Sử 7 [Sử 7] Chế độ phong kiến nhà Nguyễn

O

one_day

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1) Ở cuối thế kỷ XVIII, nước ta có điều kiện thuận lợi gì để phát triển kinh tế? Vì sao kinh tế nước ta phát triển không được?
2) Tóm tắt chính sách của nhà Nguyễn về chính trị, XH, kinh tế?
3) Tóm tắt khởi nghĩa Phan Bá Vành, Nông Vân Vân, Cao Bá Quát?
 
S

sieutrom1412

1)
2. Kinh tế – xã hội dưới thời Nguyễn .

*Nông nghiệp:

-Khai hoang , di dân , lập ấp nên diện tích canh tác tăng.

-Chế độ quân điền không còn tác dụng .

-Không chú trọng sửa đắp đê.

-Tài chính thiếu hụt , nạn tham nhũng .

-Diện tích canh tác tăng nhưng không mang lại kết quả thiết thực do hậu quả chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ .

* Thủ công nghiệp :

-Có điều kiện phát triển,nhà Nguyễn lập xưởng đúc tiền , đúc súng , đóng tàu ; thợ giỏi sản xuất trong các xưởng của nhà nước ,khai mỏ mở rộng .

-Nghề thủ công ở thành thị và nông thôn phát triển, nhưng còn phân tán ; thợ thủ công phải đóng thuế sản phẩm rất nặng.

* Thương nghiệp:

-Buôn bán thuận lợi ; thành thị như Hà Nội, Phú Xuân, Gia Định, Hội An, Mỹ Tho, Sa Đéc …….

-Thuyền buôn nước ngoài mua bán hàng hóa nhưng bị hạn chế , từ chối buôn bán với phương Tây


2)
-Năm 1802 Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn , chọn Phú Xuân làm kinh đô, niên hiệu là Gia Long , lập ra nhà Nguyễn .

-1806 Ông lên ngôi Hòang Đế ,củng cố chế độ quân chủ tập quyền.

-Vua nắm mọi quyền hành , giúp vua có 6 bộ .

-Cả nước chia làm 30 tỉnh và 1 phủ trực thuộc (Thừa Thiên ),đứng đầu có tổng đốc hay tuần phủ .

-Năm 1815 ban hành Luật Gia Long .

-Quân đội gồm nhiều binh chủng, xây dựng thành trì vững chắc ở kinh đô và các trấn . Lập hệ thống trạm ngựa để chuyển tin nhanh.

-Thuần phục nhà Thanh ; “đóng cửa” không quan hệ với phương Tây .

Nhận xét ; về đối nội xiết chặt ách thống trị đối với nhân dân, đối ngọai thì đóng cửa bảo thủ .


3)
PHAN BÁ VÀNH:

(? - 1827), thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa nông dân Bắc Kỳ đầu thế kỉ 19. Quê: làng Minh Giám, huyện Vũ Tiên (nay là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình).

Thuở nhỏ, nhà nghèo, đi ở, lớn lên học võ. Khoảng năm 1821 - 22, Phan Bá Vành tập hợp dân nghèo vùng Nam Định, Thái Bình nổi dậy chống triều đình nhà Nguyễn, lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo. Nghĩa quân đông đến hàng vạn người. Thủ lĩnh người Mường Ba Hùm ở Thanh Hoá cũng đưa quân xuống phối hợp. Bộ chỉ huy có tướng cũ của nhà Lê, nhà Tây Sơn, có cả người Mường, như Nguyễn Hạnh, Chiêu Liễn, Võ Đức Cát, vv.

Cuối 1825, nghĩa quân đánh chiếm đồn Trà Lý, trấn thủ Nam Định, Lê Mậu Cúc bị giết. Thừa thắng, nghĩa quân bao vây thành phủ Kiến Xương rồi mở rộng ra Đồ Sơn (Hải Phòng), Vĩnh Bảo (Hải Phòng).

Cuối 1826, nghĩa quân đánh tan quân triều đình ở Cổ Trai nhưng giữ không được phải chuyển sang Kiến Xương và Xuân Trường (Nam Định) xây dựng căn cứ Trà Lũ.

Đầu năm 1827, quân nhà Nguyễn do các tướng Phạm Văn Lý, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Công Trứ chỉ huy đánh vào Xuân Trường. Căn cứ Trà Lũ bị thất thủ, Phan Bá Vành và nhiều tướng bị giết hại. Hai làng Minh Giám và Trà Lũ bị tàn phá.





NÔNG VĂN VÂN : (? - 1835), thủ lĩnh cuộc nổi dậy của các dân tộc thiểu số Bắc Việt Nam chống triều Nguyễn.

Vốn là tù trưởng người Tày, tri châu Bảo Lạc (tỉnh Tuyên Quang), vì liên kết với các tri châu, chống lại triều đình nên đến giữa năm 1833 bị cách chức và bị bắt phải chuyển đến Tuyên Quang. Nông Văn Vân hạ lệnh bắt phái viên của tỉnh và sai thích vào mặt 4 chữ “Tỉnh quan thiên hối” (quan tỉnh thiên tư hối lộ) rồi đuổi đi.

Ngày 2.7.1833, ông tự xưng là “Tiết chế thượng tướng quân”, lập đại bản doanh ở Vân Trung và Ngọc Mạo thuộc Bảo Lạc, nhiều tù trưởng và đông đảo nhân dân các dân tộc Việt Bắc nhiệt liệt hưởng ứng.

Quân nổi dậy nhanh chóng mở rộng hoạt động ra các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, đánh chiếm các tỉnh thành.

Vua Minh Mạng phải sai tổng đốc An - Tĩnh Tạ Quang Cư làm tổng đốc đại thần cùng Lê Văn Đức, Nguyễn Đình Phổ, Nguyễn Công Trứ thống lĩnh hàng chục vạn quân, hàng trăm voi chiến, ngựa chiến đàn áp.

Cuối 1834 hoạt động của quân nổi dậy bị thu hẹp dần. Ngày 11.3.1835 quân triều đình phóng hoả đốt khu rừng Thẩm Bát, nơi ẩn náu của Nông Văn Vân và quân nổi dậy. Cuộc nổi dậy bị dập tắt.



CAO BÁ QUÁT : (tự: Chu Thần; hiệu: Cúc Đường, Mẫn Hiên; 1809 - 55), nhà thơ Việt Nam, thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân dưới triều Nguyễn.

Quê: xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Đỗ Cử nhân, nổi tiếng hay chữ. Làm quan (hành tẩu Bộ Lễ). Trong kì chấm thi Hương, vì yêu tài, sửa bài cho thí sinh nên bị cách chức, và chuyển sang phục vụ phái bộ đi Inđônêxia và Xingapo.

Năm 1843, trở về nước, lúc bị thải hồi, lúc được phục chức, rồi đổi làm giáo thụ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây.

Năm 1853, bỏ dạy học về vùng Mỹ Lương (Chương Mỹ, Hà Tây) chiêu tập nông dân nổi lên khởi nghĩa. Ông bị bắn chết tại trận tiền Quốc Oai trong cuộc khởi nghĩa chống triều đình thời Tự Đức.. ...(xt. Khởi nghĩa Cao Bá Quát 1854 - 55).

Thơ văn thất lạc nhiều, nay còn khoảng trên một nghìn bài. Có một số bài hát nói, một bài phú "Tài tử đa cùng" bằng chữ Nôm; phần lớn tác phẩm bằng chữ Hán. Cao Bá Quát là người khoáng đạt, không chịu gò vào khuôn phép, có hoài bão lớn, băn khoăn về cuộc sống của nhiều hạng người. Những bài thơ đầy tính hiện thực báo hiệu việc Cao Bá Quát nổi dậy chống triều đình khi Bắc Hà mất mùa, đói kém. Thơ Cao Bá Quát hay, dùng từ độc đáo, hình ảnh mới lạ, phản ánh đúng con người và tư tưởng của Cao Bá Quát. Tác phẩm còn lại: "Chu Thần thi tập". Cao Bá Quát là một trong hai nhà văn triều Tự Đức được nhà vua đánh giá cao nhất về tài văn chương.

Khởi nghĩa CAO BÁ QUÁT :

Giữa năm 1853 (Tự Đức năm thứ 7), ông xin thôi dạy học, lấy cớ về nuôi mẹ già. Năm ấy miền Bắc, vào tháng 6, tháng 7, châu chấu bay mù trời. Lúa má bị chúng cắn sạch. Nạn đói hoành hành, mọi người ca thán.

Cao Bá Quát đứng lên tụ tập nhân dân, bí mật chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa tại Hà Nội. Cao đã bị một số phần tử phản bội đi tố giác. Tự Đức sai Nguyễn Quốc Hoan và Lâm Duy Thiết tìm mọi cách bắt cho được Cao.

Cao liên hệ mật thiết với những thổ mục người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc là Đinh Công Mỹ và Bạch Công Chấn, mở rộng lực lượng tiến đánh những vùng Hà Nội và Sơn Tây. Dựa vào tinh thần của nhân dân oán ghét triều Nguyễn và còn tưởng nhớ tới nhà Lê, Cao suy tôn một người thuộc dòng dõi nhà Lê là Lê Duy Cự là minh chủ, tự mình lãnh chức quốc sư, dẫn quân đến đánh phủ Ứng Hòa và huyện Thanh Oai. Tháng 12 năm ấy, hai cánh quân của Cao bị thua ở làng Đồng Dương (huyện Thanh Oai, Hà Tây) và ở làng Quyền Sơn (huyện Kim Bảng, Nam Hà). Nhiều tướng của Cao đã bị bắt, như Nguyễn Văn Tuân, Nguyễn Đình Huấn, Hoàng Văn Nho, Lê Văn Tường.

Dù thất bại Cao Bá Quát và nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu, lại tiến đánh phủ Quốc Oai, sau rút về vùng Vĩnh Tường, đốt cháy thành Tam Dương. Sau đó, Cao Bá Quát rút lui về Mỹ Lương cùng với Bạch Công Chấn chấn chỉnh đội ngũ, lấy nghĩa binh miền núi bổ sung lực lượng.

Tự Đức phái thêm 500 lính từ Thanh Hóa đến đóng tại Sơn Tây và treo giải thưởng 300 lạng bạc cho người nào giết chết được Cao. Quân nhà Nguyễn do lãnh binh Sơn Tây là Lê Thuận và quân khởi nghĩa do chính Cao Bá Quát chỉ huy đã giao chiến tại vùng Yên Đơn (thuộc phủ Quốc Oai). Trong lúc giao tranh, Cao Bá Quát đã bị tên Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Ông đã hy sinh anh dũng ở tuổi 45 trong niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân. Quân của Cao tan vỡ, 100 người bị chết và 80 người bị bắt sống. Tự Đức hạ lệnh mang đầu của Cao Bá Quát bêu khắp các tỉnh ở Bắc Hà rồi bổ ra ném xuống sông.

Thất bại của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương và cái chết của Cao Bá Quát gây một tiếng vang ở khắp nơi và trong nhiều năm người ta còn xúc động khi nhắc tới Cao Bá Quát. Nhân dân thương tiếc và yêu quý ông, một người có tài năng lỗi lạc có phẩm chất cao quý, yêu nước, thương dân, nhưng bị chế độ phong kiến vùi dập và hủy hoại.
 
Last edited by a moderator:
N

nhokdangyeu01

khởi nghĩa Phan Bá Vành
Bất mãn vì đường lối cai trị của nhà Nguyễn, khoảng năm 1821, Phan Bá Vành tập hợp dân nghèo khổ vùng Nam Định, Thái Bình (tức vùng Sơn Nam Hạ cũ) nổi dậy chống triều đình nhà Nguyễn.

Với chủ trương "lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo", ngay từ giai đoạn đầu, người đi theo đã có hơn 5.000, về sau thêm mấy ngàn quân của thủ lĩnh Ba Hùm (người Mường) từ thượng du Thanh Hóa cùng với quân nổi dậy ở các tỉnh lân cận kéo đến hiệp lực, thì lực lượng của ông đã lên đến hàng vạn[9].

Những năm 1824-1825, nạn đói diễn ra ở Hải Dương, Sơn Nam; khiến dân nghèo theo ông càng đông. Lại được sự giúp đỡ của Nguyễn Hạnh (tướng cũ của nhà Tây Sơn, được Ba Vành phong chức hữu quân)[10], Võ Đức Cát (quan nhà Nguyễn bị cách chức)[11], Ba Hùm (thủ lĩnh người Mường)...và một số nhân vật có tiếng ở địa phương như Trần Bá Hựu, Hai Đáng, Chiêu Liễn,...nên thanh thế Ba Vành ngày càng tăng. Bởi vậy sau này trong Vè Ba Vành ở vùng Thái Bình có câu:

Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì tướng tá, thiếu gì binh lương...
Tháng 2 (âm lịch) năm Minh Mạng thứ 7 (1826), từ đại bản doanh tại thôn Phú Nhai, thuộc làng Trà Lũ, Phan Bá Vành dẫn quân đi đánh chiếm đồn Trà Lý và đồn Lân Hải (Kiến Xương, thuộc Thái Bình), giết được hai viên thủ ngự sứ là Đặng Đình Liễu và Nguyễn Trung Diễn. Tiếp đó, thủ lĩnh Ba Vành cho quân đánh lan ra vùng Kiến Xương, Vũ Tiên, Chân Ninh (thời Thành Thái đổi thành Trực Ninh)...Trấn thủ Sơn Nam Lê Mậu Cúc hay được, mang quân đến đàn áp. Hai bên giao chiến ác liệt tại Cồn Tiên (Tiền Hải). Đến khi trấn thủ Cúc tử trận, thì quân triều quăng vũ khí, bỏ thuyền bè mà chạy cả[12].

Nghe tin cấp báo, vua Minh Mạng sai thống chế Trương Phúc Đặng kéo quân ra Bắc để tiễu trừ. Đến nơi, tướng Phúc Đặng cho quân đánh bất ngờ Giao Thủy. Thua trận, quân sư Vũ Đức Cát chạy ra An Quảng, rồi đến xã Đông Hào thì bị bắt và bị giết ngay.

Tháng 12 (âm lịch) năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh lại tập hợp được hơn 5.000 quân, mang đi tấn công vào hai huyện là Tiên Minh và Nghi Dương thuộc tỉnh Hải Dương. Tiếp theo, hai ông liên kết với nhóm Tàu Ô để mở rộng hoạt động ra các vùng ven biển thuộc vịnh Bắc Bộ.

Liệu chống không nổi, trấn thủ Hải Dương là Nguyễn Đăng Huyên lại phải cầu cứu đến triều đình Huế. Vua Minh Mạng liền thăng cho Trương Văn Minh làm tiền phong đô thống chế chuyên quản lính Bắc thành, để hiệp đồng với tham hiệp Nghệ An là Nguyễn Hữu Thận coi việc quân.

Không yên tâm, nhà vua lại chuẩn cho tham hiệp Thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ, tham biện Nghệ An Nguyễn Đức Nhuận, quản cơ Thanh Hóa Vũ Văn Bảo, quản cơ Nghệ An Trương Văn Tín cùng mang quân thủy bộ và 14 chiến thuyền ra gấp Hải Dương hội tiễu.

Mặc dù vậy, đầu năm Đinh Hợi (1827), quân Ba Vành vẫn kiên trì hoạt động mạnh ở vùng phủ Thiên Trường (Nam Định) và phủ Bo (tức phủ thành Kiến Xương). Nhận được tấu sớ xin thêm quân, vua Minh Mạng bèn sai hậu quân phó tướng Ngô Văn Vĩnh mang hai vệ quân ở Kinh đô Huế, cùng một số lính thuộc vệ quân Thần Sách ở Nghệ An đi gấp ra Bắc.

Tính ra, vua Minh Mạng đã điều động hầu hết lực lượng quân đội ở Bắc thành, Nghệ An, Thanh Hóa và một phần ở Huế để đối phó với quân của Phan Bá Vành[13].

Tháng 2 (âm lịch) năm Đinh Hợi (tháng 3 năm 1827), nhà vua cho Thân Văn Duy coi tào binh Bắc thành, kiêm tham tán việc quân.

Sau khi bị đánh lui ở sông Bổng Điền, quân Ba Vành lại kéo đến vây chặt cánh quân của Phạm Đình Bảo (hay Bửu) ở chợ Quán, buộc các tướng Phạm Văn Lý, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Phong phải mang ba đạo quân đến cứu, đuổi quân nổi dậy chạy về căn cứ ở làng Trà Lũ. Để chống cự lâu dài, Phan Bá Vành cho quân đào đắp thêm hào lũy ở đây.

Tương truyền, có nhiều chỉ huy dưới quyền đã khuyên Phan Bá Vành nên đánh ngay lúc quân triều mới đến, tức lúc họ đang mệt nhọc và chuẩn bị chưa xong. Nhưng vì nghe theo lời người vợ lẽ là Trần Thị Tú (con gái của viên trấn thành Phủ Bo mà ông đã bắt được khi đánh chiếm nơi này), nên ông cứ đóng chặt cửa thành cố thủ. Sau khi quân triều từ các nơi kéo về vây kín Trà Lũ, các tướng nhà Nguyễn liền cho phát pháo tấn công. Quân nổi dậy chống cự quyết liệt, bị chết quá nửa. Biết vợ lẽ thông đồng với đối phương là tướng Phạm Văn Lý, Ba Vành liền sai quân chém chết [14].

Một đêm, Ba Vành cho quân khơi một con ngòi chạy từ sông Cát thông đến sông Ngô Ðồng (sau dân gian gọi con ngòi này là Cống Vành), để mở đường chạy ra biển. Rạng sáng, quân nổi dậy theo con đường thủy ấy ào ạt phá vây, nhưng rồi bị quân triều do Phan Bá Hùng chỉ huy chặn đánh tan tác hết[15]

Trong cơn binh lửa, Phan Bá Vành bị thương rồi bị bắt sống, cùng với 765 thuộc hạ. Trên đường áp giải, Phan Bá Vành cắn lưỡi tử tử, còn số quân lính trên đều bị xử cực hình[16].

Ngay sau đó, theo lệnh của vua Minh Mạng, làng Trà Lũ bị tháo dỡ phá hết nhà cửa, lũy tre, cây cối, không sót một thứ gì[17].

Khởi nghĩa Nông Văn Vân
Khi Nông Văn Vân phất cờ chống nhà Nguyễn thì ở miền Bắc đang có cuộc nổi dậy của Lê Duy Lương và ở miền Nam đang có cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi.

Trong cục diện ấy, Nông Văn Vân chia quân đi đánh phá các tỉnh miền ngược. Các quan sở tại chống không nổi, phải xin quân cứu viện. Tháng 8 (âm lịch) năm 1833, vua Minh Mạng cho Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên là Lê Văn Đức làm Tổng đốc Tam Tuyên quân vụ, Thự tổng đốc Hải An là Nguyễn Công Trứ làm Tham tán, cùng đến mặt trận Tuyên Quang. Lại sai Tổng đốc Ninh Thái là Nguyễn Đình Phổ đem binh tượng tới mặt trận Thái Nguyên. Sau thấy hai thành tỉnh là Cao Bằng và Lạng Sơn bị vây ngặt quá, tháng 10 (âm lịch) nhà vua lại sai An Tĩnh tổng đốc là Tạ Quang Cự làm Tổng thống Đại thần lên đánh ở hai mạn đó.

Tháng Chạp năm Quý Tỵ (1833) đạo quân của Tạ Quang Cự giải vây được tỉnh Lạng Sơn và lấy lại thành Cao Bằng. Đạo quân của Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung ở Bảo Lạc là đại bản doanh của quân nổi dậy, khiến Nông Văn Vân phải chạy trốn sang Trung Quốc. Nhưng khi quân triều vừa rút đi, thì Nông Văn Vân lại về rủ đồ đảng đánh phá như cũ. Nhà vua lại sai các đạo quân tiến lên phòng giữ các tỉnh mạn ngược. Đến tháng 9 (âm lịch) năm Giáp Ngọ (1834), Lê Văn Đức và Phạm Văn Điển đi từ Sơn Tây lên Tuyên Quang; Tạ Quang Cự, Nguyễn Tiến Lâm và Hồ Hữu đi từ Cao Bằng; Nguyễn Đình Phổ và Nguyễn Công Trứ đi từ Thái Nguyên; ba mặt quân cùng tiến lên hội tiễu.

Tháng Chạp năm ấy, cả ba đạo cùng đến hội ở Vân Trung, rồi sai người đưa thư sang nhờ quan nhà Thanh (Trung Quốc) ngăn không cho quân nổi dậy chạy sang bên ấy. Nên khi Nông Văn Vân chạy sang Trung Quốc thì bị quân nhà Thanh đuổi bắt, phải trở về Tuyên Quang.

Tháng 3 (âm lịch) năm Ất Mùi (1835), biết chỗ Nông Văn Vân ở, quan quân nhà Nguyễn liền lần theo truy đuổi khiến ông Vân phải chạy ẩn vào trong rừng Thẩm Pát ở Thái Nguyên, rồi bị thiêu chết khi quân triều phóng hỏa đốt rừng. Cuộc nổi dậy do ông và các đồng đội đã dày công gầy dựng đến đây là kết thúc.

Khơi nghĩa Cao Bá Quát
Khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch năm Giáp Dần 1854, nhiều tỉnh ở miền Bắc gặp đại hạn, lại bị nạn châu chấu làm cho mùa màng mất sạch, đời sống người nhân dân hết sức cực khổ; Cao Bá Quát bèn vận động một số sĩ phu yêu nước, các thổ hào ở các vùng Quốc Oai, Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Lạng Sơn...cùng nhau (tôn Lê Duy Cự làm minh chủ, Cao Bá Quát làm quốc sư, họp với thổ mục Sơn Tây là Đinh Công Mỹ và Bạch Công Trân) dựng cờ nổi dậy tại Mỹ Lương, thuộc vùng Sơn Tây chống lại triều đình đương thời.

Đang trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, do có người tố giác nên kế hoạch bị bại lộ. Trước tình thế cấp bách, Cao Bá Quát buộc phải phát lệnh tấn công vào cuối năm 1854.

Buổi đầu ông cùng các thổ mục ở Sơn Tây là Đinh Công Mỹ và Bạch Công Trân đem lực lượng đánh phá phủ Ứng Hòa, huyện Thanh Oai, huyện thành Tam Dương, phủ Quốc Oai, Yên Sơn...Tuy giành được một số thắng lợi, nhưng sau khi quan quân triều đình tập trung phản công thì quân khởi nghĩa liên tiếp bị thất bại.

Tháng Chạp năm Giáp Dần (tháng Chạp năm này rơi vào năm dương lịch 1855 [13]), sau khi bổ sung lực lượng (chủ yếu là người Mường và người Thái ở vùng rừng núi Mỹ Lương, nay là vùng đất phía Tây sông Đáy thuộc các huyện Chương Mỹ, Mỹ Đức của Hà Nội, và các huyện Lương Sơn, Kim Bôi tỉnh Hòa Bình[14]), Cao Bá Quát đem quân tấn công huyện lỵ Yên Sơn lần thứ hai (huyện lỵ huyện Yên Sơn cũng là phủ lỵ phủ Quốc Oai[15], ngày nay là thị trấn Quốc Oai huyện Quốc Oai). Phó lãnh binh Sơn Tây là Lê Thuận đem quân nghênh chiến. Cuộc đối đầu đang hồi quyết liệt tại vùng núi Yên Sơn (giáp Sài Sơn), thì Cao Bá Quát bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Tiếp theo, Nguyễn Kim Thanh và Nguyễn Văn Thực cũng lần lượt sa vào tay đối phương (sau cả hai đều bị xử chém). Ngoài những thiệt hại này, hơn trăm quân bị chém chết và khoảng 80 quân khác bị bắt (theo sử nhà Nguyễn).

Nghe tin đại thắng, vua Tự Đức lệnh cho ban thưởng và cho đem thủ cấp của nghịch Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc Kỳ rồi giã nhỏ quăng xuống sông. Sự thật về cái chết của Cao Bá Quát cho đến nay vẫn còn là một vấn đề nghi vấn cần làm sáng tỏ hơn [16].
 
Last edited by a moderator:
Top Bottom