựu gì?
2. Hãy trình bày sự phát triển kinh tế ở nước ta từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX?
3. Lập bảng thống kê những sự kiện đáng ghi nhớ của lịch sử nước ta từ thế kỉ X đến giữa
thế kỉ XIX
Niên đại ;Sự kiện ; Nhân vật chính ; Kết quả
Giúp mình với mình cần gấp mình sẽ thansk cho
 
P

pecream.97

Câu 1:

Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

I. Các thành phần văn học từ thế kỉ thứ X đến hết thế kỉ XIX.

1. Văn học chữ Hán

- Bao gồm các sáng tác chữ Hán của người Việt. Xuất hiện rất sớm tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của văn học trung đại bao gồm cả thơ và văn xuôi. Thể loai gồm: chiếu, biểu, hịch, cáo, truyện truyền kì, kí sự, tiểu thuyết chương hồi, phú, thơ cổ phong, thơ Đường luật...

2. Văn học chữ Nôm

- Cuối thế kỉ thứ XIII văn học sáng tác bằng chữ Nôm xuất hiện. Nó tồn tại và phát triển đến hết thời kì văn học trung đại. Chủ yếu là thơ, rất ít những tác phẩm văn xuôi. Một số thể loại tiếp thu từ văn học Trung Quốc như: Phú, văn tế chủ yếu là sáng tác theo thể khá tự do. Ngoái ra một số thể loại văn học Trung Quốc đã được dân tộc hoá như thơ Nôm Đường luật, Đường luật thất ngôn xen lục ngôn.

II. Các giai đoạn phát triển của văn học từ thếkỉ X đến hết thế kỉ XIX

1. Giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV

- Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV phát triển trong hoàn cảnh dậy gió tưng bừng nhất của lịch sử dân tộc .

+ Hai lần chiến thắng quân Tống.
+ Ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông.
+ Hai mươi năm chiến đấu và chiến thắng quân Minh.

- Thành phần chủ yếu văn học viết bằng chữ Hán, từ thế kỉ thứ XIII có chữ Nôm, Nhưng thành tựu chủ yếu vẫn là văn học viết bằng chữ Hán.

- Nội dung yêu nước chống xâm lược và tự hào dân tộc.

- Nghệ thuật đạt được những thành tựu như văn chính luận, văn xuôi đều về đề tài lịch sử, văn hoá. Thơ phú đều phát triển

- Các tác phẩm và tác giả: SGK

2. Thế kỉ thứ XV đến hết thế kỉ thứ XVII

- Sau chiến thắng quân Minh, nước Đại Việt phát triển tới đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam. Bước sang thế kỉ XVI và đến hết thế kỉ XVII xã hội phong kiến Việt Nam trượt dần trên một cái dốc không gì cứu vãn nổi. Xung đột giữa các tập đoàn pgong kiến dẫn đến nội chiến Lê - Mạc và Trịnh - Nguyễn kéo dài gần hết một thế kỉ.

- Nội dung: Ca ngợi cuộc kháng chiến chống quân Minh (Quân Trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi). Thiên Nam ngữ lục là tác phẩm diễn ca lịch sử viết bằng chữ Nôm. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ Đã đánh dấu sự chuyển hướng từ cảm hứng ngợi ca sang phê phán những suy thoái về đạo đức và hiên thực xã hội.

- Nghệ thuật: SGK

3. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX

- Hoàn cảnh đáng lưu ý nhất của lịch sử dân tộc là những cuộc nội chiến và bão táp của các cuộc khởi nghĩa nông dân. cuộc khởi nghĩa của đội quân áo vải cờ đào đã lật đổ các tập đoàn phong kiến Đàng trong (chúa Nguyễn), Đàng ngoài (vua Lê, Chúa Trịnh), đánh tan quân xâm lược Xiêm ở phía Nam, 20 vạn quân Thanh ở phía Bắc, phong trào Tây Sơn suy yếu, Triều Nguyễn khôi phục chế độ phong kiến chuyên chế. Đất nước nằm trước hiểm hoạ xâm lăng của thực dân Pháp.

-Văn học phát triển vượt bậc về nội dung đã xuất hiện trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Đó là tiếng nói đòi quyền sống, quyền tự do cho con người (Trong đó có con người cá nhân).

- Tác phẩm: SGK.

- Nghệ thuật: SGK.

4. Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX

- Pháp xâm lược Việt Nam - kẻ thù mới đã xuất hiện. Cả dân tộc đứng lên chống ngoại xâm. Xã hội Việt Nam chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ thực dân nửa phong kiến (quyền hành trong tay bon thực dân phong kiến chỉ là tay sai)

- Văn học phát triển phong phú mang âm điệu bi tráng.

- Nội dung;SGK.

- Nghệ thuật: SGK.

III. Những đặc điểm lớn về nội dung của văn học thế kỉ thứ X đến hết thế kỉ XIX

- Do 3 yếu tố tác động:

+ Tinh thần dân tộc (truyền thống)
+ Tinh thần thời đại
+ ảnh hưởng từ nớc ngoài.

Văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX có những đặc điểm lớn về nội dung (yêu nước, nhân đạo, cảm hứng thế sự)

1. Chủ nghĩa yêu nước

- Biểu hiện:

+ Gắn liền với tư tưởng ''trung quân ái quốc'' (trung với vua là yêu nước và ngược lại yêu nước là trung với vua)
+ Tinh thần quyết chiến, quyết thắng chống giặc ngoại xâm: ý thức độc lập tự do, tự cường, tự hào dân tộc.
+ Xót xa, bi tráng trước tình cảnh nhà tan nước mất
+ Thái độ trách nhiệm khi xây dựng đất nước trong thời bình
+ Biết ơn, ca ngợi những con người hi sinh vì đất nước
+ Tình yêu quê hương đất nước (chứng minh bằng một số tác phẩm cụ thể)

- Chủ nghĩa yêu nước:

* Yêu thiên nhiên
* Biết ơn ca ngợi những con người hi sinh vì tổ quốc
* trách nhiệm xây dựng đất nước
* Xót xa trước cảnh nước mất nhà tan
* Tự cường dân tộc
* Tự hào về truyền thống
* Tinh thần quyết chiến quyết thắng

2. Chủ nghĩa nhân đạo

- Bắt nguồn từ truyền thống anh hùng dân tộc, từ văn học dân gian, ảnh hưởng tư tưởng nhân văn tích cực của đạo Phật, Nho giáo, Đạo giáo. Nó biểu hiện cụ thể:

+ Thương người như thể thương thân
+ Nguyên tắc đạo lí và thái độ ứng xử
+ Phật giáo là từ bi bác ái, Nho giáo là nhân nghĩa tư tưởng thân dân, Đạo giáo là sống thuận theo tự nhiên, hoà nhập với tự nhiên
+ Lên án tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp phẩm giá của con người.
+ Đề cao phẩm chất tốt đẹp của con người đạo lí, nhân cách tài năng, khát vọng (chứng minh bằng một số tác phẩm cụ thể)

- Chủ nghĩa nhân đạo
* Lên án hành vi vô nhân đạo
* Khẳng định phẩm chất tốt đẹp ở nhân phẩm, tài năng, khát vọng con người
* Cảm thông chia sẻ với số phận con người bất hạnh

3. Cảm hứng thế sự

- Thế sự là cuộc sống con người là việc đời.
Cảm hứng thế sự là bày tỏ suy nghĩ,, tình cảm về cuộc sống con người, về việc đời.

- Tác phẩm hướng tới cuộc sống để ghi lại những điều trông thấy. (ví dụ SGK)

IV. Những đặc điểm lớn về nội dung và nghệ thuật của văn học thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

1. Tính quy phạm và việc phá vỡ tính quy phạm

- Tính quy phạm là sự quy định chặt chẽ theo khuôn mẫu. Đó là quan điểm của văn học. Văn chương coi trọng mục đích giáo huấn:

+ ''Thi dĩ ngôn chí'' (Thơ để nói chí)
+ ''Văn dĩ tải đạo'' (Văn để chở đạo).

- Ở tư duy nghệ thuật:

+ Công thức tượng trưng ước lệ.
+ Thể loại văn học
+ Sử dụng nhiều điển tích điển cố.
+ Nhiều thi liệu, văn liệu theo mô típ

- Tuy nhiên ở các tác giả có tài năng một mặt vừa tuân thủ tính qui phạm, một mặt phá vỡ tính quy phạm, phát huy cá tính sáng tạo trên cả hai lĩnh vực nội dung và hình thức. Đó là Hồ Xuân Hư¬ơng, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tú Xương.

2. Khuynh hướng trang nhã và xu hướng bình dị?

-Trang nhã thể hiện ở đề tài, chủ đề hướng tới cái cao cả trang trọng hơn là cái đời thường bình dị

- Hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ tao nhã, mĩ lệ hơn là vẻ đẹp đơn sơ mộc mạc

- Ở ngôn ngữ nghệ thuật, cách diễn đạt chau chuốt hơn, hoa mĩ hơn là thông tục, tự nhiên.

- Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, văn học ngày càng gắn bó với hiện thực đã đưa văn học từ phong cách trang trọng, tao nhã về gần với đời sống hiện thực, tự nhiên và bình dị.

3. Tiếp thu và dân tộc hoá tinh hoa văn học nước ngoài

- Tiếp thu tinh hoa văn học Trung Quốc.

+ Ngôn ngữ dùng chữ Hán để sáng tác
+ Thể loại: Văn vần (Thể cổ phong và Đường luật)
Văn xuôi: Chiếu, biểu, hịch, dụ, cáo....
+ Thi liệu: Chủ yếu điển cố, điển tích Trung Hoa.

- Quá trình dân tộc hoá được thể hiện:

* Sáng tạo ra chữ Nôm ghi âm biểu đạt bằng tiếng Việt
* Việt hoá thơ Đường thành thơ Nôm Đường luật
* Sáng tạo nhiều thể thơ dân tộc (...) Lục bát, song thất lục bát, hát nói, các thể ngâm khúc. Tất cả đều lấy đề tài thi liệu từ đời sống của nhân dân Việt Nam.

1. Suốt mười thế kỉ văn học phát triển gắn bó với vận mệnh dân tộc

2. Cùng với văn học dân gian, văn học trung đại góp phần làm nên diện mạo văn học dân tộc, tạo tiền đề cho văn học giai đoạn sau phát triển.
Câu 2:
Kinh tế dưới triều Nguyễn
Năm 1828, Nguyễn Công Trứ được cử làm Doanh điền sứ. Ông chiêu mộ dân lưu vong khai phá miền ven biển, lập nên các huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Hàng trăm đồn điền được thành lập rải rác ở các tỉnh Nam Kì.
Việc khai hoang đã tăng thêm diện tích canh tác. Nhưng ruộng đất bỏ hoang vẫn còn nhiều, vì nông dân bị địa chủ, cường hào cướp mất ruộng đất, phải lưu vong.
Nhà Nguyễn đặt lại chế độ quân điền. Nông dân bị trói buộc vào ruộng đất để nộp tô thuế và đi phu dịch cho nhà nước. Nhưng phần lớn ruộng đất đã tập trung vào tay địa chủ. Do vậy, chế độ quân điền không còn tác dụng phát triển nông nghiệp và ổn định đời sống nhân dân.
Ở các tỉnh phía bắc, việc sửa đắp đê không được chú trọng. Lụt lội, hạn hán xảy ra luôn. Thời Tự Đức, tài chính thiếu hụt, nạn tham nhũng phổ biến, việc sửa đắp đê càng khó khăn hơn. Có nơi như phủ Khoái Châu (Hưng Yên), đê vỡ 18 năm liền. Dân phiêu tán khắp nơi, trong dân gian có câu : “Oai oái như phủ Khoái xin cơm”. Cả một vùng đồng bằng phì nhiêu biến thành bãi sậy.
Về công thương nghiệp, theo đà phát triển của các thế kỉ trước, công thương nghiệp có điều kiện phát triển thêm. Nhà Nguyễn thành lập nhiều xưởng đúc tiền, đúc súng, đóng tàu ở kinh đô Huế, Hà Nội, Gia Định… Thợ giỏi các địa phương được tập trung về sản xuất trong các xưởng của nhà nước.
Thợ đóng tàu nước Việt Nam có tay nghề khá cao, biết ứng dụng kĩ thuật châu Âu. Một người Mĩ đến Việt Nam năm 1820 nhận xét : “Người Việt Nam là những thợ đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình với kĩ thuật hết sức chính xác” [cần dẫn nguồn].
Ngành khai thác mỏ được mở rộng. Cả nước có hàng trăm mỏ được khai thác (các mỏ vàng, bạc, đồng, kẽm, chì, diêm tiêu...). Nhưng cách khai thác còn lạc hậu, các mỏ hoạt động thất thường và sa sút dần.
Các nghề thủ công ở nông thôn và thành thị vẫn không ngừng phát triển. Nhiều làng thủ công nổi tiếng khắp nước như làng Bát Tràng (Hà Nội), làng đúc đồng Ngụ Xã (Hà Nội), làng dệt lụa Vạn Phúc (Hà Tây), Bảo An (Quảng Nam)... Nhưng hoạt động thủ công nghiệp trong dân gian còn rất phân tán. Thợ thủ công phải nộp thuế sản phẩm nặng nề.
Sang thế kỉ XIX, đất nước đã thống nhất, việc buôn bán có nhiều thuận lợi. Ngoài các thành thị nổi tiếng truớc kia như Hà Nội, Phú Xuân (Huế), Gia Định, nhiều thị tứ mới xuất hiện rải rác ở các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ.
Một thuyền trưởng người Pháp đến Hội An năm 1819 nhận xét : “Hội An chỉ có một đường phố nhưng rất dài. Nhà cửa đều xây bằng gạch. Gian trước bày bán hàng hoá, gian sau là kho hành kín đáo. Hàng hoá vận chuyển đến Hội An rất thuận lợi nhờ có nhiều kênh đào” [cần dẫn nguồn].
Theo Trịnh Hoài Đức, “Thành phố Mỉ Tho nhà ngói cột chạm, ghe thuyền tấp nập, phồn hoa huyên náo, thực là một nơi đại đô hội”. Ở Sa Đéc, “phố chợ thẳng bờ sông, nhà cất liền nhau kéo dài 5 dặm. Dưới sông, nhà bè đậu thẳng hàng, bán đủ các thứ tơ lụa Nam - Bắc, dầu mỡ, than củi, tre mây, mắm muối. Trên bờ sông buôn bán tấp nập, hàng hoá choá mắt, thật là một nơi phồn hoa danh thắng vậy”.
Dưới triều Nguyễn, thuyền buôn các nước Xiêm, Mã Lai, nhất là Trung Quốc, thường xuyên sang Việt Nam mua bán hàng hoá. Các vua Nguyễn cũng nhiều lần phái quan sang Trung Quốc, Singapore, Philippines, Xiêm, Nam Dương bán gạo, đường, các lâm sản... và mua về len dạ, đồ sứ, vũ khí...
Tàu buôn phương Tây (Bồ Đào Nha, Pháp, Mĩ) cũng đến buôn bán ở các hải cảng Việt Nam. Nhưng nhà Nguyễn không cho người phương Tây mở cửa hàng. Họ chỉ được ra vào một số cảng đã quy định.
 
Top Bottom