Bạn tham khảo thêm tại bài này nhá:
Nam Cao là một cây bút hiện thực xuất sắc với những trang viết độc đáo, những tìm tòi mới mẻ. Truyện ngắn"Đời thừa" và "Chí Phèo" là hai sáng tác tiêu biểu của Nam Cao trước Cách mạng. Đọc "Đời thừa" và "Chí Phèo"hẳn người đọc không quên hai nhân vật Hộ và Chí Phèo, đặc biệt là chi tiết tiếng khóc của họ ở cuối truyện. 
Chi  tiết trong tác phẩm văn học là "những tiểu tiết có sức chứa lớn về nội  dung tư tưởng và cảm xúc".  Hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm có sống  động được hay không là nhờ các chi tiết. Ý kiến của chi tiết là ở chỗ "sao cho cái vặt vãnh trở nên lấp lánh trước mắt người đọc". Chi tiết tiếng khóc của hai nhân vật Hộ và Chí Phèo là một chi tiết nghệ thuật như thế ! 
Nước  mắt là một sản phẩm cụ thể của tình cảm. Khi người ta rơi vào một cảnh  huống, một trạng thái nào đó thì dễ nảy sinh tâm trạng, mà đỉnh cao của  trạng thái tình cảm thường biểu lộ bằng những giọt nước mắt. Có giọt  nước mắt sung sướng, có giọt nước mắt ân hận, có giọt nước mắt đau đớn,  xót xa,...Giọt nước mắt của Hộ và Chí Phèo là nỗi đau đớn xót xa hay  niềm hạnh phúc ? Nguyên nhân nào dẫn đến tiếng khóc ấy của hai nhân vật ?  Nam Cao đã dẫn giải một cách hợp lí. Với Hộ, tiếng khóc của anh bật ra  sau hai tấn bi kịch lớn trong cuộc đời : bi kịch sống thừavà bi kịch tình thương.  Hộ đã từng là một nhà văn say mê lí tưởng nghề nghiệp, có ước mơ hoài  bão cao đẹp, Hộ khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất, Hộ chỉ chăm lo  vun trồng cho cái tài năng của Hộ ngày một nảy nở. Nhưng ước mơ hoài bão  của Hộ không thực hiện được vì một lực cản tầm thường song ghê gớm,  gánh nặng cơm áo gia đình. Để chăm lo cho cuộc sống  gia đình, Hộ phải  viết những cuốn sách vội vàng khiến người ta đọc rồi lại quên ngay sau  khi đọc, còn bản thân Hộ mỗi lần đọc lại anh cũng tự thấy xấu hổ, dằn  vặt mình. Anh không đem đến cho văn chương được cái gì mới mẻ, cũng  không thay đổi được cuộc sống gia đình, như thế, anh là một kẻ vô ích,  một đời thừa. Trước mắt Hộ có một con đường giải thoát, thoát li vợ con  để thực hiện giấc mộng văn chương, nhưng Hộ không thể bỏ được tình  thương, vì anh vẫn là con người. Không thể thoát li vợ con, song Hộ lại  đau khổ ngấm ngầm. Hộ điên người lên vì con khóc, điên người lên vì phải  xoay tiền. Trong lúc bế tắc, Hộ đã tìm đến rượu. Nhưng rượu không giúp  anh tháo gỡ được tình trạng bi kịch còn dấn anh lấn sâu vào bi kịch thứ  hai : vi phạm lẽ sống tình thương. Trong lúc say, Hộ đã đánh vợ, đuổi vợ  ra khỏi nhà. Tỉnh rượu, Hộ đã khóc "Nước mắt hắn bật ra như nước  một quả chanh mà người ta bóp mạnh.  Và hắn khóc...Ôi chao ! Hắn khóc !  Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc".
Với  Chí Phèo, tiếng khóc của Chí bật ra sau một bi kịch lớn của cuộc đời:  bi kịch bị từ chối quyền làm người. Trước khi gặp thị Nở, Chí đã từng là  con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say,  chửi trong lúc say. Trên mặt Chí lằn ngang lằn dọc bao nhiêu vết sẹo,  kết quả của những lần rạch mặt ăn vạ; cái mặt của Chí vàng vàng mà lại  sạm màu gio, cái mặt của một con quỷ dữ. Chí trở thành nỗi kinh hoàng,  sự ám ảnh của dân làng Vũ Đại. Cả làng Vũ Đại không ai dám giao tiếp với  Chí, họ từ chối Chí. Thế nhưng từ chỗ khuất lấp của cuộc đời, có một  người đàn bà "ma chê quỷ hờn" đã sưởi ấm tâm hồn giá lạnh của Chí bằng  chút tình thương mộc mạc, chân thành. Cuộc gặp gỡ kì diệu, đặc biệt là  sự chăm sóc đầy ân tình của thị Nở đã đánh thức nhân tính và khát vọng  lương thiện đã bị ngủ quên từ lâu của Chí Phèo. Chí và thị sẽ làm thành  một cặp xứng đôi nếu như thị là một người bình thường. Nhưng thị lại là  người đàn bà dở hơi, thị đã từ chối Chí. Sự  từ chối của thị Nở đã đẩy  Chí rơi vào một nỗi đau sâu thẳm trong cuộc đời. Như một thông lệ, Chí  đã tìm đến với rượu, Chí muốn uống cho thật say để quên đi nỗi đau trong  đời. Nhưng Chí càng uống càng tỉnh, càng tỉnh, Chí lại thấy hơi cháo  hành thoang thoảng, Chí "ôm mặt khóc rưng rức".
Hai  tiếng khóc của hai con người, ở hai hoàn cảnh khác nhau nhưng đều biểu  hiện thấm thía nỗi đau thân phận khi trải qua những tấn bi kịch trong  cuộc đời. Hộ khóc sau khi đã có hành vi thô bạo với vợ con; Chí Phèo  khóc sau khi bị thị Nở từ chối. Nhưng sắc thái ý nghĩa của mỗi tiếng  khóc không hoàn toàn giống nhau. Tiếng khóc của Hộ là tiếng khóc của một  người trí thức tiểu tư sản có ý thức sâu sắc về sự sống, muốn cống hiến  bằng sự lao động sáng tạo của chính mình mà phải sống "đời thừa", một  người coi tình thương là nguyên tắc xác định tư cách làm người nhưng lại  vi phạm vào lẽ sống tình thương. Bao nhiêu đau đớn, bao nhiêu hối hận  dồn nén lại ở Hộ để rồi bật lên thành tiếng khóc. Tiếng khóc nức nở, tiếng khóc bật ra như quả chanh người ta bóp mạnh của Hộ cho ta thấy sự hối hận và đau khổ lên đến tột cùng của người trí thức tiểu tư sản nghèo có nhân cách.  Giọt nước mắt ấy đã nâng đỡ Hộ, thanh lọc tâm hồn anh, giúp anh đứng  vững trên bờ vực thẳm của sự tha hoá. Còn nhớ, nhân vật Sinh trong  truyện "Đói" của  Thạch Lam đã từng hất tất cả đồ ăn do Mai vợ anh vừa mua về xuống đất  và đuổi cô ra khỏi nhà khi anh biết, Mai đã phải bán mình để có tiền  nuôi chồng. Nhưng sau cảm giác đau đớn và chán nản là sự giày vò của cái  đói. Bất chấp sự chống cự của Sinh, cảm giác đói cứ lan khắp cả người  anh. Và rồi trước mùi thơm quyến rũ của đồ ăn, trước sự hành hạ của cái  đói, Sinh đã đầu hàng một cách thảm hại. Anh ăn vụng trộm những miếng  bánh và thịt ướp mà trước đó chính anh đã hất đi và nguyền rủa. Khác với  Hộ, Sinh đã đặt sự tồn tại lên trên nhân cách. Đó là dấu hiệu đầu tiên  của quá trình tha hoá, biến đổi nhân cách con người trước hoàn cảnh. Rõ  ràng, người trí thức trong sáng tác của Thạch  Lam chưa có ý thức sâu  sắc về căn nguyên của nỗi khổ, chưa có sự ân hận như  Hộ của Nam Cao. Sự  ân hận của Hộ gợi cho ta nhớ đến nhân vật Hưng trong truyện ngắn "Miếng bánh " của Nguyên Hồng. Hưng đã từng ăn giấu vợ miếng bánh trong lúc đói, nhưng khi ăn, anh cảm thấy ân hận, nhục nhã đến độ " cổ họng, ruột gan xoắn lại. Miếng bánh nhai nhỏ ra càng như miếng thuỷ  tinh tẩm mật cá".  Hộ cũng ân hận, song lớn hơn sự ân hận ấy là sự thành thực trước lỗi lầm của mình "Anh... anh... chỉ là... một thằng... ********!...".  Sự thành thực với chính mình là một nhân cách rất đáng trân trọng ở  người trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao.
Nếu  tiếng khóc của Hộ là tiếng khóc của một người trí thức ân hận về những  hành vi thô bạo của mình đối với vợ con thì tiếng khóc của Chí Phèo là  tiếng khóc của một người cố nông nghèo bị tha hoá, bị tước đoạt quyền  làm người. Nam Cao gói gọn nỗi đau trong tâm hồn Chí bằng ba chữ "khóc  rưng rức". Bao nhiêu tủi hờn dồn nén lại để rồi bật lên thành tiếng khóc  cho sự oan trái, sự thua thiệt của một người sinh ra là người mà lại  không có quyền sống của một con người. Tiếng khóc của Chí chính là sự ý thức đầy đủ nhất về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của anh.  Có hiểu ước mơ hạnh phúc chân thành của Chí "Hay là mình sang ở mới tớ  một nhà cho vui", ta mới thấu hiểu được tiếng khóc đau đớn của một người  bị phụ tình. Tiếng khóc của Chí gợi cho ta nhớ đến tiếng khóc hu hu của lão Hạc khi lão chót lừa một con chó, tiếng khóc nức nở, khóc như người ta thổ ra nước mắt của  dì Hảo khi người chồng bỏ dì bơ vơ trong lúc ốm đau để đi tìm cơm rượu.  Mỗi tiếng khóc là một nỗi đau, nhưng tiếng khóc của Chí không chỉ có  nỗi đau mà còn có cả sự cay đắng, tủi nhục.
 Cũng như ở truyện ngắn "Đời thừa", trong "Chí Phèo",  Nam Cao đã hoá thân vào nhân vật, sống với nhân vật để miêu tả nỗi đau  đến tột cùng của nhân vật. Chỉ là một tiếng khóc, nhưng trong tiếng khóc  ấy ta thấy một nỗi niềm, một số phận, một cuộc đời của nhân vật. Tài  năng nghệ thuật của người nghệ sĩ là như thế ! Ẩn sau tiếng khóc của  nhân vật là niềm cảm thông, thương xót của nhà văn đối với người trí  thức tiểu tư sản nghèo, người nông dân lao động nghèo. Và lớn hơn niềm  thương cảm là sự phát hiện những phẩm chất tốt đẹp của họ trong hoàn  cảnh bế tắc. Đối với Hộ là sự vươn lên để giữ vững lẽ sống nhân đạo; đối  với Chí Phèo là khát vọng hạnh phúc, khát vọng lương thiện. Điều đó tạo  nên chiều sâu nhân đạo mới mẻ trong sáng tác của Nam Cao.
Nước mắt là giọt châu của loài người, là tấm kính biến hình vũ trụ để  cho nhân vật giải toả nỗi đau, sự bi phẫn đến cùng cực. Nhưng nước mắt  vẫn chỉ là nước mắt. Do vậy, nhân vật của Nam Cao vẫn rơi vào bế tắc. Hộ  không giải quyết được bi kịch gia đình; Chí Phèo phải tìm đến cái chết  sau khi đã giết được kẻ thù của mình. Cần phải có thời gian, có ánh sáng  của Đảng soi rọi, người trí thức tiểu tư sản và người nông dân nghèo  của Nam Cao mới có thể thay đổi cuộc đời của họ.
Như  vậy, từ một chi tiết nghệ thuật, Nam Cao đã lí giải sâu sắc nỗi đau  trong tâm hồn nhân vật; đánh dấu quá trình thức tỉnh của nhân vật, đồng  thời thể hiện tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn về đề tài trí thức  tiểu tư sản và người nông dân nghèo.
Có  thể nói, chi tiết tiếng khóc của hai nhân vật Hộ và Chí Phèo là một chi  tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa. Nó chẳng những làm cho hình tượng nghệ  thuật trở nên sống động mà còn góp phần làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của  tác phẩm. Với chi tiết tiếng khóc nhân vật Hộ và Chí Phèo, Nam Cao đã  đem đến cho văn học Việt Nam 1930-1945 một tiếng nói nhân văn sâu sắc,  khẳng định tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ trong việc mô tả và  phân tích tâm lý nhân vật.
__________
Chúc bạn học tốt!
Nguồn: net