Sử 11 Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9/1939 đến tháng 5/1945

Mộ Dung Thu Vũ

Cựu Mod Sử
Thành viên
25 Tháng hai 2022
1,024
6
758
166
Lào Cai
Lào Cai
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 - 1939

Tháng 11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Bà Điểm (Hóc Môn) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì, xác định:

- Nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc ở Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.

- Chủ trương:

+ Tạm gác lại khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa chủ, phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng.

+ Thay khẩu hiệu “Thành lập chính quyền Xô Viết công nông binh” bằng khẩu hiệu “Chính phủ dân chủ cộng hòa”.

- Về phương pháp đấu tranh: Đảng chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp.

- Đưa ra chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương.

- Ý nghĩa:


+ Đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước.

+ Bước đầu khắc phục được hạn chế Luận cương về vấn đề xác định nhiệm vụ của cách mạng.

2. Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kỳ mới

a. Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940)


- Ý nghĩa: mở đầu phong trào đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc, Đảng rút ra những bài học quý báu về khởi nghĩa vũ trang, chọn thời cơ khởi nghĩa.

b. Khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940)

- Ý nghĩa: Chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân Nam Bộ, sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống quân thù.

c. Binh biến Đô Lương (13/01/1941)

- Ý nghĩa :

+ Thể hiện tinh thần yêu nước của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp.

+ Trong ba tháng, ba cuộc nổi dậy nối tiếp nổ ra ở ba miền của đất nước, do nhiều tầng lớp nhân dân và binh lính tham gia, nêu cao tinh thần bất khuất của dân tộc.

d. Nhận xét, nguyên nhân, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm

- Các cuộc nổi dậy đã thất bại vì điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, nhưng “đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương”.

- Nguyên nhân thất bại :


+ Nổ ra chưa đúng thời cơ: Pháp còn tương đối mạnh.

+ Lực lượng cách mạng chưa được tổ chức và chuẩn bị đầy đủ.

+ Điều kiện chưa chín muồi.

- Ý nghĩa:

Nêu cao tinh thần anh dũng, bất khuất của nhân dân Việt Nam, giáng những đòn mạnh vào thực dân Pháp và nghiêm khắc cảnh cáo phát xít Nhật. Các cuộc khởi nghĩa đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc. Là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương.

- Bài học kinh nghiệm:

+ Bài học về khởi nghĩa giành chính quyền phải được chuẩn bị chu đáo và đúng thời cơ.

+ Bài học về khởi nghĩa vũ trang, về xây dựng lực lượng vũ trang và chiến tranh du kích, trực tiếp chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám.

3. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghị lần 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (05/1941)

- Hoàn cảnh: Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, triệu tập Hội nghị 8 tại Pác Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 đến 19/5/1941.

- Nội dung hội nghị:

Hội nghị đã xác định những vấn đề quan trọng:

+ Giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh là nhiệm vụ “bức thiết nhất”; tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ thực hiện khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công.

+ Quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng. Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng. Đến ngày 19/5/1941 Mặt trận Việt Minh ra đời. Chương trình cứu nước của Mặt trận được đông đảo nhân dân hưởng ứng.

+ Đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng toàn dân; chỉ rõ một cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi phải có đủ điều kiện chủ quan, khách quan và phải nổ ra đũng thời cơ; đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa.

- Ý nghĩa:

+ Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược giải phóng dân tộc được đề ra tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939.

+ Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đồng thời khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương Chính trị tháng 10/1930.

+ Hội nghị đánh dấu sự trở về tư tưởng độc lập dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh được đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

+ Là sự chuẩn bị về đường lối và phương pháp cách mạng cho thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

4. Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền

a. Xây dựng lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang

- Xây dựng lực lượng chính trị:


+ Nhiệm vụ cấp bách là vận động quần chúng tham gia Việt Minh. Cao Bằng là nơi thí điểm xây dựng các Hội Cứu quốc vì đây là nơi có lực lượng chính trị được tổ chức và phát triển sớm.

+ Năm 1942, khắp các châu ở Cao Bằng đều có Hội Cứu quốc, trong đó có ba châu hoàn toàn, Ủy ban Việt Minh tỉnh Cao bằng và liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng được thành lập.

+ Ở miền Bắc và miền Trung, các “Hội phản đế” chuyển sang các “Hội cứu quốc”, nhiều “Hội cứu quốc” mới được thành lập.

+ Năm 1943, Đảng đưa ra bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” và vận động thành lập Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam (cuối 1944) và Đảng dân chủ Việt Nam đứng trong Mặt trận Việt Minh(6/1944).

+ Sự ra đời của Hội Văn hoá Cứu quốc Việt Nam (1944) là một minh chứng cho sự thành công trong thực tế của chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Đồng thời, thể hiện tình thần dân tộc của những người hoạt động trên lĩnh vực văn hoá.

+ Đảng cũng tăng cường vận động binh lính Việt và ngoại kiều Đông Dương chống phát xít.

- Xây dựng lực lượng vũ trang:

+ Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, đội du kích Bắc Sơn thành lập, hoạt động tại căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai.

+ Năm 1941, các đội du kích Bắc Sơn thống nhất thành Trung đội Cứu quốc quân số I (14-2-1941), phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng.

+ Ngày 15/9/1941, Trung đội Cứu quốc quân II ra đời.

- Xây dựng căn cứ địa cách mạng:

Hai căn cứ địa đầu tiên của cách mạng nước ta là: Bắc Sơn – Võ Nhai và Cao Bằng

+ Hội nghị Trung ương 11/1940 xây dựng Bắc Sơn – Võ Nhai thành căn cứ địa cách mạng .

+ Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa dựa trên cơ sở lực lượng chính trị và tổ chức phát triển.

b. Gấp rút chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền

- Từ đầu năm 1943, Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công quân Đức, sự thất bại của phe phát xít đã rõ ràng phải đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị khởi nghĩa.

- Tháng 02/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông Anh - Phúc Yên) vạch ra kế hoạch chuẩn bị toàn diện cho khởi nghĩa vũ trang:

+ Khắp nông thôn, thành thị miền Bắc, các đoàn thể Việt Minh, các Hội Cứu quốc được xây dựng và củng cố.

+ Ở căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, Trung đội cứu quốc quân III ra đời (25/02/1944).

+ Ở căn cứ Cao Bằng, các đội tự vệ vũ trang, đội du kích thành lập.

+ Năm 1943, 19 ban xung phong Nam tiến được lập ra để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và phát triển lực lượng xuống miền xuôi.

+ Ngày 07/05/1944: Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “sửa soạn khởi nghĩa”.

+ Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập. Hai ngày sau, đội thắng hai trận Phay Khắt và Nà Ngần. Tháng 5/1945 hai đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quânCứu Quốc Quân hợp thành Việt Nam Giải phóng Quân.

+ Công cuộc chuẩn bị được tiếp tục cho đến trước ngày Tổng khởi nghĩa
 
Top Bottom