CLB lịch sử Sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh, 60 năm nhìn lại

Thái Minh Quân

Cựu Cố vấn Lịch sử | Cựu Chủ nhiệm CLB Lịch sử
Thành viên
29 Tháng mười 2018
3,304
4,365
561
TP Hồ Chí Minh
THCS Nguyễn Hiền
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Kể từ năm 1946 tới nay, ngày 19-5 được công nhận là ngày Kỷ niệm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng thực sự Cụ Hồ sinh ngày nào, năm nào? Và tại sao có ngày 19-5-1946?

I.Năm sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Căn cứ theo lá thư người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức Hồ Chí Minh) tại Marseille ngày 15-9-1919 gửi tổng thống Pháp để xin vào học trường thuộc địa tại Paris, thì phía dưới lá thư ký: Nguyễn Tất Thành; Sinh tại Vinh, 1892 con trai ông Nguyễn Sinh Huy (tiến sĩ văn chương) sinh viên tiếng Pháp và Trung Quốc (theo William J.Duiker, Hồ Chí Minh, New York 2000, bản dịch tiếng việt khổ A4, tr.31).
Còn theo tài liệu của Ông Daniel Hémery, dựa theo các nguồn của kho lưu trữ của chính phủ Pháp, thì lại khác. Tại sở cảnh sát Paris năm 1902, Hồ Chủ tịch lại khai là sinh ngày 15.01.1894
Còn người anh trai Nguyễn Sinh Khiêm và người chị gái Nguyễn Thị Thanh, khi bị cảnh sát Trung kỳ hỏi cung vào năm 1920, thì người anh cho biết Nguyễn Sinh Cung sinh năm 1891, còn người chị gái lại khai vào khoảng 1893.
Còn giấy khai sinh được những người làm chứng ở Kim Liên xác nhận đã được cơ quan mật thám xác lập năm 1931 (tức khoảng 40 năm sau) thì chỉ ra ngày sinh của Nguyễn Sinh Cung vào tháng 03 năm Thành Thái thứ 6, tức khoảng tháng 04 năm 1894 (theo Daniel Hemery, Hồ Chí Minh, Từ Đông Dương đến Việt Nam, Lê Toàn dịch, NXB Phụ nữ 2004, tr.90-91)
Như thế, chúng ta có 4 năm sinh khác nhau: 1891, 1892, 1893,1894. Đây cũng là điều dễ hiểu. Ở thôn quê Nghệ Tĩnh ngày đó và mãi cho đến sau này thường không có giấy khai sinh chính thức. Người ta thường chỉ nhớ tuổi theo thứ tự chu kỳ 10 can (Giáp, Ất, Bính, Đinh…) và 12 chi (Tý, Sửu, Dần, Mão…), như Giáp Thân (1884), Ất Dậu (1885), Bính Tuất (1886), hay có khi chỉ nhớ qua một sự kiện nào đó: chẳng hạn “năm đó lụt lớn”, hay “năm đó đói”. Khi đi học chữ Hán thường thì không ai bắt phải khai ngày sinh, tháng đẻ. Còn khi đi học trường Pháp – Việt thì thường cứ khai như mình ngĩ (có khi khai là hai anh e ruột mà chỉ có sinh cách nhau 5,6 tháng!). Vì thế trường hợp năm sinh của Hồ Chí Minh, mỗi nguồn mỗi khác, cũng là chuyện bình thường.
Năm 1946, Hồ Chủ tịch công nhận năm 1890 là năm sinh
Cuối cùng, bốn năm đó (1891, 1892, 1893, 1894) đều bị phủ nhận, và năm 1890 được Hồ Chí Minh công nhận chính thức là năm sinh của mình khi đồng ý cho tổ chức lần đầu tiên lễ sinh nhật của mình vào ngày 19-5-1946. Đây là một sự kiện mới. Và từ năm 1946 trở đi, các tài liệu về Hồ Chí Minh cho biết Hồ Chí Minh đã lấy năm đó để tính tuổi của mình. Đặc biệt, hình như hàng năm đến ngày 19-5, Cụ thường làm một bài thơ, vừa hóm hỉnh, vừa lạc quan.
Sinh nhật năm 1949 (1890-1949), Hồ Chí Minh làm bài thơ “Không đề”
Vì nước chưa nên ngĩ đến nhà,
Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già
Chờ cho kháng chiến thành công đã
Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta
(TS Trần Viết Hoàn, Nhớ mừng ngày sinh Bác Hồ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nộih 2005, tr.16).
Năm 1950, Bác Hồ 60 tuổi, lúc đó ở thác Dẫng (Tuyên Quang)
Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán
So với ông Bành vẫn thiếu niên
Ăn khoẻ, ngủ ngon, làm việc khoẻ
Trần mà như thế kiếm gì tiên!
(Trần Viết Hoàn, sdd, t.18)
Sau đây bài thơ “Thất cửu” Bác viết năm 1953, lúc 63 tuổi
Chưa năm mươi đã kêu già
Sáu ba mình vẫn nghĩ là đương trai
Sống quen thanh đạm, nhẹ người,
Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung
(Trần Viết Hoàn, sdd, t27)
Năm 1968, 78 tuổi, Hồ Chủ tịch làm bài thơ:
Bảy mươi tám tuổi chưa già lắm
Vẫn vững hai vai việc nước nhà
Kháng chiến dân ta đang thắng lớn
Tiến bước! ta cùng con em ta!
(Trần Viết Hoàn, sdd, t. 69)

II.Ngày sinh của Hồ Chủ tịch
Nhưng tại sao là ngày 19 tháng 5 chứ không phải ngày 15-01-1894 như Nguyễn Tất Thành đã khai tại Ty cảnh sát Paris năm 1920? Trả lời câu hỏi đó, ông Hémery đã đưa ra giả thuyết:
Sở dĩ lấy ngày 19-5 là để kỷ niệm ngày thành lập Việt Minh 19-5-1941 (D. Hémery, sdd, t.90). Thiết nghĩ rằng giả thuyết đó không đúng vì ngày thành lập Mặt trận Việt Minh là một biến cố quan trọng thực, nhưng không phải là lý do chính. Sau này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong tập hồi ký “Chiến đấu vòng vây” cũng công nhận “Ngày thành lập Việt Minh 19-5-1941 trùng với ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đây là một sự “trùng hợp” chứ không phải lấy ngày thành lập Việt Minh làm ngày sinh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn thêm: “Ngày sinh Hồ Chủ tịch được công bố lân đầu tiên vào năm 1946” (Võ Nguyên Giáp, tổng hợp hồi ký, NXB Quân Đội Nhân dân, Hà Nội 2006, t.378)
Nếu cần lấy một ngày sinh nhật chung thì theo Hồ Chủ tịch trong lá thư ngày 19-5-1948 gửi Quốc Hội và Chính phủ, các đoàn thể, bộ đội, đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài để cám ơn, Hồ Chí Minh đề nghị lấy một ngày khác. Hồ Chủ tịch viết:
“Tôi thiết ngĩ rằng tuy tuổi tác chúng ta có kẻ nhiều, người ít, nhưng tôi và toàn thể đồng bào có một ngày sinh nhật chung: ấy là ngày cách mạng giải phóng thành công tháng tám năm 1945”(TS. Trần Viết Hoàn, sdd, t.13)
Trong khi chờ đợi một giải thích khác của các nhà sử học chuyên môn về Hồ Chí Minh hay của các bậc lão thành cách mạng (hoặc đã có rồi mà chúng tôi chưa rõ), chúng ta thử tìm hiểu lai lịch ngày đó.
Phong tục Việt Nam không ăn mừng sinh nhật
Trước tiên, cần phải gạt ra một bên giả thuyết là chính Hồ Chí Minh công khai hoá ngày đó để làm một dịp đề cao cá nhân mình. Thiết tưởng đó không là phong cách cố hữu của Hồ Chí Minh. Hồ Chủ tịch là người “vì nhân dân quên mình”, “là người không muốn nói về mình, không muốn người ta đề cao mình, chú trọng mình”. Chính vì thế khi biết ngày sinh của Hồ Chủ Tịch, nhân dân và đồng chí đến chúc mừng. Trong những dịp này, Hồ Chủ Tịch luôn tỏ ra không đồng ý mấy. Chẳng hạn năm 1965, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 75 của Bác, ông Trường Chinh thay mặt Đảng, Quốc hội, Chính phủ đến chúc mừng, Hồ Chủ Tịch đã thẳng thắn trả lời: “Bác cám ơn các chú đã có lòng, nhưng trong lúc toàn dân ta đang kháng chiến gian khổ, mọi công việc hết sức khẩn trương mà lại tổ chức chúc thọ một cá nhân là không nên” (Trần Viết Hoàn, sdd, t.56).
Chính vì thế, cứ đến gần ngày 19-5, Bác thường tìm cách vắng mặt. 19-5-1958, Bác đi thăm chùa Hương; 17-5-1960, Bác đi thăm không chính thức Nam Ninh (Trung Quốc); 16-5-1961, Bác đi thăm Quế Lâm (Quảng Tây); 18-5-1962 lại đi Nam Ninh; 19-5-1964, đi Côn Minh, Quảng Châu; 14-5-1966, lại đi thăm Trung Quốc. Năm 1968, Hồ Chí Minh “trốn” lên Hồ Tây, việc “bị lộ”, Bộ Chính Trị, Trung ương Đảng lên mừng Bác. Bác buộc lòng phải trở về nhà sàn. Để đơn giản việc chúc mừng, Bác đề nghị chỉ có Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở lại dùng cơm chiều với Bác (Trần Viết Hoàn, sdd, t.68).
Đó là việc hầu như không có gì khác lạ vì thỉnh thoảng Bác Hồ vẫn dùng cơm chung với Thủ tướng Phạm Văn Đồng, bữa cơm của hai người sống độc thân chứ không phải bữa cơm mừng sinh nhật. Cho đến mấy tuần lễ trước lúc Bác ra đi vĩnh viễn, Bác vẫn giữ thái độ khiêm tốn khi nói đến ngày sinh nhật của mình. Ông Vũ Kỳ, thư ký của Bác kể lại sự kiện đó như sau: Mấy tuần lễ trước lúc Bác mất, một uỷ viên Bộ Chính trị vào thăm Bác và báo cáo cho Bác biết quyết định tổ chức bốn ngày lễ lớn năm 1970: 40 năm thành lập Đảng, 90 năm ngày sinh của Lê Nin, 25 năm thành lập nước và 80 năm ngày sinh của Hồ Chủ tịch. Nằm trên giường bệnh, Bác bảo: “Các chú nên bàn lại cho kỹ, còn ý kiến của Bác, Bác chỉ đồng ý ¾ nghị quyết, Bác không đồng ý về việc đưa ngày 19-5 là ngày kỷ niệm lớn trong năm 1970. Hiện nay các cháu học sinh sắp bước vào năm học mới… Với nữa tiền bạc dùng để tuyên truyền ngày sinh nhật của Bác, thì các chú nên dành để in sách giáo khoa và mua dụng cụ học tập cho các cháu, chớ lãng phí” (Vũ Kỳ, sđd, t.479-480).
Bác Hồ không có chủ trương ăn mừng sinh nhật của mình và phong tục của người Việt Nam cũng không ăn mừng ngày sinh nhật.
Chắc chắn chính Hồ Chí Minh cũng biết rõ phong tục Việt Nam không có mừng sinh nhật mà có lễ chúc thọ, nhưng phần nhiều chỉ chúc thọ khi người đó ít nhất được 60 tuổi. Nên khi đáp lại lễ mừng sinh nhật lần đầu tiên 19-5-1946, Hồ Chủ tịch viết: “Tôi chưa xứng đáng với sự săn sóc của đồng bào vì tôi hãy đã còn là một thanh niên, tuổi có 56 (1890-1946), chưa đáng để đồng bào chúc thọ”. (Cũng nên nhắc lại rằng, chỉ cho đến gần đây, giới trẻ thành thị mới bắt chước Tây phương mừng ngày sinh nhật của mình chứ trước đây ít có ai làm).
Hơn ai hết thủ tướng Phạm Văn Đồng, người học trò bậc nhất của Hồ Chí Minh, nói lên sự quý trọng truyền thống của Thầy mình như sau: “Hồ Chí Minh đặc biệt thích thú và quý trọng truyền thống xa xưa của dân tộc, thể hiện một cách giàu đẹp trong lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán, tình làng nghĩa xóm, việc nước gắn với việc nhà” (Trịnh Quang Phú, Đường Bác Hồ đi cứu nước, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, tr.14)
Chính sống theo tinh thần cổ truyền của dân tộc, Hồ Chí Minh cho đến năm 1946, không mừng sinh nhật và từ năm 1946 trở đi cho đến lúc qua đời, Bác không bao giờ làm rầm rộ ngày đó. Ngay cả những lần “trốn” Việt Nam sang Trung Quốc, Bác cũng dặn bạn bè trước: “Tôi sang đây vào dịp này là để tránh việc chúc thọ trong nước, vì vậy tôi yêu cầu các đồng chí cũng không tổ chức chúc thọ tôi ở đây” (Trần Viết Hoàn, sđd tr.57).
Không bao giờ muốn đề cao cá nhân mình, không bao giờ đi ngược lại truyền thống dân tộc, tại sao lại có tổ chức lễ sinh nhật ngày 19-5-1946?
Việc tiết lộ ngày sinh và tổ chức mừng sinh nhật lần đầu tiên ngày 19-5-1946 chắc phải có những lý do khác.
Muốn biết lai lịch ngày 19-5, thiết tưởng chúng ta phải trở về bối cảnh lịch sử lúc đó.

III. Bối cảnh ngày 19-5-1946
Hơn ai hết ông Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ, trong một bức thư đề ngày 10-5-1970 gửi cho một đồng chí ở Miền Nam, nói về bối cảnh đó như sau:
“Đồng chí Nam, đồng chí còn nhớ bối cảnh ngày 19-5 đầu tiên không nhỉ? Ngày 19-5-1946.
Hồi ấy vừa dành được quyền độc lập, nhưng khó khăn còn rất nhiều. Nạn lụt, nạn đói, nạn ngoại xâm…, quan quân của Tưởng và bọn tay sai của Việt Nam Quốc dân Đảng quấy rồi ở miền bắc. Bọn thực dân núp sau quân Anh, Ấn gây hấn ở Miền Nam, rồi khiêu khích ở miên Bắc.
Hồi đó cùng Trung ương Đảng, Bác lo lắng công việc suốt ngày đêm, người gầy đi. Bác Hồ của chúng ta dồn hết tâm sức vào việc chèo chống con thuyền Việt Nam qua thác ghềnh, sóng gió. Đúng vào lúc bề bồn công việc ấy, bỗng có tin nhân dân Thủ đô biểu tình tuần hành biểu dương lực lượng để chúc mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh 56 tuổi vào ngày 19-5-1946.
Ngày 19-5 từ đó bắt đầu đi vào lịch sử” (Vũ Kỳ,sđd,tr.294)
Nhưng ông Vũ Kỳ không nói tại sao lại có ngày đó.
Sau Hiệp định 6-3, tình trạng đối nghịch giữa Việt Nam và đại diện Pháp
Các sự kiện đã xảy ra có thể tóm lược lại như sau:
Hiệp định Sơ bộ 6-3 giữa Việt Nam với Pháp vừa ký xong, dư luận xôn xao tin 15.000 quân Pháp sẽ tới miền Bắc có phần đột ngột. Phe đối lập tung tin: Hồ Chí Minh nhượng bộ Pháp. Một số đồng bào phân vân vì không hiểu rõ hết tình thế phức tạp và hiểm nghèo của đất nước vào lúc đó.
Để cắt nghĩa cho nhân dân biết tại sao lại thương lượng với Pháp, tại sao lại ký Hiệp định 6-3, ngay chiều ngày 7-3, một cuộc mít tinh lớn đã được tổ chức tại Nhà hát lớn Hà Nội. Hồ Chủ tịch xuất hiện nói với đồng bào: “Nước ta đã tuyên bố độc lập từ tháng Tám năm 1945, nhưng tới nay chưa một cường quốc nào công nhận nền độc lập của ta. Cuộc điều đình với nước Pháp sẽ mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta. Điều đình với Pháp là chứng tỏ sự khôn ngoan về chính trị của ta” (Võ Nguyên Giáp, sđd, tr. 242). Đối với Hồ Chí Minh, cần phải đi từng bước, trước tiên Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do. Một khi quyền tự do đã giành được, chúng ta sẽ tiến tới giành độc lập, giành độc lập hoàn toàn. Còn về việc toàn vẹn lãnh thổ, Chính phủ Pháp muốn chiếm giữ Nam bộ nhưng cuối cùng Pháp phải chịu mở một cuộc trưng cầu ý dân về thống nhất ba kỳ và cam đoan sẽ thừa nhận kết quả của nó. Chúng ta đặt lòng tin vững chắc vào nhân dân và Nam bộ nhất định sẽ trở về trong lòng Tổ quốc (Võ Nguyên Giáp, sđd, tr. 242). Con đường đó đi từ tự do đến độc lập, từ độc lập đi đến thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, và sức mạnh của Việt Nam không phải là sức mạnh khí giới như Pháp, mà là lòng yêu nước. Tất cả dựa vào sức mạnh của nhân dân, bằng thương thuyết, bằng đấu tranh chính trị, nhất là ngoại giao.
Phía Việt Nam thì như thế, phía Pháp lại khác.
Phía Việt Nam sẵn sàng thực hiện Hiệp định Sơ bộ, phía Pháp tìm cách phá Hiệp định. Ngày 7-3, một ngày sau khi ký Hiệp định, Việt Nam tổ chức mít tinh để phổ biến tình thần Hiệp định, thì cùng ngày đó D’Argenlieu giao cho Léon Pignon, lại là một người phụ tá của Sainteney, phải tìm cách phá Hiệp định 6-3. D’Argenlieu nói với Pignon: “Những nhượng bộ mà Pháp đã ký trong hiệp định, Pháp sẽ dùng phương pháp khác để giành lại” (TDT,sđd, tr.140).
Hạ Long: Thương thuyết bằng thị uy
Một trong những phương pháp đó là D’Argenlieu muốn nói chuyện trực tiếp với Hồ Chí Minh, chứng tỏ mình mới là tiếng nói chính thức của chính phủ Pháp chứ không phải là Sainteney. Nhưng nơi gặp gỡ, D’Argenlieu đề nghị là ở Vịnh Hạ Long, chứ không phải Hà Nội. Ai cũng thừa biết rằng D’Argenlieu rất tính toán trong đường đi nước bước, nếu tới Hà Nội tức gián tiếp đề cao Hồ Chí Minh, đề cao Hà Nội. Tuy thế, nhưng vì quyền lợi đất nước, được mời đi Hạ Long, Hồ Chí Minh vẫn nhận lợi và ngày 24-3 lên chiếc thuỷ phi cơ Pháp tại Gia Lâm đi Hạ Long. “Cuộc đón tiếp diễn ra thật long trọng, 21 phát đại bác chào khi Hồ Chủ tịch đến, 21 phát đại bác chào khi đi. D’Argenlieu mời Chủ tịch duyệt binh. Chiếc chiến hạm chạy lướt trước những con tàu những khẩu pháo lớn ghếch cao nòng, đứng sắp hàng dài trên mặt biển” (Võ Nguyên Giáp, Sđd, tr 259).
Tất cả là để thị uy, nhưng Hồ Chí Minh không sợ những sự như thế. “Trên máy bay trở về Hà Nội, Hồ Chủ tịch đã nói với Salan, một người cộng sự của D Argenlieu: “Nếu đô đốc muốn đem tàu đó ra để làm lung lay tôi, thì ông đã lầm to, những tàu đó không thể nào đi ngược dòng sông của chúng tôi” (Võ Nguyễn Giáp, sđd, tr.216)
Mặc dầu không phải là ý định của D’Argenlieu nhưng cuộc gặp gỡ cũng đem lại nhiều ý định cho phía Việt Nam: Vào cuối tháng 5-1946 “sẽ có một đoàn đại biểu Việt Nam đi Paris, để điều đình những mối quan hệ giữa Việt Nam và Pháp, đồng thời Hồ Chủ tịch sẽ là thượng khách của chính phủ Pháp” (TDT, sđd, t.191)
Đà Lạt: Biển không xong, lên núi
Không thành công ở ngày gặp gỡ Hạ Long trong việc nhằm trì hoãn được việc đoàn Việt Nam sang Pháp thương thuyết, D’Argenlieu lại đề nghị mở cuộc hội nghị chuẩn bị tại Đà Lạt. Phía Việt Nam cũng đồng ý. Ngày 17-4-1946, khai mạc hội nghị tại trường Yersin, Đà Lạt, nhưng hội nghị lâm vào bế tắc khi phía Pháp từ chối thảo luận vấn đề Nam bộ, vì Pháp có dụng ý tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam, lập Chính phủ Nam kỳ tự trị.
Đó là điều mà phái đoàn Việt Nam không khi nào chấp nhận được. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, một thành viên của phái đoàn Việt Nam có uy tín đối với Pháp kết thúc hội nghị bằng cách nói lên một cách hết sức cảm động nguyện vọng sâu thẳm nhất của người dân Việt Nam: “Nam kỳ cần có hoà bình và phần đất này cần sơm trở lại trong lòng Tổ quốc Việt Nam”. Philippe Devillers, nhà báo Pháp có mặt trong những giây phút đó đã chú thích thêm: Phái đoàn Việt Nam không thể nén được sự xúc động của mình, nước mắt lưng tròng, mọi người bước ra khỏi phòng hội nghị .
Cuối cùng tướng Võ Nguyên Giáp kết luận: phía Pháp chưa muốn đoạn tuyệt với chế độ thực dân. Vào ngày 13-5-1946 tướng Võ Nguyên Giáp lên đường trở về Hà Nội (Philippe Devillers, Histoire du Vietnam, Paris 1982, t.266)
Về Hà Nội thủ đô
Vài ngày sau D’Argenlieu chưa chịu thua, lại muốn đến Hà Nội không để chào Hồ Chí Minh trước lúc Bác lên đường sang Pháp, nhưng để tiếp tục vận động Hồ Chí Minh hoãn lại việc đi Pháp. Phía Việt Nam tuy biết thế nhưng tìm cách làm sao để D’Argenlieu đến Hà Nội không phải để thực hiện ý định của mình, nhưng để chào Hồ Chủ Tịch, để biết tinh thần của nhân dân Việt Nam đối với Hồ Chủ tịch. Theo ý chúng tôi đây mới là cái nút chính các sự kiện xảy ra xung quanh ngày 19-5-1946 ở Hà Nội là nhằm lấy việc mừng sinh nhật Hồ Chí Minh làm bối cảnh cho việc tiếp đón Thiery D’Argenlieu. Có thật ngày 19-5 là ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh hay không là điều không quan trọng, nhưng dùng ngày ấy làm bối cảnh cho một hoạt động ngoại giao cần thiết, biến ngày sinh nhật thành một lợi khí ngoại giao có tầm lịch sử, mới thật là một sáng kiến tuyệt vời.

IV. Cuốn phim ngày 18,19 tháng 5 tại Bắc bộ phủ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tường thuật bối cảnh như sau:
Ngày 18-5 các báo thủ đô lần đầu báo với đồng bào ngày sinh nhật của Hồ Chủ tịch … Với đầu đề “Cụ Hồ với dân tộc Việt Nam”, báo Cứu Quốc (tờ báo của Tổng bộ Việt Minh) ngày hôm đó viết:
Ngày 19-5 này, năm mươi sáu năm trước đây (1980) đã ra đời một người: Hồ Chí Minh bằng bàn tay khéo léo và quả quyết, chính ông đã khai sinh, đã nuôi nấng nhiều đoàn thể cách mạng Việt Nam. Tinh thần hoạt động của hầu hết nhiều chiến sĩ Việt Nam đều do bàn tay tài tình của ông đem đến.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết thêm: “Bài báo đã nói đến những cống hiến của Hồ Chủ Tịch đối với cách mạng Việt Nam và nêu ý nghĩa lớn của ngày 19-5”.
“Lần đầu tiên toàn dân tộc Việt Nam được biết ngày sinh của Hồ Chủ tịch”(Võ Nguyên Giáp, sđd, tr.279)
Thiery D’Argenlieu đến thủ đô Hà Nội chúc mùng Hồ Chủ tịch
Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể tiếp: 6 giờ chiều hôm đó 18-5-1946, D’Argenlieu cùng tướng Valluy và Grepin đến Bắc Bộ để chào Hồ Chủ tịch
Cụ Huỳnh, cụ Tô và một vài anh em chúng tôi cùng dự buổi tiếp khách với Bác. Khi nâng cốc chúc mừng ông Cao Uỷ, Bác nói: “Thủ đô của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà mới lấy làm sung sướng được đón tiếp người thay mặt nước Pháp. Sau cuộc hội thương tại vịnh Hạ Long, hội nghị trù bị diễn ra ở Đà Lạt và cuộc giao hảo của phái đoàn Quốc hội Việt Nam với Quốc hội Pháp tại Raris, hôm nay với việc ngài đến thăm Hà Nội, cuộc bang giao Việt Pháp chắc chắn sẽ có bước phát triển mới”
Mỗi chữ mỗi câu Bác dùng nói lên một lập trường, lời chào trở thành tuyên bố. D’Argenlieu không còn cách nào khác là đáp lễ lại: “Ngày mai là ngày sinh nhật của Hồ Chủ tịch, tôi xin chúc mừng Chủ tịch thượng thọ, và tôi tin rằng từ đây tình thân thiện của nước Pháp và nước Việt Nam sẽ càng ngày càng chặt chẽ thêm và càng thân mật hơn nữa” (Võ Nguyên Giáp, sđd, tr.280). Mục tiêu của việc tổ chức lễ sinh nhật đã đạt được, buổi gặp gỡ hôm đó đã biến thành buổi lễ mừng thọ Hồ Chủ tịch D’Argenlieu, trả lời, không thực hiện được ý định của mình.
Quang cảnh ngày sinh nhật: Cuộc thị uy của “chí nhân”, của “đại nghĩa”
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tả lại quang cảnh ngày 19-5-1946:
“Sáng ngày 19-5, các đồng chí trong Trung ương và trong Chính phủ tới chúc thọ Bác. Đây cũng là một dịp hiếm hoi mà chúng tôi được quây quần bên Bác đầy đủ đúng ngày sinh nhật của Người. Rồi những tiếng trống ếch rộn ràng trước cửa Bắc bộ phủ. Các cháu đã tới. Bác Hồ ra đón các cháu vào, hơn một chục em bé gái trai thay mặt cho toàn thể thiếu nhi ngoại thành đến chúc thọ Bác. Các em đua nhau gắn Huy hiệu Măng non thẳng lên áo Bác Hồ, tặng Bác những chứ “i”, “t” tượng trưng cho phong trào “bình dân học vụ”. Quà của Bác Hồ cho các cháu bé năm đó là một cây bách tán. Các em vui mừng hát một bài cảm ơn cảm ơn Bác. Khi các em vào khênh chậu cây bách tán đi ra thì một đoàn hơn 50 anh chị bước vào phòng. Các anh đều mặc áo kaki, các chị vận quần áo bà ba đen. Đây là những người thay mặt cho miền Nam đang chiến đấu tới chúc thọ Bác. Sau khi nghe lời chúc mừng của các anh chị, hai giọt lệ chảy trên gò má Bác, các anh chị Nam bộ đều rưng rưng nước mắt. Lát sau Ban vận động trung ương Đời sống mới vừa được thành lập đến chúc thọ Bác…”(Võ Nguyên Giáp, sđd, tr.280).
Cũng ngày hôm đó phóng viên các hãng thông tấn Pháp AFP phỏng vấn Bác và Bác đã tiếp. Và theo báo Cứu Quốc số 244 ra ngày 20-5-1946, thì sáng ngày 19-5 lực lượng thanh niên đã tuần hành thị uy chúc thọ Bác Hồ, việc đó làm cho các đại biểu đồng minh thấy rõ uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và kỷ niệm ngày sinh của Bác Hồ có ý nghĩa lịch sử và tình cảm biết bao” (Trần Viết Hoàn, sđd, tr.10).
Các đại biểu đồng minh đó là ai, nếu không phải Thiery D’Argenlieu và phái đoàn Pháp đang ở Hà Nội. Lúc đó chưa có truyền hình trực tiếp, nhưng qua báo chí, đài, hãng thông tấn và cơ quan tình báo của Pháp, không có gì mà không tới tai mắt Thiery D’Argenlieu. Thiery D’Argenlieu còn ở lại Hà Nội đến 22 tháng 5, và thất vọng trở lại Sài Gòn.

V. 60 năm nhìn lại
Nhìn lại các sự kiện mấy ngày đó mới thấy hết ý nghĩa của ngày 19-5-1946. Ngày 13-5 hội nghị Đà Lạt kết thúc không đem lại kết quả gì vì đại biểu Pháp không thành thực. Mặc dù Thiery D’Argenlieu tìm cách cản trở nhưng Hồ Chủ tịch quyết định phải lên đường ngày 31 tháng 5 như đã dự kiến qua cuộc gặp gỡ tại vịnh Hạ Long. Thời gian quá gấp rút phải cho phía Pháp biết quyết tâm của Việt Nam. Chỉ trong hai ngày 16,17, Hồ Chí Minh đã nắm lại thế chủ động, quyết định lấy ngày sinh của mình làm phương tiện đấu tranh ngoại giao: Sáng ngày 18-5 cho báo chí loan tin ngày 19-5 là ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh. D’Argenlieu vừa chân ướt chân ráo trở lại Hải Phòng, được tin phía Việt Nam tổ chức ngày lễ sinh nhật Hồ Chí Minh, mà Hồ Chí Minh thừa biết theo truyền thống của Pháp, sinh nhật là một ngày quan trọng. Không biết cách xử trí nào hơn là D’Argenlieu lên Hà Nội chiều ngàu 18 cùng cả Đoàn đến mừng ngày sinh Hồ Chí Minh tại thủ đô Hà Nội và chứng kiến việc biểu dương sức mạnh của chính nghĩa, của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Chỉ có Hồ Chí Minh mới ứng biến nhanh như thế, chỉ có thể chính từ sáng kiến đó, cách đối phó đặc biệt đó mà 12 ngày sau, trước lúc lên máy bay đi Pháp, Hồ Chí Minh đã đưa ra cho cụ Huỳnh Thúc Kháng một nguyên tắc làm việc (vì cụ Huỳnh rất lo lắng khi Cụ Hồ vắng thì làm sao mà đối phó được với thời cuộc). Nguyên tắc đó là: dĩ bất biến ứng vạn biến. Trong trường hợp này cái không thay đổi đó là độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, còn cách làm, cách đấu tranh có thể muôn hình vạn trạng.
Chỉ có Hồ Chí Minh, trong những lúc khó khăn như thế, mà vẫn giữ được những nguyên tắc và tính cách chân lý cơ bản trong cuộc sống cho cá nhân, cũng như toàn dân tộc. Đó là:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo”của Bình Ngô Đại Cáo.
Càng tìm hiểu càng thấy hai mẫu người, một người đại diện cho đại nghĩa, cho “chí nhân”; một người đại diện cho “hung tàn”, “cho “cường bạo”.
Hai con người, hai con đường
Thiery D’Argenlieu, dưới cái nhìn của Võ Nguyên Giáp, “Có cặp mắt nhỏ sác sảo, tinh ranh nằm dưới vầng trán đầy nếp nhăn, và đôi môi mỏng dính. Ngồi với y một lát đã thấy ngay y là một con người từng trải và xảo quyệt, tự phụ và nhỏ nhen, một con người như vậy chỉ có thể là con người của dĩ vãng, của chính sách thực dân” (Võ Nguyên Giáp, sđd, t. 272).
Còn Hồ Chí Minh dưới con mắt của Sainteney, người đại diện Pháp ký Hiệp định sơ bộ 6-3, thì: “Từ khi gặp ông Hồ Chí Minh lần đầu tiên, tôi đã cảm tưởng con người khổ hạnh đó mà nét mặt biểu lộ trí thông minh và nghị lực, lẫn mưu trí và tế nhị, là một người siêu đẳng… Kiến thức rộng rãi, trí thông minh cùng với sức hoạt động lạ lùng, khả năng chịu đựng mọi gian khổ và lòng vị tha không bờ bến của ông đã đem đến cho Ông uy tín và sức thuyết phục không ai có thể so sánh nổi. Thật đáng tiếc là nước Pháp đã đánh giá quá thấp con người ấy, đã không hiểu được giá trị và sức mạnh của bậc vĩ nhân ấy” (Vũ Kỳ, sđd, t. 34 – 35).
Quả thế, trong lúc Thiery D’Argenlieu tin tưởng vào sức mạnh vũ khí, của mưu mô, thì Hồ Chí Minh lại tin vào chính nghĩa, tin vào sức mạnh của nhân dân. Chính như thế Hồ Chí Minh dẫu có gặp gian lao khó khăn trong hoạt động thì vẫn đạt kết quả cuối cùng: Xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, độc lập với thủ đô Hà Nội, còn con đường Thiery D’Argenlieu dẫu có dùng biết bao nhiêu là tiền của, là khí giới, mà kết quả là dẫn đến Điện Biên Phủ năm 1954.
Ngày 19-5-1946 như thế không chỉ là ngày kỷ niệm mà là một ngày sinh nhật mới, đánh dấu một chặng đường mới trong quá trình đấu tranh thu hồi lại cho quê hương nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ đã bị đánh mất gần 80 năm.
60 năm rồi càng nhìn lại, càng tìm hiểu, càng thấy tầm quan trọng và ý nghĩa của ngày 19-5-1946. Có nghĩa là còn có cả một kho tàng nơi con người và cuộc đời Hồ Chí Minh. Tha hồ mà khám phá./.
Paris tháng Năm, năm 2006

Tài liệu tham khảo:
1. William J.Duiker, Hồ Chí Minh, New York 2000, bản dịch tiếng việt
2. Daniel Hemery, Hồ Chí Minh, Từ Đông Dương đến Việt Nam, Lê Toàn dịch, NXB Phụ nữ 2004
3. TS Trần Viết Hoàn, Nhớ mừng ngày sinh Bác Hồ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nộih 2005
4. Philippe Devillers, Histoire du Vietnam, Paris 1982
5. Trịnh Quang Phú, Đường Bác Hồ đi cứu nước, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội
...............................
(*): Đây là bài viết của cố tiến sỹ- linh mục Nguyễn Đình Thi, nguyên Chủ tịch Hội Huynh đệ Á - Âu, Hội Huynh đệ Việt nam tại Pháp. Đương thời, ông là một người yêu nước, một nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa có nhiều đóng góp cho công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Ông đã được Nhà nước ta tặng Huân chương Độc lập.

Nguồn: vanhoanghean.com.vn
 
Last edited:
Top Bottom