- 29 Tháng mười 2018
- 3,304
- 4,365
- 561
- TP Hồ Chí Minh
- THCS Nguyễn Hiền
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
Mạc Đĩnh Chi là người làng Lũng Động, huyện Chí Linh (nay thuộc xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông có tướng mạo xấu xí nhưng trí tuệ thông minh. Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi lấy 44 người đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Mạc Đĩnh Chi đỗ đầu, chiếm học vị trạng nguyên. Ông được cử giữ việc coi sóc thư khố của nhà vua, rồi chức Tả bộc xạ.
Đặc biệt, ông đã có hai lần được triều đình cử đi sứ Trung Quốc. Trong cả hai chuyến đi này, ông đã dùng tài năng và phẩm chất thông minh của mình khiến người nước ngoài phải khâm phục. Và sau hai lần tiếp xúc, vua nhà Nguyên đã cảm phục tài và đức của Mạc Đĩnh Chi rồi phong cho ông là “Lưỡng quốc Trạng nguyên” (trạng nguyên hai nước) và chữ do chính tay hoàng đế nhà Nguyên viết.
Trong lịch sử bang giao giữa các triều đại phong kiến Việt Nam và phong kiến Trung Quốc đã có không ít những câu chuyện đối đáp nảy lửa của sứ thần Việt Nam ở triều đình Trung Quốc. Dưới đây xin kể lại câu chuyện của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đời Trần trong lần làm chánh sứ sang nhà Nguyên. Trong sách “Các ông trạng Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh có đoạn ghi lại rằng:
Trong chuyến đi sứ nhà Nguyên lần thứ nhất vào năm 1308, một lần Mạc Đĩnh Chi đến nhà viên thừa tướng triều Nguyên chơi. Nhân trong lúc gặp gỡ, viên thừa tướng nọ ra một vế đối:
- “An khử nữ dĩ thỉ vi gia. Nghĩa đen của vế đối này là ở chỗ chữ An bỏ bộ Nữ và thêm bộ Thỉ vào thành chữ Gia, nhưng nghĩa bóng của nó là ý nước Nguyên nhất quyết muốn xóa bỏ nước An Nam để nhập thành châu huyện của họ.
Ngay lúc đó, Mạc Đĩnh Chi đối lại rất sắc bén rằng:
- “Tù xuất nhân, lập vương thành quốc”. Nghĩa đen của vế đáp là ở chữ Tù bỏ đi chữ Nhân, thêm chữ Vương vào thành chữ Quốc. Nghĩa bóng của câu này là dân nước Đại Việt nhất định xóa bỏ ách áp bức của các thế lực xâm lược để xây dựng một quốc gia độc lập tự chủ.
Vua Nguyên phê câu đối hay, con cháu sau này sẽ có người làm vua nhưng chỉ nhắc có một chữ quốc thôi nên làm không được dài.
Trong cuốn sách các sứ thần Việt Nam cũng có nêu câu chuyện về vế đối khác của Mạc Đĩnh Chi với vua Nguyên. Sách này viết rằng ngay trong ngày đầu vào bệ kiến, vua Nguyên muốn đích thân thử tài Mạc Đĩnh Chi và nhân thể dò khí tiết của ông nên ra câu đối:
- “Nhật hỏa vân yên bạch đản thiêu tàn ngọc thỏ”. Nghĩa của vế đối này là mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng.
Biết vua Nguyên kiêu căng, tự coi mình là mặt trời và coi Đại Việt như mặt trăng, ban ngày phải bị mặt trời thôn tính và ngay lúc đó, Mạc Đĩnh Chi thấy cần phải tỏ rõ thái độ của mình. Hơn thế, phải khẳng định nước Đại Việt ở thế thắng nên ứng khẩu đọc vế đối rằng:
- “Nguyệt cung tinh đạn hoàng hôn xạ lạc kim ô”. Câu này có nghĩa là trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời.
Vế đối rất chỉnh mà cũng đầy khí phách của kẻ vừa chiến thắng 3 lần liền khiến vua Nguyên rất đau đớn nhưng cũng không làm sao được đành phục tài viên sứ thần Đại Việt.
Người Nguyên phán rằng, con cháu sau này ắt có người cướp ngôi.
Không chịu thôi quan lại nhà Nguyên quay sang chê hình thức xấu xí của Mạc Đĩnh Chi. Họ ra vế đối: Ly, Mỵ, Võng, Lượng - Tứ tiểu quỷ ( Ly, Mỵ, Võng, Lượng - 4 chú quỷ nhỏ ) ý chê Mạc Đĩnh xấu như quỷ. Chẳng ngờ, nhận đề xong, cụ Mạc không suy nghĩ, đọc ngay vế đố: Cầm, Sắt, Tỳ, Bà - Bát đại vương (cầm sắt tì bà - 8 đại vương) Ý muốn nói là bọn mày đừng nhìn bề ngoài mà khinh người, trông thế thôi nhưng anh là bấc đại vương đấy.
Vua Nguyên, khen vế đối hay và phê rằng: Sau này sẽ được đời sau thờ cúng theo bậc đế vương.
Qủa là đúng sau này. Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1527), lập ra nhà Mạc và tôn ông tổ 7 đời Mạc Đĩnh Chi là Kiến thủy Khâm minh Văn Hoàng đế và lập đền thờ, lấy nhà cũ của ông làm điện Sùng Đức, đặt lê các quan lại khi đi qua đây đều phải vào bái lễ/
Đặc biệt, ông đã có hai lần được triều đình cử đi sứ Trung Quốc. Trong cả hai chuyến đi này, ông đã dùng tài năng và phẩm chất thông minh của mình khiến người nước ngoài phải khâm phục. Và sau hai lần tiếp xúc, vua nhà Nguyên đã cảm phục tài và đức của Mạc Đĩnh Chi rồi phong cho ông là “Lưỡng quốc Trạng nguyên” (trạng nguyên hai nước) và chữ do chính tay hoàng đế nhà Nguyên viết.
Trong lịch sử bang giao giữa các triều đại phong kiến Việt Nam và phong kiến Trung Quốc đã có không ít những câu chuyện đối đáp nảy lửa của sứ thần Việt Nam ở triều đình Trung Quốc. Dưới đây xin kể lại câu chuyện của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đời Trần trong lần làm chánh sứ sang nhà Nguyên. Trong sách “Các ông trạng Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh có đoạn ghi lại rằng:
Trong chuyến đi sứ nhà Nguyên lần thứ nhất vào năm 1308, một lần Mạc Đĩnh Chi đến nhà viên thừa tướng triều Nguyên chơi. Nhân trong lúc gặp gỡ, viên thừa tướng nọ ra một vế đối:
- “An khử nữ dĩ thỉ vi gia. Nghĩa đen của vế đối này là ở chỗ chữ An bỏ bộ Nữ và thêm bộ Thỉ vào thành chữ Gia, nhưng nghĩa bóng của nó là ý nước Nguyên nhất quyết muốn xóa bỏ nước An Nam để nhập thành châu huyện của họ.
Ngay lúc đó, Mạc Đĩnh Chi đối lại rất sắc bén rằng:
- “Tù xuất nhân, lập vương thành quốc”. Nghĩa đen của vế đáp là ở chữ Tù bỏ đi chữ Nhân, thêm chữ Vương vào thành chữ Quốc. Nghĩa bóng của câu này là dân nước Đại Việt nhất định xóa bỏ ách áp bức của các thế lực xâm lược để xây dựng một quốc gia độc lập tự chủ.
Vua Nguyên phê câu đối hay, con cháu sau này sẽ có người làm vua nhưng chỉ nhắc có một chữ quốc thôi nên làm không được dài.
Trong cuốn sách các sứ thần Việt Nam cũng có nêu câu chuyện về vế đối khác của Mạc Đĩnh Chi với vua Nguyên. Sách này viết rằng ngay trong ngày đầu vào bệ kiến, vua Nguyên muốn đích thân thử tài Mạc Đĩnh Chi và nhân thể dò khí tiết của ông nên ra câu đối:
- “Nhật hỏa vân yên bạch đản thiêu tàn ngọc thỏ”. Nghĩa của vế đối này là mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng.
Biết vua Nguyên kiêu căng, tự coi mình là mặt trời và coi Đại Việt như mặt trăng, ban ngày phải bị mặt trời thôn tính và ngay lúc đó, Mạc Đĩnh Chi thấy cần phải tỏ rõ thái độ của mình. Hơn thế, phải khẳng định nước Đại Việt ở thế thắng nên ứng khẩu đọc vế đối rằng:
- “Nguyệt cung tinh đạn hoàng hôn xạ lạc kim ô”. Câu này có nghĩa là trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời.
Vế đối rất chỉnh mà cũng đầy khí phách của kẻ vừa chiến thắng 3 lần liền khiến vua Nguyên rất đau đớn nhưng cũng không làm sao được đành phục tài viên sứ thần Đại Việt.
Người Nguyên phán rằng, con cháu sau này ắt có người cướp ngôi.
Không chịu thôi quan lại nhà Nguyên quay sang chê hình thức xấu xí của Mạc Đĩnh Chi. Họ ra vế đối: Ly, Mỵ, Võng, Lượng - Tứ tiểu quỷ ( Ly, Mỵ, Võng, Lượng - 4 chú quỷ nhỏ ) ý chê Mạc Đĩnh xấu như quỷ. Chẳng ngờ, nhận đề xong, cụ Mạc không suy nghĩ, đọc ngay vế đố: Cầm, Sắt, Tỳ, Bà - Bát đại vương (cầm sắt tì bà - 8 đại vương) Ý muốn nói là bọn mày đừng nhìn bề ngoài mà khinh người, trông thế thôi nhưng anh là bấc đại vương đấy.
Vua Nguyên, khen vế đối hay và phê rằng: Sau này sẽ được đời sau thờ cúng theo bậc đế vương.
Qủa là đúng sau này. Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1527), lập ra nhà Mạc và tôn ông tổ 7 đời Mạc Đĩnh Chi là Kiến thủy Khâm minh Văn Hoàng đế và lập đền thờ, lấy nhà cũ của ông làm điện Sùng Đức, đặt lê các quan lại khi đi qua đây đều phải vào bái lễ/