Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
Nêu hoàn cản, diễn biến và ý nghĩa của phong trào Cần Vương
- Hoàn cảnh: sau khi triều đình nhà Nguyễn kí hai Hiệp ước Hác-măng(1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884) thì phái chủ chiến trong triều đình Huế vẫn nuôi hi vọng giành lại quyền thống trị từ tay Pháp, nên học đã tích cực xây dựng lưu lượng, chuẩn bị vũ khí, đưa Hàm Nghi lên ngôi vua để chuẩn bị phản công. Điều đó làm cho Pháp lo sợ tìm cách tiêu diệt phe chủ chiến.
Đêm mùng 4 rặng sáng ngày 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tấn công quân Pháp ở toà Khâm Sứ và đồn Mang Cá nhưng bị thất bại. Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở( Quảng Trị)
Tại đây, ngày 13-7-1885, ông nhân danh vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân, nhân dân đứng lên giúp vua cứu nước . Từ đây 1 phong trào yêu nước chống Pháp đã dâng cao sôi nổi và kéo dài đến cuối TK XIX được gọi là "phong trào Cần Vương"
- Diễn biến: chia làm hai giai đoạn
Giai đoạn 1: 1885-1888:
Hưởng ứng lời kêu gọi chiếu Cần Vương, nhiều văn thân, sĩ phu và nhân dân yêu nước đứng lên, tập hợp các nghĩa binh, xây dựng căn cứ khởi nghĩa. Họ đấu tranh mạnh mẽ quyết liệt trước thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai trên các địa bàn rộng lớn thuộc Bắc và Trung Kì. Nhiều tướng lĩnh đã tham gia chỉ huy như Phan Đình Phùng, Trần Xuân Soạn, Phàm Bành,..
Triều đình Hàm Nghi với sự phò tá trợ giúp của Tôn Thất Đàm và Tôn Thất Nghiệp (là hai người con của Tôn Thất Thuyết). Dưới sự đàn áp của thực dân Pháp, vua Hàm Nghi phải rút lui và chiến đấu ở vùng núi Quảng Bình, sau đó lui về Ấu Sơn (Hà Tĩnh).
Tháng 6/1886, Triều đình Đồng Khánh của thực dân Pháp theo lệnh toàn quyền Pháp xuống dụ kêu hàng. Thế nhưng, không ai trong triều đình Hàm Nghi chịu đầu hàng buông súng.
Trong giai đoạn này, các cuộc đấu tranh chỉ dừng lại ở phạm vi nhất định, còn riêng lẻ. Các cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra ở hầu hết các vùng Bắc Kì và Trung Kì.Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt và đày đi Angieri. Phong trào Cần Vương giai đoạn thứ nhất kết thúc.
Giai đoạn II (1888 – 1896):
Từ cuối năm 1888, mặc dù không còn sự lãnh đạo trực tiếp từ triều đình nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục diễn ra. Nhiều văn thân, sĩ phu yêu nước đứng lên lãnh đạo và phát triển thành nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, với tổ chức cao hơn.Một số cuộc khởi nghĩa lớn tiêu biểu đã diễn ra như: cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy,…
Trong giai đoạn này, nhiều cuộc khởi nghĩa lớn đã nổ ra nhưng thực dân Pháp cũng tăng cường lực lượng truy quét. Do đó, để duy trì và phát triển, các nghĩa quân phải liên tục di chuyển địa bàn hoạt động, từ đồng bằng lên vùng trung du và miền núi.
Phong trào Cần Vương giai đoạn này vẫn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự thống nhất giữa các cuộc khởi nghĩa lớn. Tính địa phương của các khởi nghĩa dẫn đến sự thiếu lãnh đạo và liên kết. Các cuộc khởi lần lượt thất bại dưới sự đàn áp liên tục của quân đội Pháp.Năm 1896, phong trào Cần Vương kết thúc.
-Ý nghĩa: mặc dù đều thất bại xong các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương đã nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu kiên cường, quật khởi của nhân dân ta, làm cho Pháp bị tổn thất nặng nề
Các cuộc khởi nghĩa tuy thấy bại nhưng đã tạo tiền đề vững chắc cho các cuộc đấu tranh về sau
Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào cho thấy vai trò lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước trong lịch sử đâú tranh của dân tộc
- Hoàn cảnh: sau khi triều đình nhà Nguyễn kí hai Hiệp ước Hác-măng(1883) và Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884) thì phái chủ chiến trong triều đình Huế vẫn nuôi hi vọng giành lại quyền thống trị từ tay Pháp, nên học đã tích cực xây dựng lưu lượng, chuẩn bị vũ khí, đưa Hàm Nghi lên ngôi vua để chuẩn bị phản công. Điều đó làm cho Pháp lo sợ tìm cách tiêu diệt phe chủ chiến.
Đêm mùng 4 rặng sáng ngày 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tấn công quân Pháp ở toà Khâm Sứ và đồn Mang Cá nhưng bị thất bại. Tôn Thất Thuyết phải đưa vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở( Quảng Trị)
Tại đây, ngày 13-7-1885, ông nhân danh vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân, nhân dân đứng lên giúp vua cứu nước . Từ đây 1 phong trào yêu nước chống Pháp đã dâng cao sôi nổi và kéo dài đến cuối TK XIX được gọi là "phong trào Cần Vương"
- Diễn biến: chia làm hai giai đoạn
Giai đoạn 1: 1885-1888:
Hưởng ứng lời kêu gọi chiếu Cần Vương, nhiều văn thân, sĩ phu và nhân dân yêu nước đứng lên, tập hợp các nghĩa binh, xây dựng căn cứ khởi nghĩa. Họ đấu tranh mạnh mẽ quyết liệt trước thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai trên các địa bàn rộng lớn thuộc Bắc và Trung Kì. Nhiều tướng lĩnh đã tham gia chỉ huy như Phan Đình Phùng, Trần Xuân Soạn, Phàm Bành,..
Triều đình Hàm Nghi với sự phò tá trợ giúp của Tôn Thất Đàm và Tôn Thất Nghiệp (là hai người con của Tôn Thất Thuyết). Dưới sự đàn áp của thực dân Pháp, vua Hàm Nghi phải rút lui và chiến đấu ở vùng núi Quảng Bình, sau đó lui về Ấu Sơn (Hà Tĩnh).
Tháng 6/1886, Triều đình Đồng Khánh của thực dân Pháp theo lệnh toàn quyền Pháp xuống dụ kêu hàng. Thế nhưng, không ai trong triều đình Hàm Nghi chịu đầu hàng buông súng.
Trong giai đoạn này, các cuộc đấu tranh chỉ dừng lại ở phạm vi nhất định, còn riêng lẻ. Các cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra ở hầu hết các vùng Bắc Kì và Trung Kì.Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt và đày đi Angieri. Phong trào Cần Vương giai đoạn thứ nhất kết thúc.
Giai đoạn II (1888 – 1896):
Từ cuối năm 1888, mặc dù không còn sự lãnh đạo trực tiếp từ triều đình nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục diễn ra. Nhiều văn thân, sĩ phu yêu nước đứng lên lãnh đạo và phát triển thành nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, với tổ chức cao hơn.Một số cuộc khởi nghĩa lớn tiêu biểu đã diễn ra như: cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy,…
Trong giai đoạn này, nhiều cuộc khởi nghĩa lớn đã nổ ra nhưng thực dân Pháp cũng tăng cường lực lượng truy quét. Do đó, để duy trì và phát triển, các nghĩa quân phải liên tục di chuyển địa bàn hoạt động, từ đồng bằng lên vùng trung du và miền núi.
Phong trào Cần Vương giai đoạn này vẫn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự thống nhất giữa các cuộc khởi nghĩa lớn. Tính địa phương của các khởi nghĩa dẫn đến sự thiếu lãnh đạo và liên kết. Các cuộc khởi lần lượt thất bại dưới sự đàn áp liên tục của quân đội Pháp.Năm 1896, phong trào Cần Vương kết thúc.
-Ý nghĩa: mặc dù đều thất bại xong các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương đã nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu kiên cường, quật khởi của nhân dân ta, làm cho Pháp bị tổn thất nặng nề
Các cuộc khởi nghĩa tuy thấy bại nhưng đã tạo tiền đề vững chắc cho các cuộc đấu tranh về sau
Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào cho thấy vai trò lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước trong lịch sử đâú tranh của dân tộc