- 14 Tháng chín 2018
- 805
- 1,015
- 181
- 25
- Thừa Thiên Huế
- Đh sư phạm huế
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Sinh năm 1943
- Quê: Thừa Thiên Huế
- Là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ trưởng thành những năm chống chọi. Sinh ra giữa bão táp chiến tranh, lớn lên giữa vùng đất bị quân thì chiếm đóng
- Phong cách nghệ thuật: giàu chất suy tư, chính luận, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
- TP chính: Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1974)
2. Tác phẩm
a) Hoàn cảnh ra đời
- Sáng tác 1971, tại chiến khu Trị - Thiên (những năm cuối của cuộc k/c chống Mĩ cứu nước)
- In lần đầu năm 1974
b) Kết cấu, bố cục: gồm 9 chương
c) Thể loại : trường ca: Là thể loại tác phẩm có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố tự sự và trữ tình.
d) Đoạn trích
- Xuất xứ: phần đầu chương V của trường ca.
- Chương V có vị trí đặc biệt, hội tụ chủ đề tư tưởng tác phẩm: sự thức tỉnh của thế hệ trẻ các thành thị miền Nam, (rộng hơn: sự tự nhận thức của tuổi trẻ VN) về sứ mệnh và trách nhiệm với dân tộc.
e) Bố cục
- Phần 1 : Cảm nhận mới mẻ về đất nước: Đất nước có trong đời sống mọi mặt của nhân dân
- Phần 2 : Tư tưởng “Đất nước của nhân dân”: Nhân dân làm nên Đất nước
II- Đọc hiểu văn bản
PHẦN 1: (Bốn mươi hai dòng thơ đầu)
1. Chín dòng thơ đầu: lí giải cội nguồn của đất nước (Đất nước có từ bao giờ?)
- Không bắt đầu từ một cách trang trọng (mà lại hết sức bình dị, gần gũi).
+ Khởi đầu: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” -> nhận thức: khởi thủy Đất nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt (Từ truyện cổ tích đến ca dao, tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc)
+ Sự trưởng thành: “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” -> nhận thức về tính cách anh hùng- từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tựơng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tựợng cho những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Đất nước có trong truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chỉ lớn lên, trưởng thành trong chiến đấu. -> Cảm nhận, lí giải cội nguồn đất nước bằng những hình ảnh bình dị, đời thường, khẳng định: đất nước không xa xôi, trừu tượng mà gần gũi, thân quen ngay trong cuộc sống của mỗi con người
- Giọng thơ: chân thành, tự nhiên như một lời ban chấp hành các lớp. Từ câu chuyện cổ tích của mẹ kể, miếng trầu của bà, hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở, tất cả đều là hiện thân, là khởi nguồn của đất nước.
- Để nói về lịch sử trường tồn của đất nước, nhà thơ đã không bắt đầu bằng việc đưa ra các sử liệu mà những gì rất gần gũi, quen thuộc trong đời sống của nhân dân ta, được gợi ra từ những chất liệu của văn hoá dân gian, ca dao, tục ngữ.
+ Những câu thơ mở đầu gợi nhớ đến những truyền thuyết và cổ tích, vào loại xa xưa nhất của dân tộc (truyện Trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng) nền văn minh lúa nước đã hình thành từ thời Âu Lạc xa xưa và những tập quán phong tục lâu đời (tóc mẹ thì bới sau đầu). Đó chính là sự cảm nhận về chiều sâu lịch sử của đất nước.
+ Ở đây có những phát hiện rất bất ngờ. Nó cũng là bình diện về bề dày văn hoá. Một đất nước mà chỉ dừng lại ở lãnh thổ, lịch sử không thôi thì chưa đủ. Một đất nước muốn chứng tỏ sức sống của mình cần phải được đảm bảo bằng văn hoá. Cho nên nói về đất nước, không thể thiếu được bề dày văn hoá của mình.
+ Nguyễn Khoa Điềm điểm lại di sản văn hoá ông cha ta để lại không phải là những công trình, những tác phẩm văn hoá, những đền đài miếu mạo, pho tượng ... mà những giá trị, những vật phẩm văn hoá được nói đến rất rộng rãi. Rất có thể một kiểu để tóc của người Việt Nam cũng là một giá trị văn hoá, hoặc tên gọi cái kèo, cái cột cũng là một giá trị văn hoá, gắn liền với văn hoá Việt Nam hoặc cách yêu nhau được biểu hiện bằng gừng cay muối mặn cũng thuộc về phạm trù văn hoá, hay cách làm ra hạt gạo, hạt lúa, "một nắng hai sương xay giã dần sàng" cũng là một phương diện. Hoặc đơn giản là những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, huyền thoại còn được lưu truyền trong kí ức cũng chính là tài sản về văn hoá.
* Trong khi nói về văn hoá của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có những phát hiện rất bất ngờ. Tác giả đã thức dậy trong chúng ta một điều giản dị: đừng coi thường những vật phẩm quen thuộc, bởi trong mỗi vật phẩm quen thuộc có thể chứa đựng những điều hết sức hệ trọng thiêng liêng. Ví như hình ảnh miếng trầu- một sự vật bình thường, nhỏ nhoi, dễ bị quên lãng dưới con mắt của người hiện đại, nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại phát hiện trong đó có một phần đất nước. Miếng trầu thuỷ chung với người Việt, chia sẻ mọi vui buồn, mọi thăng trầm với con người Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Trong miếng trầu của bà ăn hôm nay có 4000 năm tuổi. Có thể nói đây là phát hiện đột xuất, rất bất ngờ và cũng rất sắc sảo của Nguyễn Khoa Điềm. Nó cho ta thấy đất nước này sở dĩ còn được đến bây giờ là bởi sự sống bền bỉ của nó gắn liền với những sự vật tưởng như là rất bình thường nhỏ nhoi.
+ Câu thơ còn có một nghịch lí bởi chữ "bắt đầu". Tại sao miếng trầu hôm nay lại là khởi nguồn của đất nước 4000 năm trước? Ý niệm về thời gian đã bị xáo trộn làm cho người đọc chúng ta có thể thấy rằng: cái của 4000 năm trước nó vẫn đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và sự hiện diện của nó hôm nay luôn luôn nhắc ta nhớ về 4000 năm trước. Phát hiện như thế không chỉ có chiều sâu về mặt nghệ thuật mà còn có chiều sâu về mặt tư tưởng, gắn với tư tưởng chung bao trùm lên toàn bộ bài thơ. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến cùng một lúc ba tài sản về văn hoá tinh thần:
[TBODY]
[/TBODY]- Tiếp đó là sự cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất của các phương diện địa lí và lịch sử, không gian và thời gian.
Ý nghĩa về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là Đất, Nước và những liên tưởng gợi ra từ đó.
Trong bài thơ, tác giả nói đến đất nước khi thì như là một chữ khi thì như hai chữ. Khi thì nó liền lại thành Đất nước, khi thì nó tách ra thành Đất và Nước. Đất và Nước như là hai tế bào gốc, hai nguyên tố chính của đất nước này. Cho nên ban đầu nói về thời kì sơ khai, Đất và Nước tách nhau như hai nguyên tố riêng rẽ nhưng khi nó trở thành Đất nước thì Đất và Nước liền lại với nhau. Đất nước trong sự toàn vẹn của tổ tiên, Đất nước trong tình yêu của cá nhân.
Sự sinh thành của Đất và Nước là gắn liền với tình yêu. Tiếng nói tư duy trữ tình rất thống nhất với tư tưởng triết học: Đất như là một nguyên tố thuộc dương; Nước như là một nguyên tố thuộc âm. Cả hai nguyên tố đó hoà hợp với nhau tạo thành sự sống. Khi anh và em hò hẹn thì Đất và Nước không tách rời nữa mà nó liền lại. Nó liền lại bởi tình yêu và đó chính là cơ sở, cội nguồn sinh sôi nên đất nước Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Đất nước được bảo tồn bởi tình yêu của con người.
- Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ mà không hề có một từ Hán Việt. Ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có miếng trầu, cây tre, tóc mẹ,… Có "gừng cay muối mặn", cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v… Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì phong phú, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã "nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp" để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: "tổng – phân – hợp"; mở đầu là câu "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi", khép lại đoạn thơ là câu "Đất Nước có từ ngày đó". Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.
2. Hai mươi dòng thơ tiếp theo: Định nghĩa Đất Nước (trả lời cho câu hỏi: Đất Nước là gì?)
- Cấu trúc: Đất là.... Định nghĩa Đất Nước bằng cách tách - ghép hai từ
Nước là...
Đất Nước là... Đất Nước -> lối tư duy “chiết tự”, gợi chiều sâu suy tưởng. Đất Nước là sự hài hòa giữa nhiều yếu tố, trong đó có sự thống nhất của yếu tố không gian địa lí và thời gian lịch sử
- Không gian địa lí:
+ là nơi sinh sống của mỗi con người (nơi anh đến trường, nơi em tắm,..)
+ là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở (nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn...) -> không gian hẹp
+ là núi, sông, rừng bể (hòn núi bạc, nước biển khơi,...)
+ là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (những ai đã khuất,..dặn dò con cháu...)
-> không gian rộng lớn, mênh mông.
- Thời gian lịch sử:
Thời gian ở đây được đo bằng những hình tượng huyền thoại lấy từ truyền thuyết: Lạc Long Quân, Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương, ngày giỗ Tổ. Không gian thấm đẫm tính nguồn cội, hướng người đọc về với cội nguồn dân tộc, nhắc nhở các thế hệ nhớ về lịch sử dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian để tạo nên được những hình tượng nghệ thuật vừa gần gũi, vừa mới mẻ về đất nước trên cả bề rộng vè không gian địa lí và cả chiều dài thời gian lịch sử.
3. Mười ba dòng thơ tiếp: Đất Nước hóa thân trong mỗi con người
Trong anh và em hôm nay
...làm nên Đất Nước muôn đời
- Đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, xa xôi mà là sự hóa thân, kết tinh trong mỗi con người. Bởi lẽ mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng một phần di sản vật chất và tinh thần của dân tộc.
- Mạch thơ dẫn đến suy ngẫm về trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đó cũng là thông điệp mà tác giả muốn gửi đến mỗi chúng ta. Mặc dù viết với mục đích tuyên truyền, cổ động nhưng lời thơ của tác giả lại rất đỗi trữ tình, chỉ như một lời tự dặn mình chân thành, tha thiết.
Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…”
- Nhà thơ đã khéo léo tạo ra nhân vật “em” là đối tượng để gửi thông điệp. Qua hình thức đối thoại trò chuyện, tâm tình, lời thơ như lời của đôi lứa yêu nhau nên ý thơ dễ đi vào lòng người và có sức lan truyền mạnh mẽ.
* Nét đặc sắc, mới mẻ trong cách cảm nhận về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:
Cảm nhận Đất Nước trên nhiều phương diện:
- từ chiều sâu của đời sống văn hoá, phong tục, truyền thống
- từ chiều rộng của không gian địa lí
- từ chiều dài của thời gian lịch sử.
-> Đất nước hiện ra vừa thiêng liêng, sâu xa, lớn lao, vừa gần gũi, thân thiết với mọi người.
=> am hiểu -> tự hào -> biểu hiện của lòng yêu nước
1. Tác giả
- Sinh năm 1943
- Quê: Thừa Thiên Huế
- Là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ trưởng thành những năm chống chọi. Sinh ra giữa bão táp chiến tranh, lớn lên giữa vùng đất bị quân thì chiếm đóng
- Phong cách nghệ thuật: giàu chất suy tư, chính luận, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
- TP chính: Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1974)
2. Tác phẩm
a) Hoàn cảnh ra đời
- Sáng tác 1971, tại chiến khu Trị - Thiên (những năm cuối của cuộc k/c chống Mĩ cứu nước)
- In lần đầu năm 1974
b) Kết cấu, bố cục: gồm 9 chương
c) Thể loại : trường ca: Là thể loại tác phẩm có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố tự sự và trữ tình.
d) Đoạn trích
- Xuất xứ: phần đầu chương V của trường ca.
- Chương V có vị trí đặc biệt, hội tụ chủ đề tư tưởng tác phẩm: sự thức tỉnh của thế hệ trẻ các thành thị miền Nam, (rộng hơn: sự tự nhận thức của tuổi trẻ VN) về sứ mệnh và trách nhiệm với dân tộc.
e) Bố cục
- Phần 1 : Cảm nhận mới mẻ về đất nước: Đất nước có trong đời sống mọi mặt của nhân dân
- Phần 2 : Tư tưởng “Đất nước của nhân dân”: Nhân dân làm nên Đất nước
II- Đọc hiểu văn bản
PHẦN 1: (Bốn mươi hai dòng thơ đầu)
1. Chín dòng thơ đầu: lí giải cội nguồn của đất nước (Đất nước có từ bao giờ?)
- Không bắt đầu từ một cách trang trọng (mà lại hết sức bình dị, gần gũi).
"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có từ trong cái ngày xửa ngày mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc "
Đất nước là những gì có thể bắt gặp ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi con người.
“Đất nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa...”
-> Đất nước có từ rất lâu, rất xa trong lịch sử.
Đất nước có từ trong cái ngày xửa ngày mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc "
Đất nước là những gì có thể bắt gặp ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi con người.
“Đất nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa...”
-> Đất nước có từ rất lâu, rất xa trong lịch sử.
+ Sự trưởng thành: “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” -> nhận thức về tính cách anh hùng- từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tựơng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tựợng cho những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Đất nước có trong truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chỉ lớn lên, trưởng thành trong chiến đấu. -> Cảm nhận, lí giải cội nguồn đất nước bằng những hình ảnh bình dị, đời thường, khẳng định: đất nước không xa xôi, trừu tượng mà gần gũi, thân quen ngay trong cuộc sống của mỗi con người
- Giọng thơ: chân thành, tự nhiên như một lời ban chấp hành các lớp. Từ câu chuyện cổ tích của mẹ kể, miếng trầu của bà, hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở, tất cả đều là hiện thân, là khởi nguồn của đất nước.
- Để nói về lịch sử trường tồn của đất nước, nhà thơ đã không bắt đầu bằng việc đưa ra các sử liệu mà những gì rất gần gũi, quen thuộc trong đời sống của nhân dân ta, được gợi ra từ những chất liệu của văn hoá dân gian, ca dao, tục ngữ.
+ Những câu thơ mở đầu gợi nhớ đến những truyền thuyết và cổ tích, vào loại xa xưa nhất của dân tộc (truyện Trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng) nền văn minh lúa nước đã hình thành từ thời Âu Lạc xa xưa và những tập quán phong tục lâu đời (tóc mẹ thì bới sau đầu). Đó chính là sự cảm nhận về chiều sâu lịch sử của đất nước.
+ Ở đây có những phát hiện rất bất ngờ. Nó cũng là bình diện về bề dày văn hoá. Một đất nước mà chỉ dừng lại ở lãnh thổ, lịch sử không thôi thì chưa đủ. Một đất nước muốn chứng tỏ sức sống của mình cần phải được đảm bảo bằng văn hoá. Cho nên nói về đất nước, không thể thiếu được bề dày văn hoá của mình.
+ Nguyễn Khoa Điềm điểm lại di sản văn hoá ông cha ta để lại không phải là những công trình, những tác phẩm văn hoá, những đền đài miếu mạo, pho tượng ... mà những giá trị, những vật phẩm văn hoá được nói đến rất rộng rãi. Rất có thể một kiểu để tóc của người Việt Nam cũng là một giá trị văn hoá, hoặc tên gọi cái kèo, cái cột cũng là một giá trị văn hoá, gắn liền với văn hoá Việt Nam hoặc cách yêu nhau được biểu hiện bằng gừng cay muối mặn cũng thuộc về phạm trù văn hoá, hay cách làm ra hạt gạo, hạt lúa, "một nắng hai sương xay giã dần sàng" cũng là một phương diện. Hoặc đơn giản là những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, huyền thoại còn được lưu truyền trong kí ức cũng chính là tài sản về văn hoá.
* Trong khi nói về văn hoá của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có những phát hiện rất bất ngờ. Tác giả đã thức dậy trong chúng ta một điều giản dị: đừng coi thường những vật phẩm quen thuộc, bởi trong mỗi vật phẩm quen thuộc có thể chứa đựng những điều hết sức hệ trọng thiêng liêng. Ví như hình ảnh miếng trầu- một sự vật bình thường, nhỏ nhoi, dễ bị quên lãng dưới con mắt của người hiện đại, nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại phát hiện trong đó có một phần đất nước. Miếng trầu thuỷ chung với người Việt, chia sẻ mọi vui buồn, mọi thăng trầm với con người Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Trong miếng trầu của bà ăn hôm nay có 4000 năm tuổi. Có thể nói đây là phát hiện đột xuất, rất bất ngờ và cũng rất sắc sảo của Nguyễn Khoa Điềm. Nó cho ta thấy đất nước này sở dĩ còn được đến bây giờ là bởi sự sống bền bỉ của nó gắn liền với những sự vật tưởng như là rất bình thường nhỏ nhoi.
+ Câu thơ còn có một nghịch lí bởi chữ "bắt đầu". Tại sao miếng trầu hôm nay lại là khởi nguồn của đất nước 4000 năm trước? Ý niệm về thời gian đã bị xáo trộn làm cho người đọc chúng ta có thể thấy rằng: cái của 4000 năm trước nó vẫn đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và sự hiện diện của nó hôm nay luôn luôn nhắc ta nhớ về 4000 năm trước. Phát hiện như thế không chỉ có chiều sâu về mặt nghệ thuật mà còn có chiều sâu về mặt tư tưởng, gắn với tư tưởng chung bao trùm lên toàn bộ bài thơ. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến cùng một lúc ba tài sản về văn hoá tinh thần:
+ Những câu ca dao, thành ngữ quen thuộc + Truyện cổ tích Trầu cau + Tập tục cổ truyền của người Việt | => | Miếng trầu là một vật phẩm rất điển hình cho văn hoá dân gian làm nên bộ mặt của văn hoá Việt Nam |
Ý nghĩa về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là Đất, Nước và những liên tưởng gợi ra từ đó.
Trong bài thơ, tác giả nói đến đất nước khi thì như là một chữ khi thì như hai chữ. Khi thì nó liền lại thành Đất nước, khi thì nó tách ra thành Đất và Nước. Đất và Nước như là hai tế bào gốc, hai nguyên tố chính của đất nước này. Cho nên ban đầu nói về thời kì sơ khai, Đất và Nước tách nhau như hai nguyên tố riêng rẽ nhưng khi nó trở thành Đất nước thì Đất và Nước liền lại với nhau. Đất nước trong sự toàn vẹn của tổ tiên, Đất nước trong tình yêu của cá nhân.
Sự sinh thành của Đất và Nước là gắn liền với tình yêu. Tiếng nói tư duy trữ tình rất thống nhất với tư tưởng triết học: Đất như là một nguyên tố thuộc dương; Nước như là một nguyên tố thuộc âm. Cả hai nguyên tố đó hoà hợp với nhau tạo thành sự sống. Khi anh và em hò hẹn thì Đất và Nước không tách rời nữa mà nó liền lại. Nó liền lại bởi tình yêu và đó chính là cơ sở, cội nguồn sinh sôi nên đất nước Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Đất nước được bảo tồn bởi tình yêu của con người.
- Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ mà không hề có một từ Hán Việt. Ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có miếng trầu, cây tre, tóc mẹ,… Có "gừng cay muối mặn", cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v… Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì phong phú, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã "nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp" để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: "tổng – phân – hợp"; mở đầu là câu "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi", khép lại đoạn thơ là câu "Đất Nước có từ ngày đó". Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.
2. Hai mươi dòng thơ tiếp theo: Định nghĩa Đất Nước (trả lời cho câu hỏi: Đất Nước là gì?)
- Cấu trúc: Đất là.... Định nghĩa Đất Nước bằng cách tách - ghép hai từ
Nước là...
Đất Nước là... Đất Nước -> lối tư duy “chiết tự”, gợi chiều sâu suy tưởng. Đất Nước là sự hài hòa giữa nhiều yếu tố, trong đó có sự thống nhất của yếu tố không gian địa lí và thời gian lịch sử
- Không gian địa lí:
+ là nơi sinh sống của mỗi con người (nơi anh đến trường, nơi em tắm,..)
+ là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở (nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn...) -> không gian hẹp
+ là núi, sông, rừng bể (hòn núi bạc, nước biển khơi,...)
+ là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (những ai đã khuất,..dặn dò con cháu...)
-> không gian rộng lớn, mênh mông.
- Thời gian lịch sử:
Thời gian ở đây được đo bằng những hình tượng huyền thoại lấy từ truyền thuyết: Lạc Long Quân, Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương, ngày giỗ Tổ. Không gian thấm đẫm tính nguồn cội, hướng người đọc về với cội nguồn dân tộc, nhắc nhở các thế hệ nhớ về lịch sử dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian để tạo nên được những hình tượng nghệ thuật vừa gần gũi, vừa mới mẻ về đất nước trên cả bề rộng vè không gian địa lí và cả chiều dài thời gian lịch sử.
3. Mười ba dòng thơ tiếp: Đất Nước hóa thân trong mỗi con người
Trong anh và em hôm nay
...làm nên Đất Nước muôn đời
- Đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng, xa xôi mà là sự hóa thân, kết tinh trong mỗi con người. Bởi lẽ mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng một phần di sản vật chất và tinh thần của dân tộc.
- Mạch thơ dẫn đến suy ngẫm về trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đó cũng là thông điệp mà tác giả muốn gửi đến mỗi chúng ta. Mặc dù viết với mục đích tuyên truyền, cổ động nhưng lời thơ của tác giả lại rất đỗi trữ tình, chỉ như một lời tự dặn mình chân thành, tha thiết.
Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…”
- Nhà thơ đã khéo léo tạo ra nhân vật “em” là đối tượng để gửi thông điệp. Qua hình thức đối thoại trò chuyện, tâm tình, lời thơ như lời của đôi lứa yêu nhau nên ý thơ dễ đi vào lòng người và có sức lan truyền mạnh mẽ.
* Nét đặc sắc, mới mẻ trong cách cảm nhận về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:
Cảm nhận Đất Nước trên nhiều phương diện:
- từ chiều sâu của đời sống văn hoá, phong tục, truyền thống
- từ chiều rộng của không gian địa lí
- từ chiều dài của thời gian lịch sử.
-> Đất nước hiện ra vừa thiêng liêng, sâu xa, lớn lao, vừa gần gũi, thân thiết với mọi người.
=> am hiểu -> tự hào -> biểu hiện của lòng yêu nước
Last edited: