@mrs.English: Đúng rồi đấy là tiếng Huế gốc (tiếng Huế sơ khai đó), nó khác với tiếng Huế bây giừo đã bị di dịch quá nhièu do va chạm với tiếng phổ thông. Vì vậy nên bản dịch của bạn thiensubinhminh hình như có nhièu chỗ chưa chuẩn.
Có mấy từ ở bài tên anh có thể tạm "dịch" như sau (không biết có sai gì không các bạn Huế góp ý giùm nhỉ;
)
đột: Cái chum, cái lu, cái vại (thực ra nó la một thứ vật dụng đựng nước ở đây mà không hẳn là ba thứ trên những hẵng tạm gọi vạy)
Nác: Là nước. "Đột nác" là cái chum nước chứ không phải "dột nát" đâu bạn nhá
Cươi là cái sân
Bưa là vừa (ở đây không có nghĩa mệt)
Côi là trên,
núc là cái bếp (bếp núc) côi núc là trên bếp.
lả là lửa (theo kiểu biến âm cổ a = ươ)
Trả là một vật dụng tương tự như cái nồi vậy (hay cái niêu)
keng là canh.
"Trả keng" là cái nồi (niêu, soong) canh
bù là bầu, trái bầu. Đây la một dạng biến am thường thấy (mặc dầu= mặc dù)
mói là muối.
rào là con sông, con ngòi nhỏ, bạn thiensubinhminh dịch là cái ao cũng có thể coi là đúng.
Xắc là giặt,
nạng là cái quần.
Xắc nạng là giặt quần.
Ngỏi là ngủ.
Vì vậy bài thơ có thẻ dịch thành: (có một số chỗ tớ thêm vào cho rõ nghĩa)
Lu nưóc ngoài sân hứng cho đủ
Nồi cơm trên bếp lửa đun vừa
Trách cá, nồi canh bầu (cần) nêm muối
Ao sau giặt giũ (chính xác là giặt quần) để ngủ trưa.