[Tiểu thuyết] Không gia đình

N

nhungpro_196

Chương 8: Gia đình li tán.

Chương 8: Gia đình li tán

Người cha là một trong những người chọn cây khéo nhất Paris; vì thế đến giai đoạn phải thực hiện thao tác tế nhị là chọn cây, có nghĩa là lựa ra những cây quế trúc nở ra hoa kép, ông bận rộn suốt ngày. Thời kỳ đó đối với chúng tôi, đặc biệt với étiennette, là thời kỳ xấu, vì các đồng nghiệp đến thăm nhau không bao giờ không uống đến một lít, có khi ba lít rượu, mỗi lần ông đi thăm hai hay ba người làm vườn khác ông đều trở về nhà mặt đỏ gay, tay run, nói năng ngọng nghịu.
Không bao giờ étiennette đi ngủ trước khi ông về, muộn mấy thì muộn.
Lúc đó, nếu tôi còn thức, hoặc tiếng ông về làm tôi thức giấc, từ phòng tôi tôi nghe tiếng hai cha con trao đổi với nhau.
- Sao con không đi ngủ đi? - Người cha nói.
- Vì con muốn biết cha có cần gì không? - Thấy cha không về ăn tối Lise có nói gì không?
- Nó cứ nhìn vào chỗ cha mãi.
- Em nó đã ngủ chưa?
- Nó mới đi ngủ độ mười lăm phút thôi, nó cứ muốn chờ cha.
Sau một lát im lặng:
- étiennette này, con là cô con gái ngoan, nghe cha bảo đây, ngày mai, cha đến Louisot, cha thề với con sẽ về ăn tối.
Hứa rồi đâu lại vào đấy, ông vẫn không về sớm hơn chút nào một khi đã nhận một ly rượu.
Nhưng không phải thường thường như vậy.
Hơn nữa thời kỳ chọn cây cũng không lâu lắm, hết thời kỳ đó người cha lại không đi ra ngoài nữa.
Cha Acquin, sau mùa quế trúc, trồng hoa cho những ngày lễ lớn vào tháng bảy nhất là vào tháng tám, tháng có ngày lễ Sainte - Marie và Saint - Louis; để phục vụ những ngày đó chúng tôi chuẩn bị hàng nghìn cây cúc sao Trung Quốc, cây vãn anh, cây trúc đào, tất cả những gì khung vườn và nhà kính của chúng tôi chứa nổi. Phải làm sao cho hoa của chúng nở đúng vào những ngày nói trên. Ai cũng biết điều đó đòi hỏi tài năng, vì ai mà làm chủ được thời tiết, được mặt trời! Cha Acquin còn hơn cả bậc thầy về nghệ thuật này.
Mùa hoa của chúng tôi tiên báo là sẽ tuyệt vời, chúng tôi đã ở vào ngày mồng năm tháng tám và toàn bộ các cây hoa của chúng tôi đã đến độ ra hoa. Chúng tôi đã làm việc vô cùng vất vả, không có lấy một giờ nghỉ ngơi kể cả ngày chủ nhật. Tuy nhiên, vì tất cả đã đâu vào đấy, để thưởng công cho chúng tôi, chủ nhật, ngày mồng năm tháng tám hôm ấy chúng tôi được đi ăn tối ở Arcueil tại nhà một người bạn của người cha, Capi cũng được tham dự. Chúng tôi sẽ làm việc cho tới tận ba, bốn giờ chiều hôm đó rồi mới đi.
Thực hiện đúng như thế, vài phút trước bốn giờ, người cha quay chìa trong ổ khóa cửa lớn.
- Cả nhà lên đường nào! - ông vui vẻ nói.
Chúng tôi thảy đều lộng lẫy trong những bộ quần áo đẹp. Thời gian trôi nhanh đến nỗi tôi không nhận ra nữa, tôi chỉ biết là, vào cuối bữa ăn, một người trong bọn chúng tôi có nhận xét là trời đầy mây đen, và vì bàn ăn được dọn ngoài trời dưới một cây cơm cháy to, chúng tôi dễ dàng thấy ngay sắp có bão..- Các con ơi, phải mau mau về, gió mà nổi lên có thể lật nhào các tấm che. Lên đường thôi!
Chúng tôi đều biết các tấm che lắp kính là cả tài sản của những người làm vườn, gió mà đập vỡ kính thì họ sạt nghiệp.
- Cha đi trước đây, người cha nói, Benjamin và cả Alexis nữa, đi theo cha.
Chị étiennette và tôi dắt tay Lise, em theo kịp chúng tôi rất vất vả làm chúng tôi có muốn đi nhanh cũng không được.
Liệu chúng tôi có đến nhà trước cơn bão được không?
Bỗng nhiên mưa đá bắt đầu rơi xuống, lúc đầu chỉ vài viên, sau tới tấp như một trận đá lở thực sự. Chúng tôi phải lao vào trú dưới một cái cổng.
Và thế là chúng tôi thấy một trận mưa đá khủng khiếp nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra được. Chỉ mới một lúc mà mặt phố đã phủ một lớp trắng xóa như giữa mùa đông; những viên đá to bằng trứng chim bồ câu rơi xuống đập ầm ầm vào những nơi mà thỉnh thoảng lại nổ ra tiếng kính vỡ. Tất cả mọi thứ rơi đầy xuống phố, những viên ngói, những mảng lở thạch cao, những viên đá đen nát vụn.
- Trời ôi! Những tấm kính! - Chị étiennette kêu lên.
- Biết đâu cha đến được trước mưa đá thì sao?
- Ngay cả đến được cũng không kịp phủ chiếu rơm lên, thế là toi hết cả rồi. Cha sẽ sạt nghiệp, trời ơi! Cha cần số tiền đó biết bao nhiêu!
Tôi muốn hỏi chị étiennette, nhưng chúng tôi hầu như không nghe thấy tiếng nhau, hơn nữa, chị nhìn mưa đá rơi với bộ mặt sầu não như người nhìn nhà mình bị cháy vậy.
Trận mưa đá khủng khiếp kéo dài độ năm sáu phút rồi đột ngột ngừng lại như lúc nó bắt đầu; mây bay về Paris và chúng tôi có thể đi được. Trong phố các viên đá lăn lông lốc như những viên cuội ở biển, chúng tạo thành một lớp dày đến nỗi ngập mắt cá chân.
Chúng tôi mau chóng về tới nhà: cửa lớn vẫn để ngỏ; chúng tôi vội bước vào vườn.
Quang cảnh mới hãi hùng làm sao! Tất cả đều bị đập vỡ tan tành, căn vườn ban sáng đẹp là thế nay không còn lại một chút gì.
Người cha đâu? Chúng tôi đi tìm ông nhưng không thấy ông đâu, đến nhà kính, nơi mà không một miếng kính nào còn nguyên vẹn, chúng tôi.thấy ông quỵ người trên một chiếc ghế đẩu giữa đống đổ nát đầy mặt đất, Alexis và Benjamin đứng im cạnh ông.
- ôi! Các con yêu quý của cha! - Thấy chúng tôi đến gần, ông ngẩng đầu lên.
Rồi ông ôm Lise trong tay mà khóc.
Ngay sau đó tôi được biết qua chị étiennette và hai cậu con trai vì sao mà người cha thất vọng đến thế. ông mua căn vườn này đã mười năm và tự xây lấy ngôi nhà. Người chủ bán đất cho vay tiền mua các vật dụng cần cho nghề trồng hoa của ông. Toàn bộ tiền sẽ trả trong mười lăm năm, mỗi năm trả một lần. Cho tới giai đoạn đó, người cha đã trả được đều đặn nhờ lao động khó nhọc và chịu thiếu thốn. Các đợt trả tiền càng thiết yếu khi mà chủ nợ chỉ chờ cơ hội, có nghĩa một đợt trả chậm nào đó để lấy lại đất, nhà và mọi vật liệu mà lại vẫn giữ, tất nhiên, số tiền đã thu mười năm trước. Đó là cách lão ta đầu tư, lão hy vọng trong mười lăm năm thế nào chẳng có ngày người cha không trả nổi cho nên lão mới liều đầu tư như thế.
Ngày đó cuối cùng đã đến do mưa đá. Bây giờ sẽ xảy ra chuyện gì đây?
Chúng tôi không phải phân vân lâu, chỉ một ngày sau hạn trả tiền hàng năm mà lẽ ra người cha đã trả bằng tiền bán cây, chúng tôi thấy một ông mặc quần áo đen đi vào nhà đưa cho chúng tôi một tờ giấy có dán tem trên đó viết vài chữ trong một dòng để trống.
Đó là ông mõ tòa.
Và kể từ ngày ấy ông ta cứ đến luôn luôn đến nỗi cuối cùng thuộc tên chúng tôi.
- Chào Rémi, ông ta nói, chào Alexis; cô khỏe chứ cô étiennette?
Và ông ta đưa cho chúng tôi tờ giấy dán tem.
Người cha chạy khắp thành phố. ông đi đâu?
Có lẽ đến tòa án chăng? Chỉ nghĩ đến đó tôi đã cảm thấy sợ hãi. Cụ Vitalis cũng đã phải ra tòa, và kết quả thế nào tôi đã rõ.
Đối với người cha thì kết quả phải chờ lâu hơn. Một phần mùa đông trôi qua như thế. Và dĩ nhiên là chúng tôi không thể sửa chữa nhà kính và lắp kính lại.
Chúng tôi trồng rau và các loại hoa không phải che chắn, tuy không có lời lắm nhưng cũng gọi là có công việc.
Một buổi tối, người cha trở về ủ rũ hơn mọi khi.
- Các con ơi, ông nói, hết rồi..Tôi định ra ngoài, tôi biết ông sắp nói một điều gì quan trọng mà có lẽ tôi không nên nghe.
Nhưng bằng một cử chỉ, ông giữ tôi lại.
- Con chẳng phải người trong gia đình hay sao? Các con ơi, cha sắp từ bỏ các con rồi.
Một tiếng kêu đau đớn thốt lên.
Lise nhảy vào vòng tay ông vừa ôm hôn ông vừa khóc.
- ồ! Chẳng lẽ các con nghĩ cha cố tình bỏ những đứa con ngoan như thế này hay sao?
Nhưng cha bị kết tội không trả nổi tiền, vì cha không có tiền họ sẽ bán tất cả những thứ này đi, nhưng cũng không đủ cho nên người ta bắt cha đi tù năm năm. Trong thời gian ấy các con sẽ ra sao?
Mọi người im lặng.
- Rémi sẽ viết thư cho người em của cha là cô Catherine Suriot ở Dreuzy, giải thích cho cô rõ tình hình và mời cô đến đây; với Catherine, ta sẽ quyết định.
Lần đầu tiên tôi viết một bức thư, thật là một sự bắt đầu ác nghiệt.
 
N

nhungpro_196

Tiếp Chương 8

Dầu sao, chúng tôi vẫn hy vọng. Cô Catherine sẽ đến, điều đó cũng là đủ đối với những đứa trẻ như chúng tôi.
Tuy nhiên cô đến không nhanh như chúng tôi tưởng, và lính gác bên thương mại, tức là những người đi bắt các con nợ, đến trước cô.
Người cha đang định đi ra ngoài thì chạm trán họ, lúc đó có tôi đi cùng. Chỉ trong một giây họ vây lấy chúng tôi. ông tái xanh đi như bị choáng váng và bằng một giọng yếu ớt xin được ôm hôn các con.
- Đừng có khổ não quá ông bạn dũng cảm ạ, một trong những người lính gác nói, đi tù nợ không đến nỗi kinh khủng lắm đâu.
Tôi đi tìm mấy anh em trai trong vườn.
Khi chúng tôi trở lại, người cha đang bế Lise trong tay, em khóc sướt mướt.
Một trong những người lính gác thì thầm vào tai ông cái gì đó tôi nghe không rõ.
- Phải, người cha nói, ông nói đúng, phải thế thôi.
Rồi đột ngột đứng lên, ông đặt Lise xuống đất, nhưng em cứ bấu chặt lấy ông không rời bàn tay ông ra..ạng ôm hôn étiennette, Alexis và Benjamin.
Tôi đứng trong một góc, mắt mờ đi vì nước mắt.
Ông gọi tôi:
- Còn con, Rémi, con không đến ôm hôn cha ư? Con không phải là con của cha sao?
Chúng tôi cuống cuồng cả lên.
- Các con cứ đứng đấy, người cha nói, cha ra lệnh đấy.
Và ông vội vàng rời bỏ chúng tôi sau khi đặt bàn tay Lise vào tay chị étiennette.
Chúng tôi sững sờ đứng giữa bếp, ai cũng khóc. Chúng tôi vẫn biết thế nào cũng có ngày này, nhưng chúng tôi đều nghĩ cô Catherine lúc đó sẽ có mặt.
Nhưng cô Catherine chưa đến. Cô đến sau khi người cha đi khỏi độ một giờ và thấy tất cả chúng tôi im lặng ở trong bếp không ai nói với ai một lời. Người mà cho đến lúc ấy vẫn nâng đỡ tinh thần chúng tôi đến lượt mình cũng phải quỵ: chị étiennette, xưa nay vốn can đảm là thế, nay cũng yếu đuối như chúng tôi.
Cô Catherine là một người đàn bà cương nghị, đã từng làm vú nuôi ở Paris mười năm, cô hiểu những khó khăn ở đời này. Chúng tôi nhẹ hẳn người khi được nghe cô ra lệnh, được vâng lời cô.
Đối với một người đàn bà nông thôn không của cải gì, phải gánh vác một trách nhiệm như vậy thật là nặng nề.
Cha của một đứa bé cô nuôi trước kia làm công chứng viên, cô đến hỏi ý kiến ông này và theo lời khuyên của ông, số phận chúng tôi được định đoạt. Rồi cô đến nhà tù để nhất trí với người cha, tám ngày sau khi đến Paris, cô cho chúng tôi biết quyết định này như thế nào.
Vì chúng tôi còn nhỏ quá để tự đi làm nên mỗi một người sẽ đến ở với chú hoặc cô sẵn sàng nhận đứa cháu: Lise ở với cô Catherine ở Morvan, Alexis ở nhà một người chú ở Varses, Ben-jamin ở nhà một ông chú khác làm vườn ở Saint - Quentin, chị étiennette ở nhà một người cô ở Esnandes.
Tôi nghe những sự xếp đặt đó, chờ đến lượt mình.
Nhưng vì cô Catherine không nói gì thêm, tôi bèn tiến lên hỏi:
- Còn cháu thì sao ạ?
- Cháu ư? Cháu có phải trong gia đình đâu!.- Cháu làm việc cho gia đình.
- Nhưng cháu không phải người trong gia đình.
- Có chứ, có chứ, anh ấy là người trong gia đình. - Tất cả đều nói.
Lise tiến tới trước mặt người cô, hai tay chắp lại, cử chỉ đó còn nói lên nhiều hơn những lời nói dài dòng.
- Cháu bé nhỏ tội nghiệp ơi, cô Catherine nói, cô hiểu cháu lắm, nhưng ở đời này không phải việc gì người ta muốn đều có thể làm được, chỉ riêng cho gia đình không thôi miếng bánh đã quá nhỏ rồi.
Tôi cảm thấy không làm gì hơn được. Điều cô Catherine nói chỉ quá đúng mà thôi.
Cô Catherine cho chúng tôi biết ngày mai sẽ chia tay rồi cô cho chúng tôi đi ngủ.
Vừa vào đến phòng tất cả mọi người đều vây quanh tôi, Lise sà vào tôi mà khóc. Tôi hiểu rằng tuy ai nấy đều buồn vì phải xa cách nhau họ vẫn nghĩ đến tôi, phàn nàn cho tôi, tôi cảm thấy mình đúng là anh em ruột của họ.
- Các anh chị nghe em nói này, tôi bảo họ, em thấy rõ là các anh chị coi em như người trong gia đình vậy.
- Đúng thế, bao giờ em cũng là em, anh ruột của chúng tôi. - Họ nói.
- Được, thế thì em sẽ tỏ ra cho các anh chị thấy em là em, anh ruột của mọi người. Em sẽ lại lấy tấm da cừu và cây đàn hác-pơ xuống, em sẽ đi từ Saint - Quentin tới Varses, từ Varses tới Esnandes, từ Esnandes đến Dreuzy, em sẽ thăm lần lượt tất cả các anh chị. Em vẫn còn nhớ các bài hát, các điệu nhạc nhảy, em sẽ tự kiếm sống.
Trên nét mặt mọi người thấy rõ sự hài lòng:
tôi biết ý nghĩ của tôi cũng là khát vọng của mỗi người.
Chúng tôi cứ nói về dự định đó mãi. Rồi chị étiennette muốn chúng tôi vào giường, nhưng nào có ai ngủ được đêm hôm ấy.
Ngay từ sáng sớm, Lise đã đưa tôi ra vườn và làm tôi hiểu rằng em muốn tôi tới thăm những người khác trước em để em biết được tin tức của tất cả mọi người.
Họ phải ra đi lúc tám giờ sáng, cô Catherine đã thuê một chiếc xe ngựa để trước tiên đưa mọi người vào nhà tù ôm hôn ông bố sau đó đem theo bọc hành lý của từng người một ra ga..Tới bảy giờ đến lượt chị étiennette đưa tôi ra vườn.
- Chị muốn để lại cho em một kỷ niệm, đó là bộ đồ của người nội trợ; em sẽ thấy kim, chỉ, kéo, những thứ mà em cần đấy.
Trong khi chị étiennette nói chuyện với tôi thì Alexis cứ quẩn quanh ở chỗ chúng tôi. Chị vào nhà xong thì Alexis lại gần tôi.
- Anh có hai đồng một trăm xu, Alexis nói, em nhận một đồng thì anh sẽ rất vui lòng.
Trong năm chúng tôi, Alexis là người duy nhất có ý thức về tiền, chúng tôi vẫn thường chế nhạo thói hà tiện của anh, anh luôn thu thập và vô cùng thích thú các đồng tiền mới. Việc anh cho tôi tiền làm tôi xúc động quá, tôi muốn từ chối nhưng anh cứ ép tôi phải nhận. Qua đó phải thấy là tình cảm của anh đối với tôi thật mạnh mẽ.
Benjamin cũng không quên tôi; anh cho tôi một con dao đổi lấy một xu "bởi vì dao là thứ cắt đứt tình bạn".
Thời gian trôi nhanh quá.
Đến lúc nghe tiếng xe ngựa lại gần, Lise bèn từ phòng cô Catherine bước ra và ra hiệu cho tôi theo em. Trong vườn chúng tôi có một cây hoa hồng Băng-gan ở một góc hẻo lánh. Lise đi về phía cái cây, cắt một cành hồng rồi chia cành hồng đó làm hai nhánh, mỗi bên có một nụ hoa hàm tiếu, đưa cho tôi một nhánh.
A! Tiếng nói của đôi môi thật chẳng nghĩa lý gì so với tiếng nói của đôi mắt! So với cái nhìn thì lời nói thật lạnh nhạt và trống rỗng biết bao!
- Lise! Lise! - Người cô gọi.
Các bọc quần áo đã đem lên xe cả rồi.
Tôi cầm lấy cây đàn, gọi Capi, nó nhảy lên vì mừng rỡ, hiểu rằng chúng tôi lại lên đường.
Giờ phút chia tay đã đến. Cô Catherine rút ngắn giờ phút đó lại.
- ạm hôn cha hộ em với nhé! - Tôi kêu lên...
Một tiếng nức nở làm giọng tôi nghẹn lại.
Xe ngựa đi mất.
Thế là hết.
Một người láng giềng chịu trách nhiệm đóng cửa căn nhà, ông ta làm tôi tỉnh nỗi sững sờ:
- Cháu không ở lại đây ư? - ông ta hỏi.
- Không ạ, cháu đi..- Đi đâu?
- Cháu cứ thẳng trước mặt mà đi thôi.
Có lẽ ông làm một động tác vì tình thương, bởi vì ông chìa tay cho tôi:
- Nếu cháu muốn ở lại đây, ông nói, thì bác sẽ giữ cháu nhưng không có lương.
Tôi cảm ơn ông. ông bỏ đi. Thế là cửa đóng lại.
Tôi đeo dây đàn lên vai.
- Đi nào, Capi!
Capi nhảy lên trước mặt tôi sủa vang.
Mặt trời đã lên cao ở chân trời, trời trong vắt và ấm áp.
Một cuộc đời mới mở ra trước mặt tôi.
Tôi chỉ là một đứa trẻ mà đã là chủ mình!
Hỡi ôi! Hoàn cảnh tôi thật đáng buồn.
Mặc dầu còn nhỏ tôi đã phải chịu nhiều bất hạnh để trở nên thận trọng và khôn ngoan hơn những đứa trẻ bình thường ở tuổi tôi, đó là một lợi thế mà tôi đã phải trả bằng một giá đắt.
Vì vậy, trước khi lao mình vào con đường mở ra trước mặt tôi, tôi muốn đi thăm con người mà trong những năm cuối cùng này đã như một người cha đối với tôi, nếu như cô Catherine không đem tôi theo cùng các con ông để tôi từ biệt ông thì tôi sẽ đi một mình đến ôm hôn ông vậy.
Chưa bao giờ tới nhà tù nợ nhưng thời gian gần đây tôi đã nghe nói đến nó khá nhiều nên chắc chắn là có thể tìm được. Buộc Capi vào một sợi dây thừng, tôi dắt nó đi đến nhà tù Clichy.
Tôi ngừng lại một lúc trước khi dám vào tưởng như mình vào đó sẽ bị bắt giữ. Tôi vẫn hình dung ra khỏi nhà tù rất khó nhưng tôi không biết muốn vào cũng chẳng dễ dàng gì.
Cuối cùng, không chịu để người ta không cho mình vào, đuổi mình về, tôi đã gặp được người tôi muốn gặp.
Người ta đưa tôi vào một hành lang không thanh chắn, không chấn song sắt như tôi đã nghĩ và ngay sau đó người cha đi ra không bị xích xiềng gì cả.
- Cha đang chờ con đây Rémi ạ, ông bảo tôi, cha đã mắng Catherine không đưa con tới.
Trẻ con nói với cha là con trở lại nghề hát. Con đã quên mình suýt chết vì đói và rét ở cửa nhà ta rồi chăng?
Nếu tôi từ bỏ cuộc đời đó thì chỉ còn một cách là ở cố định một chỗ nào. Nhưng làm vậy.sẽ thất hứa với chị étiennette, Alexis, Benjamin và Lise. Thực tế chị étiennette, Alexis và Benjamin chẳng cần nhờ tôi, họ có thể viết thư cho nhau; nhưng Lise, em không biết viết, cô Catherine cũng vậy, nếu tôi bỏ Lise, em sẽ hoàn toàn bị bỏ rơi.
 
N

nhungpro_196

Em sẽ nghĩ về tôi thế nào?
- Thế chẳng lẽ cha không muốn con cho cha biết tin tức của các anh chị em con hay sao? -Tôi nói.
- Chúng có nói với cha về chuyện đó, nhưng không phải chỉ vì nghĩ đến mình mà cha muốn con từ bỏ cuộc đời người hát rong.
- Chính vì vậy đấy cha ạ, nếu con từ bỏ cam kết mà con đã hứa thì điều đó có nghĩa con không nghĩ đến Lise.
Ông nhìn tôi rất lâu rồi đột nhiên nắm lấy hai bàn tay tôi:
- Con trai của cha, cha sẽ ôm hôn con vì lời nói đó; con là một đứa trẻ có tâm.
Chỉ có hai chúng tôi ở trong hành lang, chúng tôi ngồi bên nhau trên một chiếc ghế dài, tôi lao vào tay ông.
- Cha chỉ muốn nói với con một lời này nữa thôi, người cha nói tiếp: - thôi đành nhờ Trời!
Và cả hai chúng tôi ngồi im lặng một lúc, nhưng thời gian đã hết, đã tới lúc chúng tôi phải chia tay.
Bỗng nhiên, ông lục túi áo gi-lê lôi ra một chiếc đồng hồ quả quýt to, có dây da buộc vào khuyết áo.
- Chẳng nhẽ ta chia tay nhau mà con lại không mang theo một kỷ vật nào của cha? Đây là chiếc đồng hồ của cha. Cha cho con. Nó chẳng có giá trị gì lớn lắm, nếu đáng giá, cha đã bán đi rồi. Nó chạy không được tốt, thỉnh thoảng lại phải lấy ngón tay đẩy. Nhưng cuối cùng thì lúc này cha chỉ còn có thế.
Nói xong ông đặt chiếc đồng hồ vào tay tôi, rồi thấy tôi có vẻ muốn từ chối một món quà tặng quý đến thế, ông buồn bã nói thêm:
- ở đây cha không cần xem giờ, thời gian chỉ trôi quá chậm mà thôi. Vĩnh biệt con, Rémi bé nhỏ của cha.
Và ông cầm tay tôi dắt ra cửa. Tôi cảm động khôn xiết.
Tôi đứng trên phố khá lâu, rất lâu là khác, không biết nên đi sang trái hay sang phải và có lẽ tôi còn đứng như thế cho đến đêm nếu như.tay tôi không bất ngờ chạm vào một vật tròn cứng.
Một cách máy móc và cũng không hiểu mình làm gì, tôi sờ vào nó: hóa ra cái đồng hồ của tôi.
Đúng giữa trưa.
Capi kéo ống quần tôi. Nó sủa lên vui mừng.
- Mày muốn gì, Capi?
Nó nhìn tôi, chờ đợi mấy phút, vươn người lên đặt chân vào cái túi có chiếc đồng hồ. Nó muốn xem giờ để nói với "cử tọa đáng kính" như thời làm việc cùng cụ Vitalis.
Tôi cho nó xem; nó nhìn khá lâu như cố nhớ lại, rồi bắt đầu vẫy đuôi, sủa lên mười hai tiếng. Thế là nó vẫn không quên. A! Chúng tôi sẽ kiếm được tiền với cái đồng hồ này đây! Thêm một điều tôi không tính đến.
Vì chuyện này diễn ra giữa phố ngay cửa nhà tù, có nhiều người đứng lại tò mò nhìn chúng tôi. Giá mà dám thì tôi đã chơi ngay một buổi biểu diễn nhưng vì sợ cảnh sát nên tôi thôi.
Nghề của tôi lúc này cần nhất là một cái bản đồ nước Pháp, tôi biết người ta bán nó dưới kè sông, tôi quyết định mua một cái. Tôi đi về phía kè.
Tới nhà thờ Saint - Médard, hình như tôi nhận ra đứa trẻ đang đứng dựa vào tường nhà thờ, đứa trẻ kỳ lạ mà tôi đã nhìn thấy ở nhà Garifoli, vẫn đôi mắt ướt ấy, vẫn vẻ dịu dàng nhẫn nhục ấy.
Tôi lại gần, nó nhận ra tôi.
- Có phải anh, nó nói, đến nhà Garifoli cùng với cụ già râu bạc trước hôm tôi vào bệnh viện không nhỉ?
- Tôi đấy. Garifoli vẫn là chủ anh à?
- Người ta đã bắt hắn rồi vì hắn đánh một đứa trẻ nhiều quá đến nỗi nó chết.
Lần đầu tiên tôi thấy nhà tù có ích.
- Bọn trẻ con thì sao? - Tôi hỏi.
- à! Tôi có biết gì đâu. Tôi vào bệnh viện vì thằng cha Garifoli đối xử với tôi tệ quá đến nỗi tôi ốm. ở bệnh viện ra tôi về lại chỗ Garifoli thì chẳng còn ai, một người hàng xóm kể lại cho tôi nghe những điều tôi vừa nói với anh. Thành ra tôi mới ở đây, không biết đi đâu, không biết làm gì..Tôi không giàu có gì nhưng tôi đủ để làm cho thằng bé này không đến nỗi chết đói. Tôi chạy đến cửa hàng bánh mì rồi quay về đưa nó một cái bánh mì tròn. Nó vồ lấy nhai ngấu nghiến.
- Còn bây giờ anh định làm gì? - Tôi hỏi nó.
- Tôi không biết. Tôi đang định bán cây vĩ cầm đi, lẽ ra tôi đã bán rồi nếu như việc xa nó không làm cho tôi buồn bã quá. Cây vĩ cầm này là niềm vui, niềm an ủi của tôi, những lúc buồn tôi tìm một chỗ có thể đứng một mình được rồi kéo đàn cho bản thân mình, lúc ấy tôi nhìn thấy tất cả những thứ đẹp đẽ ở trên trời, còn đẹp hơn cả trong mơ nữa.
- Thế sao anh không kéo đàn trong phố?
- Tôi đã chơi đàn trong phố rồi đấy chứ, nhưng chẳng ai cho tiền cả. Còn anh thì sao?
Anh làm gì?
Không hiểu tình cảm khoe khoang trẻ thơ nào đã gây cảm hứng cho tôi:
- Tôi là chủ gánh hát. - Tôi nói.
- ồ! Thế anh có cho tôi nhập vào gánh được không? Tên tôi là Mattia. - Thằng bé nói.
- Nhưng cả gánh hát của tôi chỉ có thế này.
- Tôi chỉ vào Capi.
- Cần gì! Ta có hai người. ôi! Xin anh, đừng bỏ rơi tôi, tôi sẽ ra sao? Tôi làm việc được, chơi vĩ cầm được, làm trật khớp được, nhảy dây được, chui qua vòng được, hát được; anh muốn gì tôi làm nấy! Tôi không yêu cầu tiền, chỉ mong có cái ăn. Tôi mà làm tồi anh cứ việc đánh tôi, chỉ xin anh có một điều: đừng đánh tôi vào đầu.
Nghe Mattia tội nghiệp nói vậy tôi muốn khóc.
- Được. - Tôi bảo nó.
Nó lập tức cầm lấy bàn tay tôi hôn lên đó:
nước mắt tôi dâng lên.
- Đi theo tôi, như một người bạn ấy! - Tôi bảo.
Và xóc lại chiếc dây đeo đàn hác-pơ trên vai:
- Tiến lên!
Chỉ một khắc đồng hồ sau chúng tôi ra khỏi Paris.
Gió hanh tháng ba làm đường khô ráo, trên đất cứng đi bộ dễ dàng. Khí trời dịu, mặt trời rực rỡ trên bầu trời không mây..Thật khác biệt biết bao so với cái ngày tuyết rơi mà tôi vào Paris nơi tôi khát khao bao lâu như một vùng đất hứa!
Cuộc du hành của chúng tôi khởi đầu thật đẹp, tôi sải bước trên con đường vang tiếng bước chân với đầy niềm tin. Capi, được tháo dây buộc, chạy quanh chúng tôi, bất cứ cái gì và chẳng làm sao cũng sủa. Có lẽ nó chỉ vì thích mà sủa.
Bên cạnh tôi Mattia đi không nói năng gì, tôi cũng im lặng.
Tôi đã hứa với Lise đi gặp hai anh của em và chị étiennette trước em, nhưng tôi không cam kết sẽ thăm ai đầu tiên: Benjamin, Alexis hay chị étiennette? Tôi đến thăm ai trước tiên sẽ do tôi chọn, nghĩa là tôi có thể đi Cévennes, Charente hoặc Picardie.
Vì tôi ra khỏi Paris về phía nam, tôi chỉ còn chọn hoặc Alexis hoặc chị étiennette.
Một trong những lý do làm tôi muốn đi xuống phía nam trước, đó là vì mong gặp má Barberin.
Nếu như đã từ lâu tôi không nói tới má, không có nghĩa có thể kết luận là tôi đã quên má. Cũng không nên tưởng rằng tôi là kẻ vô ơn đã không viết thư cho má.
Biết bao lần tôi đã định viết cho má để bảo với má như thế này: "Con luôn nghĩ đến má và yêu má với cả tấm lòng con". Nhưng, một phần vì má không biết đọc, phần khác, nỗi sợ lão Bar-berin kìm tay tôi lại. Nếu Barberin nhờ thư tôi mà biết tôi ở đâu, hắn có đòi lại tôi chăng? Rồi lại đem bán tôi đi lần nữa chăng? Có lẽ lão có quyền làm việc đó. Nghĩ đến đó thà tôi bị má Barberin buộc tội là vô ơn còn hơn vô phúc lại rơi vào quyền hành của lão Barberin.
Nhưng bây giờ khi mà tôi muốn đi đâu thì đi, tôi có thể gặp lại má lắm chứ. Hơn nữa, vì đã thu nhận Mattia vào "gánh hát" của tôi, tôi thấy vấn đề này cũng dễ thôi. Tôi có thể cử Mattia vào trước, tôi khôn ngoan lùi lại sau. Nó sẽ lấy cớ gì đó vào nhà má Barberin; nếu má có một mình, nó sẽ kể sự thực cho má nghe rồi ra báo cho tôi biết, tôi sẽ vào căn nhà nơi trôi qua tuổi ấu thơ của tôi để sà vào vòng tay bà vú nuôi, còn nếu như lão Barberin đang ở nhà thì Mattia sẽ đề nghị má Barberin đến một chỗ đã hẹn trước để tôi được ôm hôn má.
Vừa đi tôi vừa xây dựng cả một kế hoạch như vậy. Lúc này chúng tôi đang ở giữa chốn đồng quê chúng tôi có thể nghỉ chân một lúc..Tôi bảo Mattia:
- Nếu anh muốn, chúng ta sẽ nghỉ một chút.
- Vâng nhưng tôi muốn xin anh xưng hô cậu, tớ với tôi.
- Tôi muốn thế lắm.
Thế là nó cười, một cái cười chân thành dịu dàng giơ hết cả răng ra, bộ răng trắng ngà trên khuôn mặt rám nắng.
 
N

nhungpro_196

Tôi lấy bản đồ ra trải trên cỏ. Tôi định hướng khá lâu, cuối cùng vạch ra hành trình của mình như sau: Corbeil, Fontainebleau, Montargis, Gien, Bourges, Saint - Amand, Montlucon. Có thể tới Chavanon được và nếu gặp chút may mắn thì dọc đường chúng tôi sẽ không chết đói.
Trong khi tôi nghiên cứu bản đồ, Mattia quan sát tôi một cách chăm chú.
- Cậu biết đọc ư?
- Có chứ. Thế còn cậu, cậu không biết đọc à?
- Không.
- Thế có muốn học không?
- ồ! Có chứ.
- Được, thế thì tớ sẽ dạy cậu.
Mở cái túi ra tôi bỗng có ý nghĩ xem thử ở trong có những thứ gì. Tôi bèn bày cả ra trên cỏ. Tôi có ba áo sơ mi bằng vải toan, ba đôi tất, năm khăn tay, tất cả đều còn rất mới, và một đôi giày đã bắt đầu cũ.
Mattia lóa mắt.
- Còn cậu, cậu có những gì nào? - Tôi hỏi nó.
- Cây đàn và bộ quần áo mặc trên người.
- Được! - Tôi nói. - Ta sẽ chia ra, vì ta là bạn mà: cậu sẽ có hai áo sơ mi, hai đôi tất, ba khăn tay, có điều là mỗi đứa sẽ đeo cái túi trong một giờ đồng hồ.
Mattia muốn từ chối phần đầu của lời đề nghị, nhưng tôi đã có thói quen chỉ huy, tôi không cho nó cãi lại.
Tôi bày cái túi nội trợ mà chị étiennette cho tôi trên mấy chiếc áo sơ mi, cả cái hộp trong đựng bông hoa hồng của Lise nữa. Mattia muốn mở cái hộp ra nhưng tôi không cho phép, tôi cất cái hộp đó vào túi.
- Nếu cậu muốn làm vui lòng tớ, tôi bảo nó, thì đừng bao giờ mở cái hộp này ra. Đó là một quà tặng.
Từ khi trở lại khoác tấm da cừu và khoác cây đàn hác-pơ, có một điều làm tôi khá lúng túng, đó là chiếc quần của tôi. Nghệ sĩ không.mặc quần dài. Để xuất hiện trước công chúng phải mặc quần cụt, đi tất trên có buộc chéo những sợi ruy-băng.
Tôi bèn mở cái túi nội trợ của chị étiennette ra, cầm lấy cái kéo.
- Trong khi tớ sửa cái quần, tôi bảo Mattia, cậu cho tớ biết tài nghệ chơi vĩ cầm của cậu nào.
Nó cầm lấy đàn và bắt đầu chơi.
Trong thời gian đó tôi dũng cảm đưa mũi kéo vào cắt quần.
Thoạt đầu tôi vừa cắt quần vừa nghe Mattia, sau rồi chẳng mấy chốc tôi dừng hẳn lại dỏng tai lên nghe: Mattia chơi vĩ cầm chẳng kém gì cụ Vitalis.
Tôi vừa vỗ tay vừa hỏi nó:
- Ai dạy cậu đàn thế?
- Mỗi người một tí, chủ yếu tự học trong khi làm việc. Tớ chơi những gì nghe được ở người khác.
Đến lượt tôi, tôi cũng muốn tỏ cho Mattia biết mình cũng là một tay chơi nhạc không tồi:
cầm lấy đàn hác-pơ tôi hát một khúc mà tôi yêu thích.
Thế là, như giữa những nghệ sĩ với nhau, Mattia đáp lại lời ca của tôi bằng những cái vỗ tay.
Nhưng, sau khi chơi nhạc cho vui cũng phải nghĩ đến chơi nhạc để có cơm chiều, có chỗ ngủ nữa chứ. Chúng tôi lại lên đường.
- Cậu dạy tớ bài hát của cậu đi, Mattia nói, ta sẽ cùng hát, tớ nghĩ chẳng bao lâu tớ sẽ đệm vĩ cầm được, như thế rất hay.
Sau Villejuif, chúng tôi đến một ngôi làng nọ. Khi qua cổng một cái trại chúng tôi thấy trong sân đầy người: đang có đám cưới.
Tôi chợt có ý nghĩ họ cần có người chơi đàn để nhảy, thế là tôi bước vào, theo sau là Mattia và Capi. Tay ngả mũ chào thật cung kính, tôi đề nghị với người đầu tiên gặp trên đường vào.
Đó là một chàng thanh niên to lớn có vẻ dễ chịu, tính tình điềm đạm.
- Này, các vị ơi, anh ta gọi, các vị nghĩ sao nếu có chút nhạc? Ta đứng vào nhảy ca-đri nào!
Chỉ vài phút sau ai nấy đứng thành từng nhóm ở giữa sân để nhảy.
- Cậu có chơi được điệu nhảy ca-đri không?
- Tôi hỏi khẽ Mattia vì tôi khá lo lắng.
- Được..Nó kéo thử đàn vĩ cầm cho tôi nghe, may mà tôi cũng biết điệu ấy. Thế là chúng tôi thoát hiểm.
Người ta đem một cái xe bò từ trong nhà để xe ra, cho chúng tôi lên đó. Tuy chưa hòa nhạc với nhau bao giờ nhưng chúng tôi cùng chơi điệu nhảy ca-đri không đến nỗi dở. Cũng may chúng tôi chơi ở đây cho những đôi tai không sành nhạc cũng không khó tính lắm.
- Có cậu nào trong hai cậu biết chơi kèn đẩy coóc-nê không nhỉ? - Anh thanh niên to lớn hỏi chúng tôi.
- Có, có, Mattia trả lời, nhưng tôi không có kèn.
- Để tôi đi kiếm, vĩ cầm thì hay thật đấy nhưng hơi nhạt nhẽo.
- Cậu chơi cả kèn đẩy nữa cơ à? - Tôi hỏi Mattia.
- Cả kèn tơ-rôm-pét có rãnh, cả sáo, tất cả các nhạc cụ.
Quả thằng bé đáng quý thật.
Chẳng mấy chốc kèn coóc-nê được mang đến, chúng tôi lại cùng chơi khúc nhảy ca-đri, pôn-ka, van-xơ... cứ như thế cho đến tối.
Chúng tôi mệt rã rời. Cô dâu xuất hiện.
- Thôi thôi, cô nói, hai đứa trẻ không đàn nổi nữa rồi. Chuẩn bị đặt tay vào túi tiền đi nào.
- Nếu cô cho phép, tôi nói với cô, chúng tôi sẽ cho thủ quỹ của chúng tôi đi thu tiền ạ.
Tôi ném cái mũ của mình cho Capi, nó ngậm vào mõm. Mọi người vỗ tay rầm rập khi thấy nó duyên dáng chào người ta mỗi khi người ta cho tiền, nhưng điều đáng giá hơn đối với chúng tôi là người ta cho nhiều lắm. Tôi theo dõi thấy những đồng bạc trắng xóa rơi xuống mũ, cuối cùng chú rể bỏ vào một đồng năm phrăng.
Chưa phải đã hết. Người ta mời chúng tôi vào bếp ăn cơm và cho chúng tôi ngủ trong vựa thóc. Sáng hôm sau, khi rời căn nhà mến khách đó chúng tôi có vốn liếng là hai mươi tám phrăng. Cả một tài sản!
- Nhờ cậu mà có đấy, Mattia ạ. - Tôi bảo bạn tôi. - Một mình tớ thì làm sao thành ban nhạc được.
Chúng tôi lại lên đường, lòng thênh thang đầy hy vọng. Cuối cùng tương lai mỉm cười với chúng tôi chăng?.
 
M

minhvu_94

mình post tiếp nhé ! Mình cũng thik tiểu thuyết này lắm ý !

Chương 9
Một thành phố đen


Chúng tôi lại lên đường, không đói không mệt với hai mươi tám phrăng trong túi nhờ sự đón tiếp nồng nhiệt mà người ta đã dành cho chúng tôi nhân một đám cưới ở gần Villejuif.
Phải nói rằng chúng tôi đã toàn tâm toàn lực chơi đàn cho cô dâu và các khách mời của cô nhảy.
Với hai mươi tám phrăng trong túi, chúng tôi là hai vị chúa tể, khi tới Corbeil tôi đã có thể mua thoải mái một số thứ không dại dột chút nào: trước hết là một cây kèn đẩy cũ ở một cửa hàng sắt tuy không mới không đẹp nhưng được lau chùi kỹ càng bảo dưỡng cẩn thận, rất được việc cho chúng tôi; rồi những dây ruy-băng đỏ để buộc vào tất, cuối cùng một túi cũ của quân đội cho Mattia. Khi rời Corbeil, sau khi trả hết tiền những thứ đã mua, túi tiền chúng tôi có ba mươi phrăng bởi vì những cuộc biểu diễn ở.đây của chúng tôi thu được khá nhiều. Chúng tôi điều hòa các tiết mục sao cho ở lại nơi này được nhiều ngày. Sau nữa Mattia và tôi rất hợp nhau, đến nỗi coi nhau như hai anh em ruột.
Sau khi rời Corbeil chúng tôi tiến về Mon-targis để tới nhà má Barberin.
Bây giờ tôi đã giàu, tôi phải có quà tặng má chứ.
Chẳng phải tìm tòi gì lâu. Có một thứ sẽ có thể làm má sung sướng hơn tất cả mọi thứ: đó là một con bò cái.
Cái chính lúc này là làm sao biết giá. Lần đầu tiên tôi hỏi một ông lái bò ông này cười vào mũi tôi để trả lời. Nhưng tôi không để người ta làm cho bối rối.
- Phải cho sữa tốt lại không ăn quá nhiều.
Ông ta có một con bò cái đúng theo yêu cầu của tôi, nếu đưa ông năm mươi ê-quy thì con bò sẽ thuộc về tôi.
Còn lâu tôi mới có đủ món tiền lớn đó.
Chẳng lẽ không mua nổi nó sao? Khéo không mua nổi mất. Nhưng nếu vận may vẫn đến với chúng tôi như những ngày đầu tiên thì tôi có thể thu thập từng xu một lắm chứ! Chỉ cần có thời gian thôi.
Lúc đó một ý tưởng mới nảy ra trong óc tôi.
Đáng lẽ đầu tiên đi Chavanon thì hãy đi Varses đã, như vậy chúng tôi sẽ có đủ số thời gian bị thiếu nếu đi thẳng tới Chavanon.
Phải đi Varses trước đã, lúc về mới tới nhà má Barberin.
Buổi sáng tôi thông báo cho Mattia ý tôi, Mattia không phản đối gì cả.
Chúng tôi mất ba tháng mới vượt qua ngần ấy cây số, nhưng tới gần Varses tôi vui mừng đếm tiền thấy mình đã tận dụng tốt thời gian:
chúng tôi có một trăm hai mươi tám phrăng, chỉ thiếu hai mươi hai phrăng là mua được con bò cái.
Từ Varses tới Chavanon chắc chắn chúng tôi sẽ kiếm được khá.
Varses, cách đây một trăm năm, chỉ là một ngôi làng nhỏ hẻo lánh giữa núi non. Thật quả trên mặt đất thật hiu quạnh: chỉ có đá vôi, đất truông, không cây cối ngoài đây đó mấy cây dẻ, cây dâu tằm và vài cây oliviers còm cõi; đất không trồng trọt được, chỗ nào cũng thấy đá xám, đá trắng; chỉ những nơi đất hơi sâu một chút mới.có chút ẩm thấp để một ít thực vật sống được làm nổi bật lên trông rất vui mắt.
Vì nơi đây trơ trụi như thế nên hay xảy ra những trận lụt kinh khủng: mỗi khi trời mưa, nước cứ chảy theo những sườn dốc trụi cây như trên một đường phố lát đá và những con suối xưa nay cạn khô nay chảy ào ào như thác làm cho bỗng chốc bao nhiêu sông trong thung lũng đầy ắp lên rồi tràn ra, chỉ vài phút nước ngập đến năm mét và hơn cả thế nữa.
Khi chúng tôi tới ngoại vi Varses là ba giờ chiều, mặt trời rực rỡ tỏa trên bầu trời trong vắt, nhưng càng tiến tới ngày càng tối đi; giữa bầu trời và mặt đất một đám mây khói dày đặc bốc từ những ống khói nặng nề ra xâu xé lẫn nhau rồi lan dài ngột ngạt. Từ hơn một giờ nay chúng tôi nghe thấy những tiếng vù vù rất mạnh, những tiếng rì rào như tiếng rì rào của biển cùng với những tiếng đập đùng đục. Tiếng vù vù thì là tiếng quạt rồi còn những tiếng đục là tiếng búa và tiếng vồ.
Tôi chỉ biết chú của Alexis là công nhân mỏ làm việc ở mỏ Truyère và chỉ có thế. Chú ở Varses hay ngoại ô Varses?
Vào tới làng tôi hỏi thăm mỏ ở đâu, người ta chỉ cho tôi đến bờ bên trái của con sông Di-vonne.
Người ta cũng cho chúng tôi địa chỉ của chú Gaspard, chú ở cách đấy một quãng ngắn trong một phố quanh co và dốc đứng từ ngọn đồi xuống con sông.
Khi hỏi thăm ông thì một người đàn bà đang nói chuyện với một bà hàng xóm đã trả lời là làm việc xong đến sáu giờ ông mới về.
- Thế cháu hỏi ông ấy có việc gì?
- Cháu muốn gặp Alexis.
Bà bèn nhìn tôi từ đầu đến chân và nhìn Capi.
- Cháu là Rémi phải không? Alexis có nói chuyện với chúng tôi, nó đợi cháu đến đấy. Thế còn cậu này là ai?
- Là bạn cháu ạ.
Đó là bà thím của Alexis. Tôi cứ tưởng bà ta mời chúng tôi vào trong nhà nghỉ ngơi vì đôi chân đầy bụi cũng như khuôn mặt sạm nắng gió của chúng tôi cho biết rõ chúng tôi mệt lắm; thế nhưng bà ta chẳng làm gì cả chỉ nhắc lại là nếu chúng tôi quay lại lúc sáu giờ thì sẽ gặp Alexis.
Cách đón tiếp như vậy làm chúng tôi không muốn quay lại nhà làm gì nữa, chúng tôi đi đến đợi Alexis ở cửa vào mỏ lúc gần sáu giờ..Tôi đứng đó với Mattia và Capi và sau sáu giờ độ vài phút tôi bắt đầu nhìn thấy từ trong đường hầm sâu thẳm và tăm tối những chấm sáng lớn dần. Đó là những người thợ mỏ tay cầm đèn trở lên chốn ban ngày ban mặt.
Họ đi rất chậm, bước đi nặng nề tựa như bị đau đầu gối vậy, điều đó sau này tôi mới biết, khi mà tôi bước xuống những bậc lên xuống của chiếc thang dẫn xuống mức sâu nhất của mỏ; mặt họ đen như mặt những người nạo ống khói, áo quần và mũ họ phủ đầy bụi than cùng những mảng bùn ướt. Qua kho để đèn, từng người đi vào treo đèn lên một cái đinh.
Mặc dù rất chú ý tôi không nhìn thấy Alexis, nếu anh không nhảy lên bá cổ tôi hẳn tôi đã để anh đi qua trước mặt mà không biết: đen từ đầu đến chân như thế bây giờ anh đâu còn giống người anh của tôi vẫn thường chạy trên những lối đi ở vườn xưa kia?
- Đây là Rémi. - Anh vừa nói vừa quay lại phía một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đi bên cạnh.
Tôi biết ngay đấy là chú Gaspard.
- Bọn chú chờ cháu đã lâu. - ông hiền từ nói.
Capi mừng rỡ vì gặp lại Alexis. Trong khi đó tôi giải thích cho chú Gaspard ràng Mattia là một người bạn của tôi, một cậu bé rất khá mà tôi đã quen từ lâu, chơi kèn đẩy không kém gì ai.
- Còn đây là Capi chứ gì, - chú Gaspard nói, - ngày mai là chủ nhật: nghỉ ngơi xong bọn cháu biểu diễn cho chúng tôi xem một buổi nhé. Alexis nói là con chó này thông thái hơn cả một ông giáo hoặc một kịch sĩ đấy.
Tôi lúng túng trước mặt bà thím bao nhiêu thì thoải mái với ông chú bấy nhiêu.
Khi sắp sửa về tới nhà, chú Gaspard lại gần chúng tôi:
- Bọn cháu ăn tối với chúng tôi nhé.
Chưa bao giờ có một lời mời nào làm tôi vui đến thế bởi vì tôi đang tự hỏi liệu đến cửa chúng tôi có phải chia tay nhau hay không, cách đón tiếp của bà thím chẳng làm tôi mảy may hy vọng.
- Đây là Rémi, - ông nói khi bước vào nhà, - và bạn của cháu.
- Tôi đã gặp các cậu ấy rồi.
Được trôi qua buổi tối cùng ông, tôi thật sung sướng, thật tình mà nói tôi cũng sung sướng.được ăn cơm tối nữa. Suốt từ Paris chúng tôi cứ gặp đâu ăn đấy, ít khi được ăn một bữa cơm thực sự. Thực ra với những gì thu được chúng tôi cũng khá giàu, đủ để ăn những bữa cơm sang trọng trong các quán, nhưng còn phải dành tiền tậu bò nữa.
 
M

minhvu_94

Tiếp theo chương 9

Cơm tối kéo dài không bao lâu.
- Cháu sẽ ngủ với Alexis nhé. - Chú Gaspard bảo tôi. - Còn Mattia, nếu cháu đồng ý ngủ trong lò bánh mì, chú sẽ làm cho cháu một cái giường đệm rơm.
Tối và phần lớn đêm đó tôi và Alexis dùng để bàn chuyện.
Chú Gaspard là thợ cuốc than, nghĩa là ông cuốc than trong mỏ bằng một cái cuốc chim. Alexis là người đẩy goòng, có nghĩa đẩy than trên một toa xe gọi là xe goòng trên đường ray từ nơi than được cuốc ra cho tới một cái giếng. Xe goòng trong có chứa than khi đến giếng được móc vào một dây cáp có máy đưa lên trên mặt đất.
Dù cho mới là thợ mỏ có ít lâu, Alexis đã yêu mỏ, tự hào về mỏ, theo anh đó là cái mỏ đẹp nhất, ly kỳ nhất xứ sở này, anh đặt vào câu chuyện kể của mình tất cả tầm quan trọng của một người khách phương xa đến từ vùng đất lạ tìm được những đôi tai chú ý lắng nghe mình.
Alexis tiếp tục kể về cuộc sống của mỏ, những hiểm nguy của mỏ như vụ nổ ga khủng khiếp tức là nổ khí mỏ vài tuần trước đây làm chết hàng chục công nhân mỏ, tai nạn này gây cho anh một ấn tượng rất mạnh.
Những gì Alexis kể kích thích trí tò mò của tôi đến nỗi tôi muốn xuống mỏ nhưng muốn xuống mỏ phải là thợ mỏ đã.
Tuy nhiên, một sự tình cờ đã khiến tôi cảm nhận được tất cả nỗi hãi hùng đôi khi vẫn đe dọa thợ mỏ.
Tối hôm trước ngày tôi lên đường, Alexis về nhà với một bàn tay bị giập do một tảng than rơi vào. Một ngón tay anh nát ra đến một nửa, cả bàn tay giập tím bầm lại.
Bác sĩ của công ty đến nhà thăm và băng bó cho anh. Vết thương không trầm trọng như Alexis phải nghỉ việc.
Chú Gaspard có tính cách là đời làm sao ông chấp nhận làm vậy, chẳng buồn chẳng giận bao giờ, nhưng có một điều khiến ông mất cả hiền lành: đó là có cái gì cản trở công việc của ông..Khi biết Alexis phải nghỉ làm việc trong nhiều ngày, ông kêu tướng lên. Ai sẽ đẩy xe goòng trong suốt thời gian này? Chẳng có ai thay nó cả, mỏ đang thiếu người nhất là trẻ con.
Ông đi tìm một người đẩy xe goòng nhưng lại về không. ông bắt đầu phàn nàn.
Thấy ông buồn và hiểu vì sao ông buồn, đồng thời cảm thấy có nghĩa vụ trong trường hợp này, mình nên có cách riêng để đền đáp lòng hiếu khách của ông đã dành cho chúng tôi, tôi bèn hỏi ông đẩy goòng có khó lắm không.
- Chỉ việc đẩy nó trên đường ray.
- Xe có nặng không ạ?
- Không đến nỗi nặng lắm.
- Alexis đẩy được thì chắc là cháu cũng đẩy được.
Ông cười ầm lên nhưng sau đó trở lại đứng đắn ngay:
- Cháu là cậu bé tốt quá, đúng thế đấy, ngày mai cháu xuống mỏ với chú. Đúng là cháu giúp chú, nhưng có lẽ cũng có ích cho cháu. Nếu cháu thấy thích công việc này, thì nó còn hơn là cứ lang thang trên đường.
Nhưng nếu như thế thì Mattia sẽ làm gì? Tôi bèn hỏi nó có muốn cùng Capi đi biểu diễn trong vùng lân cận không thì nó đồng ý.
- Tớ sẽ rất hài lòng tự mình kiếm nốt tiền tậu bò. - Nó cười nói.
Qua ba tháng chúng tôi cùng ở với nhau, sống giữa không khí thoáng đãng, Mattia đã khác xa cậu bé ốm yếu mà tôi gặp đang đứng dựa vào nhà thờ Saint - Médard. Mặt trời và cuộc sống ngoài trời đã đem lại sức khỏe cho nó, làm nó vui lên. Suốt hành trình lúc nào nó cũng vui, cũng cười. Nếu không có nó không hiểu tôi sẽ ra sao?
Chúng tôi thỏa thuận với nhau trong thời gian tôi xuống mỏ Mattia sẽ đi biểu diễn để tăng thêm thu nhập.
Sáng hôm sau người ta đưa cho tôi bộ quần áo lao động của Alexis. Tôi đi theo chú Gaspard.
- Chú ý vào nhé, - ông đưa cái đèn cho tôi, - cứ theo chú mà đi.
Chúng tôi đi sâu vào đường hầm, ông đi trước.
- Cháu mà trượt chân ở bậc thang thì bám chặt vào nhé, ở dưới kia sâu lắm và cứng lắm đấy..Không cần phải nghe những lời dặn dò này tôi đã đủ xúc động rồi, bởi vì từ chỗ ánh sáng bước vào trong đêm tối, từ mặt đất bước vào trong lòng đất, ai chẳng thấy xốn xang trong lòng.
Theo bản năng tôi quay lại phía sau: ban ngày chỉ còn là một chấm sáng nhỏ tít tận đầu kia. Tôi theo kịp bước chân chú Gaspard rất nhanh.
- Đến bậc thang rồi đây này. - Chẳng bao lâu ông nói.
Chúng tôi đến trước một cái lỗ đen ngòm và trong cái chiều sâu mà mắt tôi không thể lường nổi tôi thấy những vệt sáng đung đưa, ở đầu vào thì lớn sau cứ nhỏ dần đến độ chỉ còn là những chấm nhỏ khi chúng cứ càng ngày càng xa đi. Đó là đèn của những thợ mỏ đã vào mỏ trước chúng tôi. Tiếng họ nói chuyện nghe như tiếng rì rầm vẳng tới tận tai chúng tôi nhờ một luồng không khí âm ấm thổi vào mặt, luồng không khí có mùi gì đó mà lần đầu tiên tôi ngửi thấy: nó như mùi ê-te lẫn với mùi ét-xăng.
Khi tới nơi làm việc, chú Gaspard chỉ cho tôi phải làm những gì, và khi goòng đầy ắp than, ông cùng đẩy với tôi để dạy tôi cách đẩy goòng tới tận giếng, dạy tôi cách đưa goòng vào những đường tránh khi gặp những người đẩy xe goòng tới từ phía ngược lại.
Kể cũng có lý khi nói rằng nghề này không lấy gì làm khó lắm, sau vài giờ nếu như tôi chưa trở nên thành thạo thì cũng có thể gọi là làm được. Chỉ chưa khéo lắm chưa quen lắm mà thôi, bù vào đó tôi buộc phải mất nhiều sức hơn, kết quả là làm được ít hơn và mệt nhiều hơn.
Cạnh nơi chú Gaspard làm việc, có một người đẩy goòng láng giềng với tôi, lẽ ra là một đứa trẻ như tôi và các bạn tôi, thì lại là một cụ già râu bạc trắng; nói bạc trắng vì vào ngày chủ nhật, ngày ai nấy tắm rửa sạch sẽ, bởi qua cả một tuần lễ, ngày thứ hai râu xám ngày thứ bảy râu đen. Cụ đến ngoài sáu mươi tuổi. Ngày xưa, thời còn trẻ, cụ là thợ gỗ, có nghĩa chịu trách nhiệm bảo trì các cột chống bằng gỗ để chống hầm, nhưng sau một vụ sụt hầm cụ bị nghiền nát ba ngón tay đành phải bỏ nghề. Công ty của cụ có cho cụ một chút tiền trợ cấp vì tai nạn này xảy ra khi cụ cứu ba công nhân bạn. Cụ sống bằng tiền trợ cấp đó được vài năm. Công ty của cụ phá sản, cụ chẳng còn nguồn nào mà sống, chẳng thuộc diện nào, cụ phải vào mỏ.Truyère đẩy goòng. Họ gọi cụ là cụ giáo, bởi vì cụ hiểu biết nhiều điều mà các thợ cuốc, thợ mỏ bậc thầy còn phải chịu, những người này sẵn sàng nói lên như vậy.
Trong giờ ăn cơm chúng tôi làm quen với nhau và cụ thân với tôi rất nhanh. ở trong mỏ thường người ta ít nói vì thế người ta gọi chúng tôi là những người hay chuyện.
Những câu chuyện kể của Alexis không cho tôi biết hết những điều tôi muốn biết, những câu trả lời của chú Gaspard cũng không làm tôi thỏa mãn, bởi vì khi tôi hỏi chú:
- Than đá là gì hả chú?
Thì lúc nào chú cũng chỉ trả lời:
- Là than tìm được ở trong đất.
Nhưng khi tôi hỏi cụ giáo cũng câu hỏi ấy thì cụ lại trả lời khác hẳn:
- Nó không gì khác chỉ là than gỗ mà thôi:
đáng lẽ cho vào lò sưởi những cái cây của thời đại chúng ta, ta lại cho vào đó cây cối mọc trong những khu rừng cổ đại đã biến thành than do sức mạnh của thiên nhiên, do cháy rừng, do núi lửa, do động đất.
Và khi tôi ngạc nhiên nhìn cụ thì cụ nói:
- Hôm nay ta không có thì giờ nói về chuyện đó, nhưng mai là chủ nhật, cháu đến tôi, tôi sẽ giải thích cho cháu.
Ngày hôm sau tôi nói với chú Gaspard là mình đến thăm cụ giáo.
- à, chú cười, thế là cháu đã tìm được người để chuyện trò rồi đấy hả, đi đi, nếu lòng cháu muốn vậy. Chỉ có điều là nếu như cháu học được cái gì ở cụ thì cũng đừng lên mặt ta đây nhé.
Tôi bước vào thì cụ ra đón tôi.
- Tôi đã gọi món biroulade rồi đấy, bởi vì tuổi trẻ có tai có mắt nhưng cũng có cả cổ họng nữa, muốn làm bạn với họ cách tốt nhất là làm thỏa mãn cả yết hầu họ.
Món biroulade là món hạt dê nướng ngâm vào rượu trắng, ở vùng Cévennes này được mời ăn món đó là một vinh dự.
- Sau khi ăn món biroulade, tôi sẽ cho cháu xem bộ sưu tập của tôi.
Bộ sưu tập này vô cùng phong phú, ít nhất là theo đánh giá của tôi, nó chiếm toàn bộ chỗ ở của cụ, trên các bàn và các giá nếu là vật mẫu nhỏ, vật mẫu lớn thì xếp dưới đất.
Đã từ hai mươi năm nay, cụ sưu tầm tất cả những cái gì mà cụ thấy hay hay gặp trong khi làm.việc, và bởi vì khu mỏ ở lưu vực sông Cère và sông Divonne rất nhiều thực vật hóa đá, cụ có những mẫu rất hiếm mà nhà địa chất học và tự nhiên học nào có được hẳn phải vô cùng sung sướng.
Cụ vội nói và tôi cũng chăm chú nghe:
- Bởi vì cháu muốn biết thế nào là than đá, cháu hãy nghe đây: mặt đất nơi chúng ta ở không phải lúc nào cũng như ngày nay. Có những thời kỳ mà nước ta phủ đầy loại cây giờ đây chỉ mọc ở những nước nhiệt đới. Rồi bỗng nhiên có một cuộc cách mạng, toàn bộ lớp thực vật này bị thay thế bằng một lớp thực vật khác hẳn, đến lượt nó lại bị thay thế bởi một lớp khác nữa, cứ như thế trong hàng ngàn, hàng triệu năm. Cây nhỏ cây lớn tích tụ lại, vừa phân hủy vừa chồng lên nhau sinh ra nhiều lớp than đá. Tôi sẽ cho cháu xem những mẫu lấy từ vỉa ta gọi là tường hay là mái còn mang dấu ấn của cây cối, được giữ như là thảo mộc giữa những tờ giấy của tập mẫu thảo mộc.
Cuộc viếng thăm của tôi kéo dài đến đêm vì cụ hiểu biết quá nhiều và những lời giải thích của cụ làm tôi say mê.
 
M

minhvu_94

Chương 10

Chương 10
Ngập lụt


Ngày hôm sau chúng tôi lại xuống mỏ.
Tôi vừa đẩy chiếc xe goòng về phía giếng Sainte - Alphonsine lần thứ ba thì nghe thấy từ phía giếng một tiếng gầm khủng khiếp. Có chỗ nào sạt lở hay toàn bộ hầm bị sụt? Tôi lắng nghe, tiếng huyên náo vẫn tiếp tục và dội đi tứ phía.
Cảm tưởng đầu tiên của tôi là khiếp vía lên được, tôi nghĩ đến việc chạy trốn về phía thang nhưng vì đã nhiều lần bị mọi người chế giễu vì thói nhút nhát nên tôi xấu hổ mà đứng lại.
Bỗng nhiên một lũ chuột luồn qua hai chân tôi mà chạy: rồi hình như tôi nghe thấy một tiếng lạ lùng lướt trên mặt đất và trên thành hầm với tiếng nước vỗ. Nơi tôi đứng vốn hoàn toàn khô cơ mà. Tôi lấy đèn soi rồi cúi xuống nhìn mặt đất.
Đúng là nước, nước từ giếng đến và ngày càng dâng lên trong hầm..Bỏ xe goòng trên đường ray tôi chạy về nơi công trường làm việc.
- Chú Gaspard ơi, trong mỏ có nước!
- Vớ vẩn!
- Chú nghe mà xem.
Giọng tôi xúc động đến nỗi chú Gaspard ngừng cuốc để nghe, vẫn cái tiếng đó ngày càng to hơn, nghe càng thê thảm hơn. Không còn nhầm lẫn gì nữa.
- Chạy nhanh đi thôi. - ông bảo tôi.
Chú cầm lấy đèn, bao giờ đó cũng là động tác đầu tiên của người thợ mỏ, rồi lén ngay vào đường hầm.
Chưa đi được mười bước thì tôi thấy cụ giáo cũng xuống đường hầm.
Mực nước tăng rất nhanh, lúc này đã lên tới đầu gối làm chúng tôi tiến rất chậm. Cả ba chúng tôi lúc đi qua các công trường làm việc đều kêu to:
- Chạy đi, nước vào mỏ rồi!
Mực nước tăng với một tốc độ hoảng loạn, may thay chúng tôi ở ngay gần thang nếu không không thể nào đến đó được. Cụ giáo tới thang trước tiên.
- Anh và cháu lên trước đi. Tôi già rồi, lương tâm yên ổn.
Lúc này chẳng câu nệ lễ phép làm gì nữa, chú Gaspard lên trước, tôi theo sau rồi đến cụ giáo, sau cụ một quãng cách khá xa mới đến vài công nhân theo kịp chúng tôi.
Chưa bao giờ bốn mươi mét ngăn cách mức sâu thứ hai với mức sâu thứ nhất của mỏ được vượt nhanh như thế! Nhưng vừa tới nấc thang trên cùng thì một làn sóng nước ùa xuống đầu chúng tôi làm đèn của chúng tôi tắt ngóm. Thật là một thác nước!
- Giữ cho chặt vào! - Chú Gaspard kêu.
Chú, cụ giáo và tôi, chúng tôi bám thật chặt vào nấc thang để chống cự lại, những người đằng sau chúng tôi bị sóng kéo đi luôn, và chắc chắn là nếu chúng tôi còn phải leo mười nấc thang nữa hẳn chúng tôi cũng như họ đã bị rơi xuống rồi bởi vì chỉ ngay sau đó thác nước trở thành một khối lở ụp xuống.
Lên tới mức trên cùng rồi chúng tôi vẫn chưa thoát, muốn lên khỏi mỏ còn năm mươi mét nữa và ngay cả tầng hầm này cũng có nước, ánh sáng thì không có..- Ta nguy rồi. - Cụ giáo nói với giọng hầu như bình tĩnh. - Rémi cháu cầu kinh đi.
Cùng lúc đó có bảy tám ánh đèn chạy tới chỗ chúng tôi, nước lên tới đầu gối chúng tôi, không cần cúi xuống tay chúng tôi cũng chạm vào nước. Đó không phải là một thứ nước lặng mà là luồng nước cuốn, vừa trôi nó vừa kéo theo những tảng gỗ quay cuồng như những chiếc lông chim.
Những người cầm đèn mà chúng tôi nhìn thấy định theo đường hầm đi tới thang và những bậc thang ở gần đấy, nhưng trước dòng thác như thế này thì việc đó không thể làm nổi bởi vì làm sao mà đẩy ngược được dòng nước cũng như kháng cự lại được sức thúc của nước và những tảng gỗ nó cuốn theo?
Họ cũng thốt ra lời mà cụ giáo thốt ra lúc nãy:
- Chúng ta nguy rồi!
Họ tiến đến chỗ chúng tôi.
- Đi lối này, phải rồi. - Cụ giáo nói, cụ là người duy nhất trong chúng tôi còn giữ được chút bình tĩnh. - Nơi duy nhất ta trú ẩn được là nơi công trường cũ ấy.
Công trường cũ là một phần của mỏ đã bị bỏ đi từ lâu không ai lai vãng trừ cụ giáo, cụ vẫn thường tới thăm khu đó mỗi khi cần tìm hiểu một điều lạ lùng nào đó.
- Các anh quay lại đi, - cụ ra lệnh, - đưa tôi một cái đèn, tôi sẽ dẫn các anh đi.
Bình thường mỗi khi cụ nói người ta hay giễu cụ đôi chút nhưng lúc này tất cả mấy cái đèn đều được đưa ra. Cụ vội vàng cầm lấy một chiếc, tay kia kéo tôi đi, cụ dẫn đầu cả đoàn. Vì chúng tôi đi cùng chiều với dòng nước nên đi khá nhanh.
Sau khi đi dọc theo đường hầm một lát, cụ dừng lại.
- Ta không còn thời gian nữa rồi. Nước lên nhanh quá.
Quả thật nước mau chóng chiếm cứ chúng tôi, từ đầu gối tôi nó lên tới háng, từ háng lên đến ngực.
- Phải trèo vào một dốc ngách hầm thôi. -Cụ giáo nói.
- Sau đó thì sao? Dốc ngách hầm chẳng dẫn đến đâu cả!
Quả thực đó là một cái túi cùng, nhưng chúng tôi không còn thời gian chờ đợi và chọn.lựa, hoặc vào một dốc ngách hầm và có lấy vài phút trước mặt có nghĩa hy vọng sống sót hoặc cứ theo đường hầm mà đi dù biết chắc chắn chỉ vài giây là bị chìm nghỉm.
Cụ giáo dẫn đầu, chúng tôi đi vào trong một dốc ngách hầm. Hai người trong số chúng tôi cứ đi theo đường hầm, chúng tôi không bao giờ trông thấy họ nữa.
Trong mỏ là một sự huyên náo đáng sợ: tiếng đất đá sụt lở, tiếng nước xoáy, tiếng nước đổ xuống, tiếng gãy răng rắc của gỗ chống hầm, tiếng không khí bị nén nổ bùng, tất cả làm chúng tôi sững sờ mê muội.
- Tận thế chứ không còn là cái gì nữa!
- Lạy Trời, hãy thương chúng con!
Suốt từ lúc vào trong dốc ngách hầm, cụ giáo không nói gì nữa, tâm hồn cụ bay bổng cao hơn những lời phàn nàn vô tác dụng.
- Các con ơi, - cụ nói, - không thể để ta mệt thế được, nếu ta cứ dùng tay chân mà bấu vào vách dốc của ngách hầm như thế chẳng mấy chốc ta sẽ rời rã, phải đào lấy những điểm tựa giữa những phiến than đá.
Lời khuyên đó rất đúng nhưng cũng rất khó thực hiện, có ai mang theo cuốc chim đâu, tất cả chúng tôi đều mang đèn nhưng không ai có một dụng cụ nào trong tay.
- Lấy những cái móc ở đèn mà đào. - Cụ giáo nói.
Thế là người nào người ấy bắt đầu đào đất, công việc chẳng dễ dàng gì, vách của ngách hầm vừa dốc vừa trơn. Nhưng ai cũng biết rằng nếu trượt tay trượt chân một cái là chết, vì thế mọi người đều đào khỏe đều khéo tay. Chỉ vài phút chúng tôi đã đào được một cái hốc đặt chân vào được.
Những tiếng động trong mỏ vẫn dữ dội như trước. Chúng tôi sợ hãi nhìn nhau, người nọ tìm trong mắt người kia lời giải thích mà trí óc của bản thân mình không đem lại được.
Cụ giáo, sau một hồi im lặng, nói tiếp:
- Chúng ta đang ở trong không khí của một cái chuông, không khí bị nước dồn ép tụ lại trong hầm này đến bây giờ lại kháng cự lại nước và đẩy lùi nước. Chẳng khác gì người ta vứt một cái cốc úp ngược xuống nước trong một cái xô, nước không bao giờ tràn lên đáy cốc cả. Cái cốc vẫn rỗng nhờ không khí ở trong.
ở đây cũng thế. Nước không thể lên đến chỗ.chúng ta được. Ta không chết đuối nhưng cũng khó mà sống sót. Không khí không thoát đi đâu được vì ngách hầm này đóng kín. Không khí tù hãm thì ta cũng bị tù hãm. Im lặng và sợ hãi bao trùm một lúc.
Cụ giáo lại nói tiếp:
- Theo ý tôi tốt nhất chúng ta nên đào một cái thềm như chiếu nghỉ ở cầu thang ấy, chúng ta có bảy người hai cái thềm là đủ.
Mọi người bắt đầu vào việc, thắp lên bốn cái đèn. Sau ba giờ làm việc không nghỉ, với móc đèn, với dao, chúng tôi đã đào được một cái thềm phẳng có thể ngồi trên đó được.
- Phải tiết kiệm đèn, - cụ giáo nói, - thắp một cái thôi.
Mỏ lúc này im lặng, dưới chân chúng tôi nước đứng yên. Trong mỏ đầy nước, sau khi tràn ngập tất cả mọi đường hầm từ đáy lên tới trần mỏ, nước giam chặt chúng tôi trong dốc ngách hầm này, giam chặt còn hơn trong những bức tường đá. Cái im lặng âm thầm không sao thâm nhập được còn đáng sợ, đáng ngạc nhiên hơn cả cái ồn ào huyên náo lúc nước vỡ ụp vào. Chúng tôi bị chôn sống trong một nấm mộ.
Không khí nặng nề khó thở, chúng tôi ngột ngạt, tai ong ong lên. Không còn ý niệm nào về thời gian. Bây giờ là trưa hay là sáu giờ chiều?
Bỗng nhiên giữa yên lặng có tiếng chú Gaspard cất lên:
- Theo tôi ấy mà, - ông nói, - chưa ai làm gì để cứu chúng ta cả, ta đã nghe thấy gì đâu.
- Phải làm cho họ thấy là ta còn sống, -cụ giáo nói, - hãy đập vào vách hầm thật mạnh vào.
Không phải chờ, một người trong chúng tôi có đôi bốt to bắt đầu đập mạnh vào vách, tiếng động này cũng như ý tưởng gây ra tiếng động đó làm chúng tôi đỡ đờ đẫn. Người ta có nghe thấy tiếng chúng tôi không? Người ta có trả lời chúng tôi không?
Một cuộc tranh luận nổ ra về việc mọi người sẽ dùng cách nào để cứu chúng tôi, kết quả là giả sử có một tập hợp nhân học đến ngoạn mục và trong những điều kiện thật thuận lợi, ít nhất chúng tôi cũng phải ở trong cái ngôi mộ này đến tám ngày. Tám ngày! Khi ý thức được điều này thì chúng tôi không ai bàn luận gì nữa.
- Nghe kìa. - Một người thợ mỏ nói..- Cái gì vậy?
- Có tiếng động trong nước.
- Đó là anh làm rơi một miếng đá đấy.
- Không. Tiếng này đục.
Chúng tôi lắng nghe. Tai tôi vốn rất thính thế mà cũng chẳng nghe thấy gì cả. Những người bạn của tôi, vì đã quen với những tiếng động trong mỏ, phấn khởi hơn tôi.
- Đúng rồi, - cụ giáo nói, - có cái gì đó trong nước thật.
- Tiếng nước chảy xuống thôi.
- Không. Tiếng này không liên tục mà từng hồi đều đặn.
- Từng hồi đều đặn! Ta sống rồi! Các con ơi! Đó là tiếng những chiếc xe ben thả gầu xuống múc nước giếng lên!
- Gầu tát nước!
Thế là cùng một lúc tất cả chúng tôi hòa cùng một giọng lặp lại mấy tiếng này. Và chúng tôi nhỏm người lên.
Không khí không còn ngột ngạt nữa, thành của dốc ngách hầm không còn đè nặng lên chúng tôi nữa, chúng tôi thở dễ dàng hơn, tim chúng tôi đập mạnh trong ***g ngực.
Tuy nhiên, trước khi nhìn thấy ánh mặt trời, nghe tiếng gió thổi trong cành lá, chúng tôi còn phải ở lại đây trong nhiều ngày dài nghiệt ngã và thế là chúng tôi lại lo buồn tuyệt vọng.
Trong lúc này người ta mau chóng tổ chức cứu nạn, các kỹ sư dẫn đầu đoàn thợ mỏ của các mỏ xung quanh chạy tới. Một đám đông, hốt hoảng vì những tiếng nổ tiếng rung cũng đổ tới.
Một trăm hai mươi người gọi tên không thấy.
- Chồng tôi đâu?
- Cha tôi đâu?
- Trả con tôi đây!
Những giọng nói ngắt quãng, những câu hỏi nghẹn ngào vì nức nở. Biết trả lời thế nào?
Và công cuộc cứu nạn bắt đầu. Người ta đào cầu may, nhưng họ cứ đào. Người ta đào vào các đường hầm một cách không mệt mỏi, người ta đặt các xe múc nước. Kỹ sư hy vọng là mọi người ẩn trong khu công trường cũ.
Nếu như thời gian thật là dài đối với những người ở ngoài đang tìm cách giải phóng chúng.tôi, đối với chúng tôi, những tù nhân bất lực, nó còn đằng đẵng hơn nhiều.
Tiếng xe múc nước chẳng làm cho niềm vui bột phát của chúng tôi lúc ban đầu tồn tại được lâu. Người ta cứu chúng tôi, đó là niềm hy vọng, nhưng tát cạn nước liệu có nhanh không? Đó là nỗi lo lắng.
 
M

minhvu_94

tiếp theo chương 10

Đau đớn về tinh thần còn kèm thêm đau đớn về vật chất. Tư thế chúng tôi buộc phải cầm cự trên thềm nghỉ thật vô cùng mỏi mệt, không thể làm được cử động nào cho giãn gân cốt và chúng tôi nhức đầu ghê gớm.
- Ta uống được không nhỉ? - Chú Gaspard hỏi.
- Tha hồ, nước thì thiếu gì, - cụ giáo trả lời, - Rémi sẽ xuống lấy nước, nó nhẹ nhất mà.
- Lấy vào đâu?
- Lấy vào ủng của tôi đây này. - Một thợ mỏ tên là Carrory nói.
Người ta đưa tôi chiếc ủng và tôi chuẩn bị xuống múc nước.
- Chờ một chút, - cụ giáo nói, - để tôi đưa tay cho đã.
Đúng lúc cụ cúi xuống, cụ nhào ra trước và không hiểu cụ lỡ đà hay do lâu không cử động người bị cứng, hoặc vỉa than lở ra dưới sức nặng của cụ, cụ trượt luôn xuống, đầu chúc chìm nghỉm trong nước. Chiếc đèn cụ soi cho tôi cũng biến mất. Ngay lập tức chúng tôi ngập trong bóng tối đen ngòm và một tiếng kêu thất thanh cùng lúc thoát ra từ ngực chúng tôi. Tôi đang trong tư thế xuống nước, tôi ngã ngửa người ra và lao xuống nước chỉ sau cụ giáo độ một giây.
Ngay lập tức tôi cảm thấy một bàn tay co quắp bấu vào vai tôi và tôi bị kéo vào trong nước.
Đạp chân một cái tôi ngoi lên: bàn tay vẫn bấu chặt vào tôi.
- Cụ giữ chặt lấy cháu, cụ giáo ạ, cụ được cứu thoát rồi.
Cứu thoát! Cả hai chúng tôi nào có ai được cứu thoát, vì tôi chẳng biết bơi về phía nào.
- Thắp đèn lên. - Tôi nói.
Ngay lập tức ánh đèn xuất hiện, tôi chỉ cần duỗi cánh tay là chạm vào bờ. Chú Gaspard và Carrory đưa tay họ cho chúng tôi, trong khi Pagès, một thợ mỏ khác, soi đèn cho chúng tôi.
Cụ giáo được kéo lên thềm trong khi tôi đẩy cụ từ phía sau. Cụ lên rồi đến lượt tôi lên. - Lại đây cháu, - cụ nói, - để tôi ôm hôn cháu. Cháu đã cứu tôi.
- Thì cụ đã cứu sống tất cả chúng cháu đấy thôi.
- Thế là, - Carrory nói, - anh ta là người không bao giờ bị ảnh hưởng bởi xúc động, tôi mất chiếc bốt à?
- Để cháu đi tìm.
Nhưng mọi người ngăn tôi lại.
- Thôi, mọi người hãy đưa cháu chiếc bốt khác vậy, ít nhất cháu cũng đem được nước về!
Thoát khỏi chết đuối, cụ giáo và tôi bị ướt sũng từ đầu đến chân làm cho chân tay căng rời rã.
Lạnh cóng làm chúng tôi không thể quên được chuyện đó. Mọi người đưa áo vét cho chúng tôi.
Sau sự cố này chúng tôi lại mê muội cả người và nghĩ đến cái chết. Có lẽ ý nghĩ này đè nặng lên các bạn tôi hơn là tôi vì trong khi họ tỉnh thì cuối cùng tôi ngủ thiếp đi. Nhưng chỗ ngồi không thoải mái chút nào có nguy cơ rơi xuống nước. Lúc đó cụ giáo giữ đầu tôi trong cánh tay cụ. Cụ giữ không quá chặt chỉ đủ để tôi đừng rơi xuống nước mà thôi, tôi như một đứa trẻ nằm trên đầu gối mẹ. Cụ không phải chỉ có cái đầu vững vàng mà còn có một trái tim nhân hậu nữa. Khi tôi hơi thức dậy, cụ đổi tay cho đỡ mỏi rồi lại ngồi thật im và bảo tôi:
- Cháu cứ ngủ đi, đừng sợ.
Và tôi lại ngủ tiếp.
Thời gian cứ trôi.
Tư thế của chúng tôi không còn chịu đựng nổi nữa. Liệu đã đến lúc chúng tôi được cứu ra chưa? Chúng tôi nghi ngờ vô cùng.
Tuy nhiên việc tát nước được tiến hành không ngừng dưới sự lãnh đạo của một ông kỹ sư luôn động viên thợ mỏ với một niềm tin, một hy vọng sắt đá.
- Các bạn ơi, còn một ngày nữa, - ông nói với những người thợ mỏ, - tôi đòi hỏi ở các bạn những gì mà những người bạn của các bạn đòi hỏi, các bạn ở địa vị họ mà xem.
Niềm tin khiến ông hăng hái đã truyền sang trái tim những người thợ mỏ. Người ta cứ đào sâu xuống mãi. Đến ngày thứ bảy, trong khi thay đổi vị trí, một người thợ cuốc vào tới vỉa than tưởng như nghe thấy những tiếng đập yếu ớt.
Anh ta dán tai vào lớp than rồi gọi một người.bạn đến cùng nghe với mình. Cả hai im lặng và một lát sau một tiếng yếu ớt đều đặn lặp đi lặp lại vẳng tới tai họ. Đến lượt họ, họ lấy cuốc chim gõ gõ.
Lập tức tin này được truyền đi rất nhanh.
Ông kỹ sư đã đúng! Dưới đó vẫn còn có người sống. Tin tức lan khắp thành phố như một vệt thuốc súng, đám đông chạy tới mỏ Truyère.
Công việc càng khẩn trương hơn, các công ty bạn gửi đến những thợ cuốc tinh nhuệ nhất.
Hy vọng cũng tăng lên khi nước rút dần.
Trong ngách hầm, lúc nghe thấy tiếng gõ trả lời của các bạn, chúng tôi bị tác động chẳng kém gì lúc nghe thấy tiếng xe múc nước thả gàu xuống các giếng.
- Thoát rồi!
Ai nấy thốt ra một tiếng kêu vui mừng. Rồi, cũng giống như sau khi nghe thấy tiếng gầu múc nước, hy vọng lại biến thành tuyệt vọng. Tiếng cuốc chim cho biết những người cứu nạn còn ở xa lắm. Chỉ có cụ giáo là còn nói năng một cách can trường nhưng dần dần sự ủ rũ của chúng tôi cũng lan sang cụ. Nếu như chúng tôi có thể uống thì chúng tôi không thể có cái ăn, cái đói trở nên không còn có thể chịu nổi nữa.
Chúng tôi ngồi im không động đậy, chỉ còn duy trì cuộc sống bằng tiếng cuốc chim và tiếng gàu múc nước. Dần dần những tiếng động này ngày càng to lên, nước rút xuống, người ta đến gần chúng tôi hơn. Nhưng họ có đến kịp không?
Chúng tôi ngày càng yếu lắm rồi.
Cuối cùng chúng tôi nghe thấy tiếng nói của các bạn tôi, họ nghe thấy tiếng chúng tôi. Rồi chúng tôi nói chuyện được với họ. Họ thốt lên mấy tiếng thống thiết sau đây:
- Các anh có bao nhiêu người?
Chú Gaspard trả lời:
- Sáu!
Im lặng một hồi. Có lẽ ở ngoài hy vọng một con số lớn hơn.
- Mau lên các bạn, - chú Gaspard kêu lên, -chúng tôi kiệt sức rồi.
- Tên các bạn là gì?
- Bergounhoux, Pagès, Carrory, cụ giáo, Rémi, Gaspard.
Đó là lúc điếng người nhất cho những người đứng ngoài. Khi ông kỹ sư tuyên bố chúng tôi chỉ có sáu, mọi người thất vọng đến đau đớn..Hỡi ôi! Trong số một trăm hai mươi người mẹ và người vợ chỉ có bốn người niềm hy vọng trở thành sự thực. Biết bao đau đớn! Biết bao nước mắt!
Về phía chúng tôi, chúng tôi nghĩ đến những người có thể được cứu thoát.
- Có bao nhiêu người được cứu thoát?
Không ai trả lời.
- Chắc họ không nghe tiếng.
- Họ không muốn trả lời thì đúng hơn.
- Hãy hỏi họ xem chúng ta đã ở trong mỏ bao nhiêu lâu?
- Mười bốn ngày. Giờ thì không còn lâu nữa đâu. Các bạn hãy can đảm lên. Chỉ còn vài giờ nữa thôi.
Tôi tưởng như mấy giờ này là những giờ dài nhất trong cảnh tù hãm của chúng tôi, dù thế nào đi nữa cũng là những giờ đau khổ nhất. Mỗi nhát cuốc chúng tôi lại tưởng là nhát cuốc cuối cùng. Nhưng sau nhát đó lại tiếp đến nhát khác, sau nhát khác này lại đến nhát khác nữa.
Các xe múc nước cũng không ngừng hoạt động phút nào, nước cứ từ từ rút xuống.
Có điều lạ là giờ phút giải phóng càng tới gần chúng tôi càng yếu lả đi.
Cuối cùng dốc ngách hầm được mở ra từ phía trên: ánh đèn rọi vào làm chúng tôi lóa mắt.
Nhưng chỉ trong phút chốc chúng tôi lại rơi vào bóng tối đen ngòm: một luồng không khí khủng khiếp làm tắt phụt đèn!
Lại phải chờ thêm!
Cùng một lúc có tiếng động mạnh trong nước ở dưới hầm, và quay lại tôi thấy một ánh sáng chói di động trên nước lõm bõm.
- Can đảm lên! Can đảm lên! - Người ta kêu lên.
Mọi người đồng thời đến cứu chúng tôi từ hai phía. Chưa kịp nói lời nào tôi đã rơi vào tay ông kỹ sư. Vừa vặn tôi ngất đi.
Tôi ý thức được là người ta mang tôi đi, rồi người ta bọc tôi vào trong nhiều tấm chăn. Tôi nhắm mắt lại nhưng ngay sau đó tôi cảm thấy một cái gì chói lọi đến nỗi phải mở mắt ra.
Chúng tôi ra đến giữa trời.
Cùng một lúc một cái bóng trắng nhảy vào tôi: đó là Capi nhảy phắt vào hai tay ông kỹ sư.để liếm vào mặt tôi. Tôi cũng cảm thấy có ai nắm lấy bàn tay phải tôi và hôn tôi. Đó là Mattia.
Tôi nhìn xung quanh: một đám đông vô kể, im lặng và xúc động.
Người ta mang tôi đến tận văn phòng mỏ, ở đó đã có sẵn những cái giường chờ đợi chúng tôi.
Hai ngày sau tôi đi bộ trong phố xá Varses, tất cả mọi người trên đường đều dừng lại nhìn tôi.
Có những người đến bắt tay tôi, nước mắt lưng tròng. Cũng có những người, ngược lại, lại quay đi. Đó là những người đang tang tóc, họ xót xa tự hỏi tại sao thằng bé mồ côi này lại sống sót trong khi người chủ gia đình nọ, cậu con trai kia lại ở lại dưới mỏ, lại là những cái xác khốn khổ bị nước cuốn đi .
 
K

keobong_291097

mjnh` cũng thix tiểu thuyết nay` lem' nhưng hok bjk mua ở đâu nên phải zao` đây đọc nên mjnh` mong các bn tiếp tục post thêm cho mjnh`đọc với nhé
 
S

starfish_blue_sea

@keobong_291097: bạn có thể mua ở các nhà sách trên toàn quôc', đâu cũng có bán mà:)

em thích tiểu thuyết này..."Không gia đình" thật là 1 tác phẩm hay, tuy đọc đã lâu nhưng đến giờ vẫn còn thích..
:):)
 
Top Bottom