Văn 11 Phân tích văn 11

Kim Thị Thu

Học sinh
Thành viên
8 Tháng sáu 2018
66
103
21
23
Nam Định
Trung học phổ thông Trực Ninh B
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao:

Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Ông đi sâu khai thác hiện tượng người nông dân bị tha hóa, lâm vào bước đường cùng, bị cự tuyệt quyền làm người. Đồng thời, Nam Cao phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân khốn cùng ấy. Những sáng tạo của Nam Cao được kết tinh trong nhân vật Chí Phèo ở tác phẩm cùng tên.
________Bi kịch là gì ? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát (có thể dẫn đến cái chết). Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, bi kịch của lão Hạc, hay bi kịch của chị Dậu… nhưng bi kịch lạ lùng nhất là bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người” của Chí Phèo.
________Tác phẩm “ Chí Phèo” nổi bật lên không gian nghệ thuật đó là làng Vũ Đại- là nơi nhân vật sinh sống.Đây cũng là nơi xa phủ, xa tỉnh, không bị chính quyền dòm ngó. Ở nơi đây dân cùng trở thành miếng mồi béo bở, xảy ra mâu thuẫn gay gắt và quyết liệt giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Làng Vũ Đại cũng chính là không gian thu nhỏ, hoàn cảnh xã hội Việt Nam đen tối, cùng khổ trước cách mạng. Trong xã hội ấy, nổi bật lên là hình ảnh người nông dân bị tha hóa cả nhân hình và nhân tính đó là nhân vật Chí Phèo. Nam Cao từng viết: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối,nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.” Chính vì thế nhà văn đã đi sâu khai thác số phận người nông dân bần cùng hóa trẻ nên tha hóa, thể hiện giá trị hiện thực và sâu sắc của nhà văn Nam Cao.
________Mở đầu tác phẩm, Chí Phèo xuất hiện với tiếng chửi : “ Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao : đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Không ai lên tiếng cả. Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo.” Tiếng chửi ấy là tiếng chửi của 1 kẻ điên, 1 kẻ say, 1 kẻ bị đẩy ra ngoài rìa xã hội, không ai dây lời với hắn vì chẳng ai coi hắn là người .Cả làng Vũ Đại xa lánh,sợ hãi và ghê tởm Chí Phèo.. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo lại là “tiếng chó cắn lao xao”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa. Tiếng chửi tạo ấn tượng mạnh và hé lộ cuộc đời đầy cô đơn và bi kịch của Chí Phèo. Cũng chính tiếng chửi ấy đã mở ra quá khứ bất hạnh của Chí Phèo.
_______Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”. Chí Phèo không có họ hàng thân thích, cũng không có lấy một tấc đất cắm dùi.. Hắn còn chịu chung nỗi bất hạnh của cả làng Vũ Đại là cái đói, cái nghèo.Tuy nghèo khổ, cơ hàn nhưng đây lại là khoảng đời hạnh phúc nhất của Chí Phèo vì hắn được coi là con người, được cả làng vũ đại chấp nhận, đùm bọc và được sống cuộc đời lương thiện. Năm 20 tuổi, hắn trở thành một thanh niên khỏe mạnh, làm canh điền cho nhà Lí kiến rồi hắn có mơ ước giản dị, ấm áp là có 1 ngôi nhà, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quay tơ, có vốn liếng thì sắm dăm ba sào ruộng để làm. Như vậy trước khi đi ở tù Chí Phèo là con người hiền lành, chất phác, lương thiện. Nam Cao đã tìm và nhận ra phẩm chất tốt đẹp trong con người Chí Phèo qua đó cho thấy gòi bút đầy yêu thương, trân trọng của tác giả dành cho người nông dân trước cách mạng. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.
________Chí Phèo sau khi đi ở tù về thì bị nhà tù thực dân, xã hội thực dân nửa phong kiến cướp đi cả nhân hình và nhân tính. Đầu tiên là những biến đổi về ngoại hình, hắn còn không mang hình dáng của con người bình thường nữa “ Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như một thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Nam không miêu tả đơn thuần mà dường như ông đã dùng bút pháp điêu khắc nên 1 bức chân dung điển hình của một kẻ côn đồ ngang ngược, lưu manh nhất. Mọi chi tiết đều cho thấy sự tha hóa về nhân hình của Chí Phèo sau khi ở tù về.
_______Không chỉ bị tha hóa về nhân hình , mà Chí Phèo còn bị tha hóa cả về nhân tính, triền miên trong những cơn say rồi chửi bới, đập đầu, rạch mặt ăn vạ, tống tiền cường hào, đâm thuê chém mướn. Tác giả khắc họa tội ác của Chí Phèo ngày càng tăng tiến. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.
_______Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.Đồng thời, Nam Cao đã khái quát một hiện thực mang tính chất quy luật ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng: Người nông dân bị đẩy vào đường cùng sẽ quay trở lại chống trả bằng những hành động lưu manh , thậm chí họ bán rẻ nhân phẩm để giành lấy sự tồn tại. Quá trình tha hóa mãnh liệt của Chí Phèo đã tố cáo mạnh mẽ xã hội đã hủy hoại nhân tính con người.
________Mặc dù viết về sự tha hóa của người nông dân bằng ngòi bút rất hiện thực, nhưng Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Nam Cao đã để cho Chí Phèo gặp thị Nở- một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng. Họ tình cờ gặp nhau dưới đêm trăng ngoài bãi vắng. Con người xấu đến “ma chê quỉ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, khơi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Có nhà phê bình đã cho rằng: Thị Nở như một ngọn gió, một ngọn lửa thổi vào tâm hồn của Chí. Nếu là gió, gió sẽ thổi bay lớp tro tàn đang vây quanh anh. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt cháy lớp vỏ quỷ dữ để trả về cho anh một con người. Tác giả Nam Cao viết về sự tha hóa của con người với tất cả sự căm phẫn, uất hận ném vào xã hội nhưng với tình cảm yêu thương dành cho con người, nhà văn đã không đẩy những người như Chí Phèo vào bước đường cùng mà cho hắn một cơ hội để đổi đời. Nhà văn đã đãi cát tìm vàng để tìm ra cái bản chất người trong một kẻ bị tha hóa đến tận cùng mà để cho Chí Phèo quay trở lại làm người dân lương thiện khi gặp thị Nở.
______Nếu như ban đầu Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự chăm sóc ân cần và tình yêu chân thành, mộc mạc của Thị Nở đã làm thức tỉnh bản chất lương thiện tiềm ẩn trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành của Thị Nở đã tẩy ố đi men rượu, gột rửa những tội lỗi con người. Cháo hành có hương vị đặc biệt quá! Hương cháo là hương cuộc đời, hương tình yêu mà từ trước đến giờ chưa ai cho Chí cả, nó sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và mở đầu cho một mối thiên duyên. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn quen sống với một kiểu định nghĩa : Muốn có cái ăn hắn phải kêu làng, phải rạch mặt ăn vạ, hắn phải thực sự hóa thân vào con quỷ dữ… Mỗi miếng ăn hàng ngày của Chí đều có máu và nước mắt của những người dân lương thiện làng Vũ Đại. Nhưng hôm nay cái triết lý sống ấy của Chí dường như đã thay đổi, những gì hắn đã từng có giờ phản bội lại hắn trong hương cháo hành của Thị. … Bát cháo hành giản dị nhưng ấm áp tình người, nó giữ chân Chí Phèo đứng lại ở bờ của phần người.
_______Sau khi tỉnh rượu Chí Phèo nhận thức được cuộc sống xung quanh. Lần đầu kể từ khi đi ở tù về hắn không say : “ hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau 1 cơn say rất dài”. Hắn cảm nhận được những âm thanh của cuộc sống: “ tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chai gõ mái chèo đuổi cá.Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…Chao ôi là buồn!” Âm thanh cuộc sống này khiến ta liên tưởng đến tiếng sáo của đêm tình mùa xuân trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tiếng sáo đã lay động tiềm thức xa xôi của Mị, đánh thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một quá khứ đẹp tươi. Đó chính là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc làm nên chất thơ cho tác phẩm. Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí. “Nó như cơn gió thổi tung đám tro tàn nguội lạnh, như từng giọt nước nhỏ vào tâm hồn sỏi đá, cằn khô làm tan đi giá băng tâm hồn. Hơn hết, nó làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ :”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba người thân chẳng có - Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Hắn lo lắng cho hiện tại và tương lai khi tuổi già và bện tật cận kề. Hắn buồn, hắn đau đớn về cuộc đời mình và sợ hãi phải sống trong cô độc.
_______Cuộc gặp gỡ đã thay đổi cảm nhận, tư duy và biến đổi cảm xúc của Chí Phèo, đồng thời cũng biến con quỷ của làng Vũ Đại trở về con người bình thường. Đặc biệt hơn, cuộc gặp gỡ ấy đã khiến Chí Phèo cảm nhận được tình người, tình yêu. Từ cảm nhận được tình người Chí Phèo còn cảm nhận được tình yêu đôi lứa, Chí tỏ tình với thị : “ Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Tình cảm của Chí Phèo đối với thị Nở là tình yêu mộc mạc mà chân thành bởi mong muốn gắn bó và khát vọng có một gia đình đầm ấm. Lời cầu hôn không tình tứ như bao kẻ khác nhưng lại khiến cho trái tim chúng ta nghẹn ngào thương cảm. Nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!
_______Từ khát vọng hạnh phúc, Chí Phèo khao khát được trở lại làm người – người dân hiền lành ở làng Vũ Đại. Bản chất lương thiện của Chí Phèo không hề mất đi mà chỉ bị vùi lấp, chỉ cần có cơ hội sẽ bùng cháy trở lại, và cơ hội ấy chính là tình người, tình yêu nơi thị Nở. Qua đây, ta thấy người đọc không chỉ xót thương, đau đớn trước số phận của con người mà Nam Cao còn luôn đặt niềm tin vào con người, trân trọng khát vọng của họ. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
________Khát vọng hạnh phúc của Chí Phèo vô cùng mãnh liệt nhưng cánh của để hắn quay trở lại làm con người lương thiện vừa mở ra đã đóng sầm ngay trước mắt Chí Phèo khi hắn bị thị Nở từ chối. Cách từ chối của thị cũng thật buồn cười: thị ở với hắn 5 ngày, đến ngày thứ 6 thì thị chợt nhớ ra mình còn có một bà cô ở đời và bà cô ấy nội ngày hôm nay sẽ về nên thị nghĩ bụng “ hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Khi được hỏi thì bà cô thị Nở lồng lên, bà thấy nhục cho cha ông nhà bà, lấy ai không lấy nó lại lấy một thằng không cha không mẹ chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ. Bà gào lên như một con mẹ dại. Bà xỉa xói vào mặt con cháu gái 30 tuổi mà chưa trót đời. Bà bảo phắt nó: “ Đã nhịn được đến bằng này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo.” “Thị nghe thấy thế mà lộn ruột, nhưng thị biết cãi làm sao? Mà không cãi được thì giận giữ nổi lên đùng đùng. Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức ấy lên 1 người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi. Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng. Thị chống tay vào hang, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô. Thị hả hê lắm. Thị ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về”.
_______Mới đầu, Chí Phèo lắc lư cái đầu cười vì thấy thị thú vị quá. Chí tưởng thị nói đùa bởi hắn không thể tin được bao nhiêu tình cảm với thị, bao nhiêu khát vọng, mơ ước của hắn phút chốc lại tan thành mây khói. Sau đó, hắn hiểu ra là thị không nói đùa thì hắn ngồi ngẩn mặt, hắn bang hoàng nhận ra một sự thật đau đớn là hắn đã bị ruồng bỏ một cách phũ phàng. Cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo. Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Chí Phèo hụt hẫng, rơi vào vực thẳm của sự tuyệt vọng, hắn ôm mặt khóc rưng rức. Đây là những giọt nước mắt của đau khổ, của tuyệt vọng nhưng muộn màng.
_______Khi mất đi hạnh phúc, tình yêu thì nguy cơ tha hóa lại trở lại. Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi rượu không còn đủ sức để làm lu mờ lí trí con người thì nó sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí ấy. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe “thoang thoảng mùi cháo hành” rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức.. Rõ ràng hương vị của tình người đã thấm sâu vào tâm hồn Chí, khát vọng hạnh phúc không thể mất đi mà cứ vương vấn mãi. Chí Phèo say mèm và sách dao đi trả thù thị Nở và bà cô nhưng hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà đến thẳng nhà Bá kiến. Vì hắn say nhưng dường như sâu trong tiềm thức hắn biết ai là kẻ đã gây ra bất hạnh cho cuộc đời hắn chính là Bá kiến- giai cấp thống trị đương thời. Bá kiến đang ở nhà một mình, đau khổ vì bà tư, mà lại gặp đúng Chí Phèo say khướt, chuyên vòi tiền uống rượu thì lại càng bực. Tuy nhiên, cụ vẫn móc sẵn ra năm hào để đuổi hắn đi cho mau. Nhưng Chí Phèo cao giọng : “ tao không đến đây xin 5 hào. Tao muốn làm người lương thiện.” Khát vọng của Chí Phèo không còn âm ỉ cháy mà cất thành lời, thành tiếng. Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện ? Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến
______Cái chết của Bá kiến chứng tỏ sức mạnh vùng lên của những người nông dân dù là tự phát, liều lĩnh, manh động, nhưng cũng vô cùng mãnh liệt. Cái chết của Chí Phèo chứng tỏ khát khao trở về cuộc sống lương thiện còn cao hơn cả tính mạng. Đồng thời, cũng cho thấy khát vọng lương thiện của con người trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ là không thể thực hiện được. Qua cái chết của Chí Phèo tác giả Nam Cao đã tối cáo xã hội không chỉ đẩy người nông dân tới bước đường cùng mà còn đẩy họ đến cái chết đau đớn.
______Tác phẩm “ Chí Phèo” đã rất thành công khi xây dựng lên hình tượng nhân vật Chí Phèo- người nông dân bị tha hóa đến bước đường cùng. Bên cạnh đó tác phẩm còn thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, kết hợp giữa bút pháp hiện thực và nhân đạo đã giúp nhà văn vẽ lên hình tượng nhân vật một cách rõ nét, tinh tế. Với nhân vật Chí Phèo- con người vốn lương thiện nhưng bị xã hội làm cho tha hóa cả nhân hình và nhân tính, ông không bôi nhọ họ mà đi sâu vào khai thác đời sống nội tâm để khẳng định bản chất tốt đẹp sâu trong con người họ. Nhà văn Sê-khốp đã từng viết : “ Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tủy.” Nam Cao đã dành rất nhiều tình cảm yêu thương, xót xa cho nhân vật của mình, ông không để cho Chí Phèo luôn sống trong tăm tối, trong tội ác mà mở ra cho Chs một ánh sáng mới, một lối đi riêng. Đó là giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc của tác phẩm. Với kiểu nhân vật này đã làm cho tác phẩm của Nam Cao sống mãi cùng thời gian và đưa văn học hiện thực phát triển đế đỉnh cao rực rỡ nhất.
_______Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Tác phẩm Chí Phèo mãi mãi bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại. Có một nhà thơ đã từng viết rằng: “Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống – Nào có dài chi một kiếp người – Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách – Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai”. Vâng! Gần một thế kỉ qua, giá trị nghệ thuật và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, vượt qua gió bụi thời gian, đã chứng minh sức sống mạnh mẽ, bất hủ của nó.
 

Attachments

  • Phân tích tấn bi kịch của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao.docx
    26.2 KB · Đọc: 23
Last edited by a moderator:

Kim Thị Thu

Học sinh
Thành viên
8 Tháng sáu 2018
66
103
21
23
Nam Định
Trung học phổ thông Trực Ninh B
Phân tích bài thơ " Tự Tình 2" của Hồ Xuân Hương:

Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ xinh đẹp,tài năng và được người đời mệnh danh là “Bà chúa thơ nôm”.Các tác phẩm của bà phần lớn viết về số phận bất hạnh của người phụ nữ.Và “Tự tình” cũng mang nội dung như thế.Bài thơ là tiếng nói bày tỏ tấm lòng về số phận éo le,tình duyên trắc trở và khát vọng hạnh phúc của nhân vật trữ tình.
_____Tự tình được Hồ Xuân Hương viết vào khoảng cuối thế kỉ 18 khi các tập đoàn phong kiến chia bè,kết cánh,đất nước bị chia cắt đàng trong ,đàng ngoài,nhân dân bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng ,đặc biệt là người phụ nữ.Bài thơ bộc lộ nỗi buồn ,thất vọng trước số phận éo le,tình duyên ngang trái đồng thời là khát vọng hạnh phúc của nhân vật trữ tình,cũng là tâm trạng chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.Qua đây người đọc có thể cảm nhận được giá trị nhân đạo trong sáng tác của Hồ Xuân Hương. Mở đầu bài thơ là hoàn cảnh bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”​
_____Thời gian bộc lộ nỗi niềm tâm sự được nhắc tới trong câu thơ là “đêm khuya”-khoảng thời gian thường gợi buồn cho tâm hồn con người,đồng thời gợi sự tĩnh lặng của không gian.Trong không gian ấy,tiếng trống canh “văng vẳng” vang lên vừa nhấn mạnh bước đi của thời gian vừa nhấn mạnh không gian rộng lớn tĩnh lặng.Không gian bao la rộng lớn “nước non” cùng với âm thanh não nề của tiếng trống càng nhấn mạnh sự cô đơn,trơ trọi của nhân vật trữ tình.Từ “trơ”được đảo lên đầu câu thể hiện sự trơ gan,trơ lì “đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”,cho thấy sự ngang tàn,thách thức số phận trong cá tính của người phụ nữ.Câu thơ còn thành công khi sử dụng nghệ thuật đối giữa “hồng nhan” với “nước non” hay giữa cái nhỏ bé với không gian rộng lớn càng nhấn mạnh sự đơn độc,nhỏ bé của con người trong không gian bao la.Mặt khác,từ “hồng nhan” vốn dùng để chỉ nhan sắc yêu kiều của ng phụ nữ,lẽ ra phải được nâng niu trân trọng,nhưng trong câu thơ “hồng nhan” lại đi liền với từ “cái” đầy rẻ rúm,cho thấy sự bé mọn và số phận bạc bẽo,lỡ làng của nhân vật trữ tình.
Trong tâm trạng cô đơn,buồn tủi ấy nhân vật trữ tình đã tìm cách vơi bớt đi nỗi sầu nhờ men rượu:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”​
_____Nhân vật trữ tình tìm đến rượu để giải hết sầu muộn thế nhưng nàng “say lại tỉnh”,quên rồi nhớ chỉ trong chốc lát,đối diện với hiện thực càng làm cho nhân vật ý thức sâu sắc bất hạnh cuộc đời.Ngoại cảnh và tâm trạng đã tạo nên sự đồng nhất giữa trăng và người : “vầng trăng bóng xế ” nhưng “khuyết chưa tròn” hay tuổi thanh xuân của con người qua đi mà tình duyên, hạnh phúc chưa được trọn vẹn.Hình ảnh ẩn dụ đã nhấn mạnh số phận éo le,tình duyên lỡ làng của nhân vật trữ tình.Lời tự tình bày tỏ sự đau đớn,xót xa của tác giả trước số phận bất hạnh của người phụ nữ,đây cũng là số phận nói chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ” đồng thời cho thấy tiếng nói đồng cảm,sẻ chia sâu sắc của Hồ Xuân Hương đối với kiếp người bất hạnh.
_____Nếu như 4 câu thơ đầu diễn tả tâm trạng cô đơn, buồn tủi trước số phận éo le,tình duyên ngang trái thì đến 2 câu thơ tiếp theo,Hồ Xuân Hương đã bất ngờ hướng ngòi bút về ngoại cảnh để gián tiếp diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”​
“Rêu” và “đá” là những sự vật nhỏ bé nhưng chúng không cam chịu số phận, không chấp sự nhỏ bé, yếu mềm ấy, bằng mọi cách chúng xố sức vươn lên, vượt những cản trở của “mặt đất,chân mây” để chứng tỏ mình.Hồ Xuân Hương đã rất khéo léo khi kết hợp 3 nghệ thuật :đảo ngữ, nhân hóa, động từ mạnh trong cùng 1 câu thơ đã góp phần nhấn mạnh sự cứng cỏi, gan góc mạnh mẽ của những sự vật nhỏ bé đang cố sức vượt lên số phận.Hình ảnh rêu và đá đã gợi liên tưởng đến hình ảnh người phụ nữ mạnh mẽ,cố sức phản kháng,vùng vẫy thoát khỏi số phận,vươn lên tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân.Đằng sau từng câu chữ dường như là thái độ phẫn uất của tác giả trước xã hội phong kiến thối nát, bất công, đồng thời ngợi ca, đề cao khát vọng hạnh phúc mãnh liệt của con người.
_____Hai câu thơ cuối không còn sự bức bối,phản kháng,tâm trạng Hồ Xuân Hương bất ngờ lắng dịu,nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán, tuyệt vọng:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”​
Tác giả Hồ Xuân Hương đã rất khéo léo khi sử dụng đảo ngữ “ngán” đã nhấn mạnh tâm trạng ngán ngẩm,chán trường của nhân vật trữ tình.Đồng thời,nghệ thuật chơi chữ “xuân” vừa mang nghĩa là mùa xuân của thiên nhiên vừa mang nghĩa là tuổi thanh xuân của con người đã khắc họa 1 nghịch lí của cuộc đời: Mùa xuân qua đi rồi trở lại,đó là quy luật của tạo hóa nhưng mùa xuân qua đi cũng cuốn theo tuổi thanh xuân xủa con người đi mãi mãi.Hai câu thơ cuối đã cho thấy nghich cảnh éo le và số phận bất hạnh của người phụ nữ.Tác giả đã sử dụng từ “mảnh tình” cho thấy sự ít ỏi, nhỏ nhoi, nhưng lại phải “san sẻ”,phải chia 5 sẻ 7 chỉ còn lại những mảnh ghép hạnh phúc nhỏ nhoi chút ít - “tí con con”.Câu thơ là tiếng than đầy tuyệt vọng về bi kịch cuộc đời của nhân vật trữ tình hay của chính những người phụ nữ trong xã hội xưa.Tiếng than còn là tiếng nói lên án,phê phán xã hội phong kiến bất công đã đổ dồn đau khổ,bất hạnh nên thân phận nhỏ bé,yếu đuối của người phụ nữ,nhẫn tâm đẩy họ xuống tận cùng của mọi nỗi đau.Cũng thông qua đó người đọc có thể cảm nhận được tình cảm xót thương,đồng cảm của tác giả đối với nhân vật trữ tình hay với những ng phụ nữ bất hạnh.
_____Bài thơ “Tự tình” đã rất thành công khi sử dụng ngôn ngữ thơ nôm đặc sắc,ngắn gọn,xúc tích,kết hợp với việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như : đảo ngữ,ẩn dụ,liên tưởng,nhân hóa,chơi chữ, đối, động từ mạnh,…xây dựng hình tượng nhân vật vừa mang tính cá nhân vừa mang tính biểu tượng… “Tự tình” của Hồ Xuân Hương là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ, đồng thời là khát vọng hạnh phúc của họ.Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ nữ,phê phán gay gắt xã hội phong kiến bất công đã gây nên mọi đau khổ cho người phụ nữ. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo,nhân văn xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.
“Tự tình” diễn tả 1 tình cảnh đáng thương, 1 thân phận đáng cảm thông, 1 khát vọng đáng trân trọng, 1 tâm trạng đáng được chia sẻ.Bài thơ đã trở thành 1 trong nhiều thi phẩm đặc sắc của Hồ Xuân Hương nói riêng và của văn học Trung Đại Việt Nam nói chung.
 
Last edited by a moderator:

Kim Thị Thu

Học sinh
Thành viên
8 Tháng sáu 2018
66
103
21
23
Nam Định
Trung học phổ thông Trực Ninh B
Phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tà trong " Hai đứa trẻ'' của Thạch Lam:

Thạch Lam là một cây bút tài hoa, xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Truyện của Thạch Lam luôn có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. “Hai đứa trẻ” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam.Tác phẩm mở đầu bằng bức tranh phố huyện lúc chiều tà thật thi vị nhưng đượm buồn.
_____“Hai đứa trẻ” đã thể hiện được đặc trưng của giọng văn Thạch Lam. Truyện như bài thơ trữ tình đượm buồn về số phận của những con người nơi phố huyện nhỏ. Cuộc sống con người nơi đây được dựng lên bằng những nét vẽ rất đỗi chân thực, xúc động qua cái nhìn của chị em Liên. Mở đầu là cảnh phố huyện lúc chiều tà.
_____Bức tranh phố huyện lúc chiều tà được vẽ lên bằng ngôn ngữ vừa chậm rãi vừa nhẹ nhàng : “ Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru.” Câu văn báo hiệu một ngày đã kết thúc và gợi ra cảnh hoàng hôn đượm buồn của một phố huyện nhỏ. Chiều tà là thời khắc chuyển giao giữa ngày và đêm, đây cũng là khoảng thời gian thường gợi buồn cho tâm hồn con người. Buổi chiều tà được vẽ lên trên nền của 1 phố huyện nghèo ở Việt Nam những năm trước cách mạng – không gian trở đi trở lại trong những sáng tác của Thạch Lam.Buổi chiều quê được tác giả vẽ lên bằng ngòi bút hết sức tinh tế khi kết hợp miêu tả ánh sáng và bóng tối.Trên nền trời, ánh sáng còn sót lại “ phương Tây đỏ rực như lửa cháy, những đám mây hồng như hòn than sắp tàn.” Ánh sáng rực rỡ, huy hoàng nhưng lại là ánh sáng của “hòn than sắp tàn” khiến buổi chiều quê hiện lên như biểu tượng của sự tàn lụi với sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng dần tắt, bóng tối bắt đầu lan tràn không gian : “Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Những ánh sáng yếu ớt chiếu ra ngoài đường khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối. Bóng tối như một sự vật đang hoạt động, đang thâm nhập, đang len lỏi, luồn lách, bám sát vào cảnh vật. Khoảnh khắc giao thoa giữa ánh sáng và bóng tối giấy lên trong lòng người đọc nỗi buồn thấm thía.Sự chuyển giao giữa ngày và đêm , giữa ánh sáng và bóng tối diễn ra trên nền của một bản nhạc đồng quê : “ Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; tùng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều , văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. Những âm thanh nhỏ bé, rời rạc, xa vắng khiến cho phố huyện tĩnh lặng đến hiu quạnh.
_____Trên nền của một ngày tàn thì cuộc sống con người hiện hữu qua một phiên chợ đã vãn : “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.” Hoạt động ồn ào, náo nhiệt nhất của một ngày đã khép lại, trả lại cho phố huyện không gian im lìm, cố hữu của nó. “ Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.” Những thứ còn sót lại của phiên chợ cũng đủ cho ta cảm nhận một phiên chợ nghèo nàn, xơ xác, 1 cuộc sống cơ cực, buồn tẻ. Không khí vắng lặng của phiên chợ đã vãn khiến cho số phận của từng con người hiện lên cũng đượm buồn. “ Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa.” Những con người lặng lẽ, lầm lụi trong bóng tối, phải chăng những chuyện họ nói với nhau là than phiền về cuộc sống, về gánh hàng ế ẩm. Dấu hiệu của cái nghèo còn là “ mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại.” Hình ảnh những đứa trẻ đáng thương tội nghiệp càng khắc sâu thêm cái đói, cái nghèo ở nơi đây. Có gì vui hơn là cảnh chợ đông, có gì buồn hơn là cảnh chợ tàn. Khung cảnh “Chợ tết” trong thơ của Đoàn Văn Cừ náo nhiệt là thế mà cũng gọi lên những nỗi buồn hiu hắt, thấm thía:
“Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”​
Từ quán hàng chật hẹp nhỏ bé của mình, Liên hướng tầm nhìn ra khung cảnh xung quanh và càng thêm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh. Liên xót xa cho những đứa trẻ nhà nghèo trong khi cuộc sống của chị em Liên so với chúng cũng chẳng khấm khá gì hơn : “ Liên trông thấy mà động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng.” Cái đói cái nghèo không chỉ dừng lại ở một cá nhân mà bao trùm lên mọi số phận con người của phố huyện. Chị em Liên thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt, quẩn quanh , bế tắc hết ngày này qua ngày khác ở phố huyện. Trái tim giàu lòng trắc ẩn của Liên hay cũng chính là trái tim giàu tình yêu thương của tác giả Thạch Lam. Ông đã có mặt ở nơi phố huyện nghèo nàn này để quan sát, ghi lại từng mảnh đời, tùng số phận. Cái nhìn của Thạch Lam rất đỗi đằm thắm, nhẹ nhàng khiến cho những rác rưởi của một phiên chợ quê cũng gợi biết bao điều thân thuộc “ Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, mùi của quê hương này.” Phải là một người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và yêu quê hương tha thiết thì Liên mới cảm nhận được mùi vị của quê hương rõ ràng đến thế.
_____Truyện “Hai đứa trẻ” đã miêu tả một cách tinh tế sự biến đổi sắc thái của cảnh vật và lòng người., sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, âm thanh và sự tĩnh lặng của phố huyện. Bên cạnh đó Thạch Lam còn thành công trong việc kết hợp giữa bút pháp hiện thực và trữ tình . Những nghệ thuật đặc sắc ấy đều nhất loạt vẽ lên bức tranh phố huyện ấy gợi ra sự buồn tẻ, đói nghèo quẩn quanh, bế tắc.Đây cũng chính là cảnh làng quê Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt, “Hai đứa trẻ” cũng đã cho thấy tấm lòng nhân đạo, cảm thương đối với con người, thiết ta gắn bó với quê hương của tác giả Thạch Lam.Chính điều đó đã làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
_____“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đã vẽ lên những số phận nghèo khổ muốn vươn tới một cuộc sống tốt đẹp tuy còn khó khăn và lắm chật vật. Và qua đó,tác phẩm còn cho thấy ngòi bút tinh tế của Thạch Lam khi miêu tả thiên nhiên và con người cũng như giúp người đọc nhận ra tình cảm xót thương mà Thạch Lam đã dành cho những kiếp người ấy.
 
Last edited by a moderator:

Kim Thị Thu

Học sinh
Thành viên
8 Tháng sáu 2018
66
103
21
23
Nam Định
Trung học phổ thông Trực Ninh B
Bức tranh phố huyện về đêm:

Thạch Lam là một cây bút tài hoa, xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Truyện của Thạch Lam luôn có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. “Hai đứa trẻ” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam. Trong đó bức tranh phố huyện lúc về đêm đã khắc họa cuộc sống bần cùng, khó khăn nơi phố huyện.

“Hai đứa trẻ” đã thể hiện được đặc trưng của giọng văn Thạch Lam. Truyện như bài thơ trữ tình đượm buồn về số phận của những con người nơi phố huyện nhỏ. Cuộc sống con người nơi đây được dựng lên bằng những nét vẽ rất đỗi chân thực, xúc động qua cái nhìn của chị em Liên, đặc biệt là trong cảnh phố huyện về đêm.

Cảnh sống nơi phố huyện không ồn ào, không to tát, chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những lát cắt của cuộc sống.Thạch Lam đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh, công việc vất vả của con người nơi đây bằng ngòi bút hiện thực xuất sắc. Điển hình cho những kiếp người đó là gia đình chị tí với nhịp sống quẩn quanh: “Ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cậy bàng, bên cạnh cái mốc gạch.” Thức hàng của chị là những thứ chẳng mấy giá trị “ dăm bát nước chè, mấy điếu thuốc lào”.Khách hàng của chị là “mấy người phu gạo hay phu xe, thỉnh thoảng mấy chú lính lệ hay người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm”. Gia đình chị Tí là hiện thân của số phận cơ cực, nghèo đói. Bên cạnh đó tác phẩm còn hiện lên hình ảnh của bà cụ Thi điên: chỉ đủ tiền mua một cút rượu uống một hơi cạn sạch. Đó là một hình ảnh đầy sức ám ảnh với dáng đi lảo đảo và tiếng cười khanh khách tan vào trong bóng đêm. Phải chăng đó chính là sản phẩm của một cuộc sống mòn mỏi,quẩn quanh, người vẫn còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa.

Nổi bật lên trên bức tranh con người nơi phố huyện là gánh phở bên đường của bác Siêu. Những tưởng là nghề bán phở sẽ khá khẩm hơn nhưng phở lại là thứ quá xa xỉ đối với người dân nơi phố huyện, chị em Liên dù có tiền cũng không mua được , điều đó đi liền với sự ế ẩm của gánh hàng phở của bác Siêu. Cuộc sống khó khăn cũng là hoàn cảnh của gia đình bác Xẩm làm nghề hát xẩm- là nghề mạt hạng, thấp hèn “ xướng ca vô loài”. Tiếng đàn bầu vốn đã não nề thê lương giờ lại bật lên trong không khí vắng vẻ, tĩnh lặng, buồn tẻ của phố huyện nhấn mạnh kiếp người đầy bất hạnh. Đặc biệt chi tiết “thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường.” càng khiến cho gia cảnh của gia đình bác Xẩm càng hiện lên tội nghiệp đáng thương.Cuối bức tranh cuộc sống buồn thảm, héo tàn là bóng hai chị em Liên cũng âm thầm không kém với cái cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Cha Liên mất việc ở thành phố, cả nhà phải chuyển về quê, sống cuộc sống lam lũ, gian hàng của chị em Liên là do mẹ Liên thuê của bà lão móm, ngăn ra bằng giấy nhật trình và giao cho Liên trông coi vì bà còn bận làm hàng sáo. Hàng quà của Liên cũng chẳng có gì nhiều, chỉ là vài phong thuốc lào, mấy bánh xà phòng, vài cút rượu. Chị em Liên đang ở cái lứa tuổi đến trường vui chơi nhưng giờ đây phải lăn lội cùng cha mẹ kiếm miếng cơm manh áo. Qua những số phận con người hiện lên trong bức tranh phố huyện lúc về đêm, tác giả đã ghi lại một cách tỉ mỉ với tấm lòng thương cảm sâu sắc cuộc sống nghèo đói, mù tối, bế tắc của một phố huyện nhỏ.Những kiếp người quẩn quanh đó cũng đã đi vào trong thơ văn của Huy Cận:
"Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện"​
Bao quanh cuộc sống buồn tẻ của người dân phố huyện là cái chõng tre sắp gãy trong gian hàng của chị em Liên, là gánh phở tồi tàn của bác Siêu, là manh chiếu rách của gia đình bác Xẩm.Bên cạnh những sự vật tàn ấy còn là một chút ánh sáng bao quanh những kiếp người tàn. “Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với những vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây, quần sáng chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí.” Ngọn đèn vặn nhỏ của chị em Liên hắt ra từng hột sáng thưa thớt, chấm lửa nhỏ lơ lửng trong đêm tối hiện ra rồi lại mất đi trên gánh phở của bác Siêu. Dường như có bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu ánh lửa nhưng ánh sáng yếu ớt, leo lét ấy chỉ đủ soi tỏ một vùng hoạt động của một người, chỉ đủ làm dấu hiệu của sự sống trong một vùng tối mênh mông : “ Đường phố và các con ngõ con chứa đầy bóng tối, tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà và các đường vào làng lại sẫm đen lại hơn nữa,” Bóng tối dày đặc, mịt mờ dường như muốn nuốt chửng ánh sáng.

Bên cạnh bóng tối và ánh sáng là âm thanh “ cót két” của cái chõng che sắp gãy, tiếng đàn bầu rung “bần bật” trong yên lặng và những tiếng thở than nói chuyện rời rạc. Âm thanh nơi đây hiện lên thật mong manh, xa vắng, nhỏ bé. Nếu ánh sáng và âm thanh là biểu hiện của sự sống, bóng tối và sự tĩnh lặng là biểu hiện của sự hư vô thì ở nơi phố huyện nghèo này cuộc sống đang bị vùi lấp bởi sự hư vô, bởi buồn tẻ, vắng lặng. Khi nhìn bức tranh phố huyện về đêm đã gợi lên trong Liên sự cảm thương, xót xa đối với những người dân nghèo nơi mảnh đất này. Liên hỏi han chị Tí, ái ngại cho gia cảnh nhà bác Xẩm và gánh phở của bác Siêu. Tác giả Thạch Lam đã hóa thân vào nhân vật Liên, ông dùng tình yêu thương để gắn kết những kiếp người nhỏ bé lại với nhau và thắp lên ngọn lửa tình người ở nơi phố huyện tăm tối. Vẫn là cuộc sống nghèo khổ, tối tăm nhưng Thạch Lam đã làm nên nét đặc biệt rất riêng cho nhân vật của mình với các nhân vật của các nhà văn hiện thực khác cùng thời. Nhân vật của Thạch Lam không quằn quại, giãy giụa trong tuyệt vọng mà họ vẫn luôn mơ hồ mong ước một sự đổi thay “ chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đổi thay trong cuộc sống nghèo khổ này.” Thạch Lam không nhìn những người dân nghèo khổ nơi phố huyện bằng cái nhìn bi quan, chán nản mà ông quan sát, ghi lại cuộc sống của họ với tấm lòng yêu thương, sẻ chia, cảm thông sâu sắc.

Truyện “Hai đứa trẻ” đã miêu tả một cách tinh tế sự biến đổi sắc thái của cảnh vật và lòng người., sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, âm thanh và sự tĩnh lặng của phố huyện.Bên cạnh đó Thạch Lam còn thành công trong việc kết hợp giữa bút pháp hiện thực và trữ tình . Những nghệ thuật đặc sắc ấy đều nhất loạt vẽ lên bức tranh phố huyện ấy gợi ra sự buồn tẻ, đói nghèo quẩn quanh, bế tắc.Đây cũng chính là cảnh làng quê Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt, “Hai đứa trẻ” cũng đã cho thấy tấm lòng nhân đạo, cảm thương đối với con người, thiết ta gắn bó với quê hương của tác giả Thạch Lam.Chính điều đó đã làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đã vẽ lên những số phận nghèo khổ, bế tắc với khát vọng vươn tới một cuộc sống tốt đẹp. Và qua đó,tác phẩm còn cho thấy ngòi bút tinh tế của Thạch Lam khi miêu tả thiên nhiên và con người cũng như giúp người đọc nhận ra tình cảm xót thương mà Thạch Lam đã dành cho những kiếp người ấy.

Phân tích cảnh phố huyện lúc chờ tàu:

Thạch Lam là một cây bút tài hoa, xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Truyện của Thạch Lam luôn có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. “Hai đứa trẻ” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam.Trong đó bức tranh phố huyện khi chờ tàu đã thể hiện khát vọng cao đẹp của con người.

“Hai đứa trẻ” đã thể hiện được đặc trưng của giọng văn Thạch Lam. Truyện như bài thơ trữ tình đượm buồn về số phận của những con người nơi phố huyện nhỏ. Cuộc sống con người nơi đây được dựng lên bằng những nét vẽ rất đỗi chân thực, xúc động qua cái nhìn của chị em Liên. Cuộc sống của con người nơi phố huyện nhỏ tưởng chừng như chìm trong tăm tối, bế tắc nhưng đến cuối tác phẩm lại sáng lên niềm tin và hi vọng khi chuyến tàu đêm đi qua.Nhờ có chuyến tàu mà phố huyện như được đánh thức sau một giấc ngủ dài và thoát khỏi nhịp điệu buồn tẻ, chán trường.
Khi tàu chưa đến chị em Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố thức để chờ tàu, bác phở Siêu thì nghến cổ ra phía ga, họ mong chờ chuyến tàu đến mòn mỏi, khắc khoải, bền bỉ. Người dân phố huyện kiên định chờ chuyến tàu để bán hàng nhưng có lẽ quan trọng hơn, họ chờ đợi vì chỉ muốn nhìn chuyến tàu như nhìn thấy một cuộc sống mới náo nhiệt và sáng sủa hơn cuộc sống thường nhật của họ. Và đối với chị em Liên thì chuyến tàu còn có ý nghĩa đặc biệt hơn, nó gợi nhắc về quá khứ tươi đẹp đã mất, gợi về Hà Nội hoa lệ khi cha còn chưa mất việc ở thành phố, chị em Liên được đi bờ hồ và uống những cốc nước mát lạnh xanh đỏ. Miền kí ức xa xôi ấy gắn với khát vọng về một thế giới mới khác hẳn cuộc sống tù đọng của hại chị em ở nơi phố huyện nhỏ.

Chuyến tàu đêm qua phố huyện mang theo ánh sáng rực rỡ của ngọn lửa xanh biếc, của làn khói trắng bừng lên từ đằng xa, đồng và kền sáng lấp lánh, các toa xe sáng trưng chiếu cả xuống mặt đường. Ánh sáng ấy khác hẳn với những “chấm sáng, quầng sáng, hột sáng” leo lét ở phố huyện về đêm. Và cùng với ánh sáng là âm thanh vang động, ồn ào của tiếng còi rít lên, vang xa trong đêm, tiếng ồn ào của hành khách. Đó là những âm thanh huyên náo đối lập với âm thanh nhạt nhòa của tiếng trống thu không, tiếng côn trùng trong đêm tối. Con người hiện lên khi tàu đến bỗng trở nên náo nhiệt, rầm rộ, trên những toa hạng sang thì lố nhố người. Chuyến tàu mang ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống mới, cho khát vọng đổi đời của người dân phố huyện. Và tác giả Thạch Lam không chỉ xót thương cho số phận nghèo khổ, tăm tối mà còn trân trọng, mong muốn thay đổi cuộc sống của họ. Chuyến tàu đến và đi trong chốc lát và khuất sau rặng tre trả lại cho phố huyện không gian tối tăm, tĩnh lặng và mọi người lại chìm vào giấc ngủ. Chuyến tàu- khát vọng đổi thay của người dân phố huyện dù là mãnh liệt nhưng không thể trở thành hiện thực bởi đây là cuộc sống cố hữu của nước ta trước cách mạng.

Truyện “Hai đứa trẻ” đã miêu tả một cách tinh tế sự biến đổi sắc thái của cảnh vật và lòng người., sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, âm thanh và sự tĩnh lặng của phố huyện. Bên cạnh đó Thạch Lam còn thành công trong việc kết hợp giữa bút pháp hiện thực và trữ tình.Tất cả nghệ thuật đặc sắc ấy đồng loạt vẽ lên bức tranh phố huyện buồn tẻ, đói nghèo quẩn quanh, bế tắc của những con người nơi đây.Qua hình ảnh chuyến tàu đêm đã cho thấy khát vọng đổi đời của những con người nhỏ bé, khổ đau, mong ước một cuộc sống hạnh phúc hơn.Đây cũng chính là cảnh làng quê Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt, “Hai đứa trẻ” cũng đã cho thấy tấm lòng nhân đạo, cảm thương đối với con người, thiết ta gắn bó với quê hương của tác giả Thạch Lam, đồng thời trân trọng khát vọng đổi đời dù mơ hồ của con người nơi phố huyện nhỏ. Chính điều đó đã làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn “Hai đứa trẻ”

“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đã vẽ lên những số phận nghèo khổ, bế tắc với khát vọng vươn tới một cuộc sống tốt đẹp. Và qua đó,tác phẩm còn cho thấy ngòi bút tinh tế của Thạch Lam khi miêu tả thiên nhiên và con người cũng như giúp người đọc nhận ra tình cảm xót thương mà Thạch Lam đã dành cho những kiếp người ấy.
 
Last edited by a moderator:

dương bình an

Banned
Banned
23 Tháng năm 2018
341
299
51
Hà Nội
lưu ban A
Thạch Lam là một cây bút tài hoa, xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Truyện của Thạch Lam luôn có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. “Hai đứa trẻ” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam.Tác phẩm mở đầu bằng bức tranh phố huyện lúc chiều tà thật thi vị nhưng đượm buồn.
“Hai đứa trẻ” đã thể hiện được đặc trưng của giọng văn Thạch Lam. Truyện như bài thơ trữ tình đượm buồn về số phận của những con người nơi phố huyện nhỏ. Cuộc sống con người nơi đây được dựng lên bằng những nét vẽ rất đỗi chân thực, xúc động qua cái nhìn của chị em Liên. Mở đầu là cảnh phố huyện lúc chiều tà.
Bức tranh phố huyện lúc chiều tà được vẽ lên bằng ngôn ngữ vừa chậm rãi vừa nhẹ nhàng : “ Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru.” Câu văn báo hiệu một ngày đã kết thúc và gợi ra cảnh hoàng hôn đượm buồn của một phố huyện nhỏ. Chiều tà là thời khắc chuyển giao giữa ngày và đêm, đây cũng là khoảng thời gian thường gợi buồn cho tâm hồn con người. Buổi chiều tà được vẽ lên trên nền của 1 phố huyện nghèo ở Việt Nam những năm trước cách mạng – không gian trở đi trở lại trong những sáng tác của Thạch Lam.Buổi chiều quê được tác giả vẽ lên bằng ngòi bút hết sức tinh tế khi kết hợp miêu tả ánh sáng và bóng tối.Trên nền trời, ánh sáng còn sót lại “ phương Tây đỏ rực như lửa cháy, những đám mây hồng như hòn than sắp tàn.” Ánh sáng rực rỡ, huy hoàng nhưng lại là ánh sáng của “hòn than sắp tàn” khiến buổi chiều quê hiện lên như biểu tượng của sự tàn lụi với sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng dần tắt, bóng tối bắt đầu lan tràn không gian : “Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Những ánh sáng yếu ớt chiếu ra ngoài đường khiến cát lấp lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối. Bóng tối như một sự vật đang hoạt động, đang thâm nhập, đang len lỏi, luồn lách, bám sát vào cảnh vật. Khoảnh khắc giao thoa giữa ánh sáng và bóng tối giấy lên trong lòng người đọc nỗi buồn thấm thía.Sự chuyển giao giữa ngày và đêm , giữa ánh sáng và bóng tối diễn ra trên nền của một bản nhạc đồng quê : “ Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; tùng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều , văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. Những âm thanh nhỏ bé, rời rạc, xa vắng khiến cho phố huyện tĩnh lặng đến hiu quạnh.
Trên nền của một ngày tàn thì cuộc sống con người hiện hữu qua một phiên chợ đã vãn : “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.” Hoạt động ồn ào, náo nhiệt nhất của một ngày đã khép lại, trả lại cho phố huyện không gian im lìm, cố hữu của nó. “ Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía.” Những thứ còn sót lại của phiên chợ cũng đủ cho ta cảm nhận một phiên chợ nghèo nàn, xơ xác, 1 cuộc sống cơ cực, buồn tẻ. Không khí vắng lặng của phiên chợ đã vãn khiến cho số phận của từng con người hiện lên cũng đượm buồn. “ Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa.” Những con người lặng lẽ, lầm lụi trong bóng tối, phải chăng những chuyện họ nói với nhau là than phiền về cuộc sống, về gánh hàng ế ẩm. Dấu hiệu của cái nghèo còn là “ mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại.” Hình ảnh những đứa trẻ đáng thương tội nghiệp càng khắc sâu thêm cái đói, cái nghèo ở nơi đây. Có gì vui hơn là cảnh chợ đông, có gì buồn hơn là cảnh chợ tàn. Khung cảnh “Chợ tết” trong thơ của Đoàn Văn Cừ náo nhiệt là thế mà cũng gọi lên những nỗi buồn hiu hắt, thấm thía:
“Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”
Từ quán hàng chật hẹp nhỏ bé của mình, Liên hướng tầm nhìn ra khung cảnh xung quanh và càng thêm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh. Liên xót xa cho những đứa trẻ nhà nghèo trong khi cuộc sống của chị em Liên so với chúng cũng chẳng khấm khá gì hơn : “ Liên trông thấy mà động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng.” Cái đói cái nghèo không chỉ dừng lại ở một cá nhân mà bao trùm lên mọi số phận con người của phố huyện. Chị em Liên thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt, quẩn quanh , bế tắc hết ngày này qua ngày khác ở phố huyện. Trái tim giàu lòng trắc ẩn của Liên hay cũng chính là trái tim giàu tình yêu thương của tác giả Thạch Lam. Ông đã có mặt ở nơi phố huyện nghèo nàn này để quan sát, ghi lại từng mảnh đời, tùng số phận. Cái nhìn của Thạch Lam rất đỗi đằm thắm, nhẹ nhàng khiến cho những rác rưởi của một phiên chợ quê cũng gợi biết bao điều thân thuộc “ Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, mùi của quê hương này.” Phải là một người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và yêu quê hương tha thiết thì Liên mới cảm nhận được mùi vị của quê hương rõ ràng đến thế.
Truyện “Hai đứa trẻ” đã miêu tả một cách tinh tế sự biến đổi sắc thái của cảnh vật và lòng người., sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, âm thanh và sự tĩnh lặng của phố huyện. Bên cạnh đó Thạch Lam còn thành công trong việc kết hợp giữa bút pháp hiện thực và trữ tình . Những nghệ thuật đặc sắc ấy đều nhất loạt vẽ lên bức tranh phố huyện ấy gợi ra sự buồn tẻ, đói nghèo quẩn quanh, bế tắc.Đây cũng chính là cảnh làng quê Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt, “Hai đứa trẻ” cũng đã cho thấy tấm lòng nhân đạo, cảm thương đối với con người, thiết ta gắn bó với quê hương của tác giả Thạch Lam.Chính điều đó đã làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đã vẽ lên những số phận nghèo khổ muốn vươn tới một cuộc sống tốt đẹp tuy còn khó khăn và lắm chật vật. Và qua đó,tác phẩm còn cho thấy ngòi bút tinh tế của Thạch Lam khi miêu tả thiên nhiên và con người cũng như giúp người đọc nhận ra tình cảm xót thương mà Thạch Lam đã dành cho những kiếp người ấy.
nếu như là phân tích 2 đứa trẻ viết tóm tắt cx 4 mặt giấy bạn ạ
còn viết đầy đủ và hay thì dài ghê!!
 

Kim Thị Thu

Học sinh
Thành viên
8 Tháng sáu 2018
66
103
21
23
Nam Định
Trung học phổ thông Trực Ninh B
Diễn biến tâm trạng nhân vật Liên:

Thạch Lam là một cây bút tài hoa, xuất sắc của nền văn học Việt Nam Truyện của Thạch Lam luôn có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. “Hai đứa trẻ” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam. Tác phẩm là bức tranh tâm trạng của Liên trong khoảnh khắc cuối cùng của một ngày.

Tác phẩm Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn, xuất bản năm 1938. Truyện nhưng không có chuyện, chỉ là câu chuyện tâm tình. Câu chuyện không phát triển theo logic sự kiện mà giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, gói gọn trong không gian nhỏ hẹp nơi phố huyện nghèo hẻo lánh với những con người nhỏ bé, những cảnh đời đơn điệu hắt hiu. Toàn truyện là những cảm xúc và tâm trạng của những đứa trẻ nơi phố huyện đó trong khoảng thời gian từ chiều đến đêm. Ngòi bút của Thạch Lam thật tinh tế khi miêu tả sâu sắc những rung động trong tâm trạng nhân vật. Trước hết là tâm trạng của Liên trong bức tranh phố huyện lúc chiều tà. Câu chuyện mở ra trong một khung cảnh chiều buồn man mác. Liên và An là những đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, nay theo mẹ về vùng quê hẻo lánh. Liên ngồi trong không gian bóng tối để những nỗi buồn chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ. Liên cảm nhận được cái yên lặng của khung cảnh chiều quê quen thuộc. Đó là phương Tây đỏ rực như lửa cháy, những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn…gợi lên cái nhịp thời gian đang trôi, gieo vào lòng người một sự nuối tiếc mơ hồ, có cái gì đó quá khó nắm bắt.Cùng với cảm giác về thời gian còn là âm thanh tiếng ếch nhái văng vẳng ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve, mùi âm ẩm và mùi cát bụi quen thuộc… Đó là những xúc cảm rất quen thuộc, thể hiện sự gắn bó với quê hương.Cảnh chợ tàn người về hết và tiếng ồn ào cũng mất…càng khiến lòng Liên thấm đẫm nỗi buồn về một cuộc sống xác xơ, tiêu điều, đang đi vào tàn lụi.

Từ quán hàng chật hẹp nhỏ bé của mình, Liên hướng tầm nhìn ra khung cảnh xung quanh và càng thêm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh. Liên thương xót cho những đứa trẻ nghèo phải nhặt nhạnh tất cả những thứ còn xót lại của một phiên chợ tàn.Liên chia sẻ với mẹ con chị Tí bằng sự thấu hiểu cuộc sống tẻ nhạt, quanh quẩn của mẹ con chị. Liên còn chia sẻ với sự ế ẩm của gánh phở bác Siêu, gánh đi gánh về gợi lên một nhịp sống buồn tẻ.Không chỉ thương xót, thậm chí Liên còn sợ hãi trước tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên. Đó là cảm nhận về sự mỏng mang của kiếp người. Liên còn cảm nhận được cái tù túng trong cuộc sống của chính bản thân mình: giam hãm trong gian hàng nhỏ, lắm muỗi, chiếc chõng tre sắp gãy, tính nhẩm, “ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”. Liên cảm nhận được nỗi buồn thấm thía trước cảnh quá quen của những kiếp người nhỏ bé, leo lét trong không gian mênh mông tăm tối của phố huyện.

Tâm hồn nhỏ bé và nhạy cảm của Liên cũng buồn và nuối tiếc một quá khứ xa xăm-những ngày sống ở Hà Nội- một Hà Nội sáng rực và huyên náo với những cốc nước xanh đỏ. Đó là một quá vãng xa xôi mà giờ đây trong tâm trí Liên tất cả hiện lên đều không rõ ràng. Liên có cái nhìn huyền diệu về vũ trụ bao la thăm thẳm và bí ẩn. Đó là một vò trời ngàn sao lấp lánh, dải Ngân Hà, ông thần Nông cùng con vịt. Thế nhưng vũ trụ lại quá xa lạ với tâm hồn trẻ thơ, nó làm “mỏi trí nghĩ” của hai chị em. Nên chỉ một lúc sau, hai chị em “lại cúi nhìn về mặt đất”.Cảnh đồng quê về đêm thật yên tĩnh, lặng lẽ. Tất cả sự dày đặc của bóng tối đang vây quanh “ đường phố và các con ngõ chứa đầy bóng tối” trong khi đó các cửa nhỏ chỉ để hé ra “một khe ánh sáng”, những vệt sáng của đom đóm, các “quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn”. Sự đối lập gay gắt giữa bóng tối và ánh sáng tô đậm sự buồn tẻ, lay lắt của phố huyện – một cuộc sống tối tăm, quẩn quanh. Điều đó càng khiến tâm hồn Liên thấm thía nỗi buồn.

Trong tâm trạng buồn Liên hoài niệm về quá khứ và khao khát, hi vọng đợi chờ: đó là hi vọng chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua. Diễn biến tâm trạng chờ tàu của hai chị em Liên được Thạch Lam miêu tả khá tinh tế. Liên chờ tàu không phải để bán hàng mà là chờ đợi chỉ vì muốn nhìn chuyến tàu như nhìn thấy một cuộc sống mới náo nhiệt và sáng sủa hơn cuộc sống thường nhật của họ. Bởi vậy, An mặc dù đã buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố dặn chị “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Hai chị em Liên chời đợi tàu trong tâm trạng háo hức, bồi hồi như chờ đợi phút giao thừa thiêng liêng. Liên lặng lẽ chờ đợi với tâm trạng yên tĩnh trong tâm hồn. Đoàn tàu đến trong sự mong chờ của chị em Liên. Liên và An hướng cả hồn mình vào đoàn tàu khi còn ở xa “tiếng còi đã rít lên và tàu rầm rộ đi tới với những toa hạng sang, kèn và đồng lấp lánh, các cửa kính sáng.Con tàu đã đem đến một thế giới khác đi qua, một thế giới rực rỡ, vui vẻ, huyên náo- một thế giới khác hẳn với sự nghèo khổ hàng ngày.Đoàn tàu chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc rất ngắn rồi vụt qua đi vào đêm tối. Ta bắt gặp phía sau đoàn tàu một nguồn ánh sáng nhỏ nhoi chỉ trực tan hòa vào bóng tối. An nhận ra tàu hôm nay “kém sáng hơn”, nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng”. Đoàn tàu không làm thay đổi cuộc sống nơi phố huyện nhưng sự xuất hiện của nó đủ để lại niềm khao khát cho những con người nơi đây.

“Hai đứa trẻ” với cốt truyện đơn giản, giọng văn trữ tình, sâu lắng,giàu chất thơ kết hợp với bút pháp hiện thực xen lẫn lãng mạn, đặc biệt là thành công trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc. Những nghệ thuật đặc sắc ấy đều nhất loạt vẽ lên bức tranh phố huyện buồn tẻ, đói nghèo quẩn quanh, bế tắc.Đây cũng chính là cảnh làng quê Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt, “Hai đứa trẻ” cũng đã cho thấy tấm lòng nhân đạo, cảm thương đối với con người, thiết ta gắn bó với quê hương của tác giả Thạch Lam, đồng thời trân trọng khát vọng đổi đời dù mơ hồ của con người nơi phố huyện nhỏ.Chính điều đó đã làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
“Hai đứa trẻ” như một bài thơ trữ tình đượm buồn về cuộc sống đói nghèo, bế tắc của những con người nơi phố huyện qua cái nhìn của chị em Liên. Qua đó tác phẩm thể hiện những giá trị nhân đạo mới mẻ, đặc sắc của Thạch Lam.
 
Last edited by a moderator:

Kim Thị Thu

Học sinh
Thành viên
8 Tháng sáu 2018
66
103
21
23
Nam Định
Trung học phổ thông Trực Ninh B
Phân tích bài Thu điếu:

Nguyễn Khuyến (1835-1909) là một nhà thơ xuất sắc trong nền văn học Trung Đại Việt Nam.Ông viết rất nhiều thơ về mùa thu nhưng đặc sắc nhất có lẽ phải kể đến “Thu điếu” được Xuân Diệu nhận xét “là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam.

Nếu mùa xuân là mùa hội tụ của những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thì mùa thu lại đi vào lòng người một cách tự nhiên,gần gũi.Từ xưa đến nay mùa thu luôn là nguồn thi hứng dạt dào cho biết bao văn nhân nghệ sĩ say mê và sáng tạo.Đến với mùa thu ta có “Cảm thu”, “Tiễn thu” của Tản Đà,có cái buồn man mác,hiu quạnh trong “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu…Nhắc đến mùa thu ta không thể không nhắc tới chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến.Chùm thơ đặc sắc này đem đến cho người đọc cảm xúc nhẹ nhàng với khung cảnh thiên nhiên mùa thu bình dị nơi Đồng bằng Bắc Bộ.Không phải tự nhiên mà Nguyễn Khuyến được người đời mệnh danh là “Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”,cuộc đời ông gắn bó với thôn quê,làm bạn với ao bèo,ruộng muống,với những thứ bình dị nhất.Cảnh vật trong thơ Nguyễn Khuyến sống động mà nhẹ nhàng, hài hòa mà sắc nét.Cùng là mùa thu nhưng cảnh vật trong “Thu điếu” của ông cảnh vật thôn quên mang 1 màu sắc đặc biệt.

Mở đầu bài thơ Nguyễn Khuyến đã đưa ta đến khung cảnh mùa thu trên 1 góc nhìn đặc biệt:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”​
Nguyễn Khuyến đã đưa người đọc đến với bức tranh mùa thu bằng những sự vật hết sức gần gũi,quen thuộc “ao thu,thuyền câu”.Nước thu xanh trong vắt mang theo hơi lạnh khẽ khàng,miên man da thịt,nó không chớm lạnh như đầu mùa,cũng không phải rét mướt như sắp chuyển đông mà mùa thu ở đây mang không khí hơi se se lạnh mà chỉ mùa thu ở Đồng bằng Bắc Bộ mới có.Từ “nước trong veo” đặc tả dòng nước trong vắt và gợi tả sự đông kết tĩnh lặng của không gian.Trên làn nước trong veo ấy,tác giả hướng tầm nhìn đến “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.Phải chăng vì ao nhỏ,ao nhiều nên chiếc thuyền cũng theo đó mà bé nhỏ đi? Đặt góc nhìn từ con thuyền nhỏ, Nguyễn Khuyến hướng lên nhìn bầu trời,nhìn lên cao rồi lại quay về với con thuyền nhỏ trên mặt nước,góc nhìn của tác giả từ gần đến xa rồi từ xa lại trở về gần cho ta cảm giác vừa bao quát mênh mông,vừa nhỏ bé,nhẹ nhàng.Hình ảnh con thuyền nhỏ bé chông chênh trên chiếc ao gợi cảm giác an nhàn,tĩnh tại.Con thuyền nhỏ bé,lẻ loi,đơn chiếc,cô quạnh như một nét chấm phá trên bức tranh thủy mặc,bình dị, hài hòa.

Nếu như hai câu thơ đầu Nguyễn Khuyến đã phác họa nên bức tranh thu bới những nét đặc trưng riêng biệt của khí trời và cảnh vật bình dị thì những câu thơ tiếp theo ta lại thấy được cảnh thu với sắc xanh tươi mát của đất trời.Tác giả từ con thuyền trên mặt ao đã hướng nhãn quan để nhìn bao quát cả không gian, cảnh vật:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”​
Dưới mặt hồ yên tĩnh là làn nước trong xanh biếc phản chiếu hình ảnh của bầu trời xanh thẳm vời vợi trên cao.Những làn sóng nhẹ nhàng lăn tăn trên mặt nước thật yên bình, tươi đẹp.Cảnh vật phải thật tĩnh lặng thì tác giả mới nhận ra làn sóng biếc chỉ “hơi gợn tí”.Ngòi bút của tác giả vừa sắc nét vừa tinh tế đã miêu tả một cách khéo léo sự thay đổi của cảnh vật,sự tương quan giữa tĩnh và động. Tác giả tiếp tục hướng tầm nhìn ra xa hơn là thấp thoáng con ngõ nhỏ với những rặng trúc tươi xanh,dịu dàng.Ngõ trúc quanh co mềm mại uốn lượn nhưng lại “vắng teo”gợi sự tĩnh lặng và yên bình.Không gian tươi đẹp nhưng vắng bóng người,không khách viếng thăm càng làm cho không gian thêm tĩnh lặng.Cảnh thu đẹp nhưng man mác buồn. Giữa bức tranh đầy màu xanh hài hòa ấy là hình ảnh của chiếc “lá vàng” rơi. “Sóng biếc” xanh xanh với “lá vàng” là hai màu sắc đối lập nhưng chúng không làm mờ nhạt đi sắc thái của bản thân mà dường như càng tôn thêm vẻ đẹp đặc biệt của bức tranh thu trong “Thu điếu”. Nhắc tới mùa thu là người ta nhắc tới những thảm lá vàng rơi rụng,tung bay trong gió như Xuân Diệu đã từng viết :
“Đây mùa thu tới-mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”​
Hay là màu vàng ngơ ngác trong thơ của Lưu Trọng Lư:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô.”​
Nhưng Nguyễn Khuyến đã tạo cho mình một sự phá cách màu vàng của chiếc lá trong thơ ông chỉ như điểm xuyết,một nét chấm phá màu sắc cho bức tranh thu thêm phần sống động.Chính sự sáng tạo đó đã làm nên nét riêng biệt cho thơ thu của Nguyễn Khuyến.
Với bút pháp cổ điển kết hợp với ước lệ,nghệ thuật lấy động tả tĩnh,cùng với những hình ảnh chân thực,gần gũi sống động,màu sắc kết hợp hài hòa,tinh tế Nguyễn Khuyến đã vẽ lên 1 bức tranh thu hài hòa về đường nét,sống động về màu sắc.Bức tranh mùa thu của Nguyễn Khuyến mang nét đẹp hài hoà,bình dị nhưng phảng phất đâu đó nỗi buồn man mác,cảnh thu thân thuộc nhưng đầy tĩnh lặng.

Kết thúc bài thơ như một nét bút cuối cùng của bức tranh tự họa:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”​
Dường như cả bài thơ đây là lần đầu tiên con người xuất hiện.Trong không gian mùa thu mang hơi lạnh nhẹ nhàng,làn nước biếc lăn tăn,hình ảnh 1 ngư ông an nhàn tự tại,xuất hiện với tư thế “tựa gối ôm cần” bất động như chạm khắc vào thiên nhiên.Con người dường như đang rất lơ đãng,không hề tĩnh tại,có lẽ thi nhân đang đắm chìm vào cảnh sắc thiên nhiên để vợi bớt đi nỗi buồn trong lòng. “Cá đâu đớp động” vừa như 1 lời khẳng định vừa như một câu nghi vấn.Trong khi mọi thứ dường như bất động thì âm thanh “đâu” đó xa vắng không những không xua tan nét tĩnh lặng mà càng làm tăng sự yên ắng,tĩnh mịch của cảnh vật,đồng thời gợi sự trăn trở của thi nhân trước vận mệnh của đất nước,trước nỗi thống khổ của nhân dân.

“Thu điếu” của Nguyễn Khuyến đã thật sự thành công trong việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật và ngôn ngữ thơ một cách hài hòa.Nguyễn Khuyến đã thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của mình thông qua những hình ảnh chọn lọc,màu sắc,âm thanh,đường nét hài hòa,sống động,thanh thoát.Đặc biệt tác giả còn khẳng định tài năng xuất chúng của mình thông qua nghệ thuật tả ít gợi nhiều và lấy động tả tĩnh,kết hợp giữa bút pháp cổ điển và hiện đại.Tất cả nghệ thuật ấy đã nhất loạt vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa thu tươi đẹp mang nét đặc trưng của Đồng bằng Bắc Bộ - quê hương tác giả.Ẩn chứa trong từng câu chữ là tấm lòng thiết tha với đất nước và tâm trạng thế thời của 1 nhà Nho nặng lòng với dân tộc.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khuyến được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”,có lẽ bởi bức thiên nhiên mùa thu của vùng Đồng bằng Bắc Bộ trong “Thu điếu” mang nét nhuần nhị mà yên bình,nhẹ nhàng mà ẩn chứa đầy tâm trạng. “Thu điếu” với những nét độc đáo khác biệt đã góp phần tạo nên một góc trời đặc biệt trong chùm thơ về mùa thu cũng như mảng thơ về quê hương trong nền văn học Việt Nam
 
Last edited by a moderator:

Kim Thị Thu

Học sinh
Thành viên
8 Tháng sáu 2018
66
103
21
23
Nam Định
Trung học phổ thông Trực Ninh B
Người nghĩa sĩ nông dân:

Người nông dân yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử dân tộc.Nhưng hình tượng ấy chỉ thực sự xuất hiện trong nền văn học Việt Nam dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu trong tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.Có thể nói trong bài văn tế này Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bức tượng đài bất tử về người nghĩa sĩ nông dân bi tráng chống giặc ngoại xâm.

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho với một lòng nồng nàn yêu nước và ý chí căm thù giặc sâu sắc.Cuộc đời ông phải trải qua nhiều bi kịch,bất hạnh có lẽ vì thế hơn ai hết ông cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta.Không cam chịu để mất nước vào tay giặc những người nông dân chân lấm tay bùn đã đứng lên đấu tranh,gia nhập nghĩa binh,sẵn sang hi sinh vì nghĩa lớn.Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt.Những tấm gương đó đã gây niềm xúc động lớn trong lòng nhân dân.Chính vì thế Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang đã ra lệnh cho Nguyễn Đình Chiểu viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.Bài văn tế không những thể hiện được niềm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc mà còn khắc họa nên bức tượng đài bất tử về người nghĩa sĩ nông dân bi tráng,yêu nước chống giặc ngoại xâm.

Mở đầu bài văn tế là từ cảm thán “hỡi ôi” và dấu chấm cảm như là 1 tiếng khóc lớn bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ nông dân:
“Hỡi ôi !
Súng giặc đất rền lòng dân trời tỏ…”​
Khi Tổ quốc lâm nguy,khắp đất nước đều vang lên tiếng súng,chính từ sự gian nguy,đau thương ấy,tình yêu quê hương,yêu đất nước trong lòng những người nông dân chân lấm tay bùn đã được khơi dậy,vẻ đẹp thực sự của tâm hồn họ mới được bày tỏ cùng trời đất.

Tấm lòng,tình yêu giang sơn,Tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện rõ nét và sâu sắc hơn khi tác giả liên tiếp sử dụng biện pháp so sánh trong những câu văn tiếp theo:
“Nhớ linh xưa!
Cui cút làm ăn toan lo nghèo khó,chưa quen cung ngựa,chưa tới trường nhung;chỉ biết ruộng trâu,ở trong làng bộ."
Việc cuốc,việc cày,việc bừa,việc cấy tay vốn quen làm;tập khiên,tập súng,tập mác, tập cờ,mắt chưa từng ngó…”

Trước đây,những người nông dân họ vẫn sống,vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng.Trong cuộc sống họ có nỗi lo toan miếng cơm, manh áo,giản dị đời thường,họ sống gắn bó với làng quê,quen làm các công việc “cuốc, cày, bừa, cấy” làm bạn với ruộng đồng.Họ chưa từng biết đến “cung ngựa, trường nhung”,chưa từng “tập mác,tập cờ”.Qua 1 đoạn văn ngắn,hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên vô cùng rõ nét,chân thực,sinh động trong tình cảm xót thương và tràn đầy yêu mến của 1 người nghệ sĩ mù Nam Bộ giành cho những con người trên mảnh đất quê hương mình.

Khi mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”,những người nông dân lo lắng,thấp thỏm,họ “trông tin quan như trời hạn trông mưa”.Người nông dân trông chờ vào quan trên,triều đình cất quân đánh giặc đến mỏi mòn,khắc khoải nhưng triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ lại tỏ ra hèn kém,phản động khiến người dân chờ đợi trong vô vọng.Từ sự tuyệt vọng,trong tim họ giấy lên lòng căm thù “ghét thọi mọi như nhà nông ghét cỏ”.Nghệ thuật so sánh cho ta cảm nhận sự căm giận dù là giản dị,gần gũi nhưng cũng không kém phần mãnh liệt.Không chỉ căm ghét đơn thuần mà người nông dân còn biến sự căm ghét thành hành động “muốn tới ăn gan,muốn ra cắn cổ” cho thấy lòng yêu nước nồng nàn và sự căm thù giặc sâu sắc trong lòng nhân dân.Chính nhờ lòng yêu nước người nông dân đã tự nguyện tự giác đứng lên chống giặc ngoại xâm “nào đợi ai đòi ai bắt,chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi” đã nhấn mạnh tinh thần tự giác cao độ của người nghĩa sĩ nông dân.Đến đây không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà cả vẻ đẹp trong hành động,suy nghĩ của người nghĩa sĩ nông dân đều được tác giả Nguyễn Đình Chiểu khắc họa một cách rõ nét,chân thực.Từ tinh thần tự nguyện tự giác đánh giặc đã tạo ra sức mạnh to lớn chống ngoại xâm.

Người nghĩa sĩ nông dân ra trận nào được luyện võ nghệ, trang bị sơ sài “ngoài cật có một manh áo vải nào dại mang bao tấu bầu ngòi,trong tay cầm một ngọn tầm vông,chi nài sắm dao tu,nón gõ”.Hình ảnh người nông dân hiện lên trong tác phẩm khiến chúng ta vừa tự hào vừa xen lẫn niềm xót xa.Những người nghĩa sĩ dường như đóng vai trò là hiện thân cho sức mạnh to lớn của dân tộc.Đối mặt với quân ta là quân địch hung hăng,được đào tạo chính quy,tinh nhuệ,vũ khí hiện đại,trang bị kĩ càng.Nhân dân ta phải chiến đấu thế nào đây trong khi tương quan lực lượng lại như “trứng” trọi với “đá”?Khó khăn chồng chất khó khăn đè nặng lên đôi vai của những người nghĩa sĩ nông dân.Nhưng chính trong khó khăn,gian nguy ấy vẻ đẹp của người nông dân yêu nước càng sáng ngời.Bằng sự ngoan cường,lòng yêu nước nồng nàn họ đã làm nên những điều phi thường,chính họ đã viết lên bản anh hùng ca trong lịch sử dân tộc Việt Nam.Bất chấp sự hiểm nguy,bất chấp sự đối nghịch của hoàn cảnh chiến đấu,họ vẫn quyết tâm chiến đấu,xả thân vì nghĩa và họ đã giành chiến thắng vang dội:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi,cũng đốt xong nhà dạy đạo kia.Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai nọ...
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ,ma ní hồn kinh.”

Nhịp điệu câu văn đến đây đã trở nên nhanh,mạnh gấp gáp cho thấy chiến thắng liên tiếp,dồn dập,hết lớp này đến lớp khác.Bên cạnh đó âm thanh của “trống kì,trống giục” đã tái hiện không khí hào sảng nơi chiến trường.Cùng với đó,tác giả còn sử dụng 1 loạt động từ mạnh “đốt,chém.đạp,lướt,xông,xô” cho thấy sức mạnh phi thường và khí thế bừng bừng của những người nghĩa sĩ nông dân.Họ tung hoành ngang dọc “kẻ đâm ngang, người chém ngược” để “tràn lên,xông tới”, khống chế và tiêu diệt kẻ thù.Nhân dân ta đã giành chiến thắng vang dội,oanh liệt trước sự sợ hãi,kinh hồn bạt vía của quân địch.Chiến thắng giòn giã,vẻ vang của nhân dân ta trước thất bại thảm hại,nhục nhã của kẻ thù đã tạo ra âm hưởng hào hùng biến đoạn văn thành bức tượng đài bất tử về người nghĩa sĩ nông dân vì dân vì nước.Đằng sau chiến thắng của quân và dân ta là thái độ căm phẫn khinh bỉ quân địch,trân trọng,ngợi ca những người nghĩa sĩ nông dân đã hi sinh vì dân vì nước
.
Nhưng chiến thắng oanh liệt nào cũng phải có những hi sinh mất mát,hàng chục người nghĩa sĩ nông dân đã ngã xuống trong tư thế của một người anh hùng:
“Những năm lòng nghĩa lâu dùng,đâu biết xác phàm vội bỏ”​
Những người nghĩa sĩ nông dân đã ra đi vội vã, bỏ lại sự nghiệp,lí tưởng còn đang dang dở,bỏ lại gia đình người thân,để lại niềm tiếc thương vô hạn cho những người còn ở lại.Sau tiếng than ấy là tiếng khóc bao trùm không gian,thời gian,xoáy sâu vào tâm can người dân Nam Bộ với hai từ phiếm chỉ “già trẻ” hai hàng lệ nhỏ.Đau đớn thay những người mẹ già không nơi nương tựa khóc đưa những đứa con thân yêu “kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh”!Đau bớn biết bao những người vợ trẻ được hưởng hạnh phúc vợ chồng chưa được bao lâu thì phải ghánh chịu nỗi đau mất đi người chồng,nỗi đau quá lớn khiến họ trở nên héo hon,gầy mòn.

Những người nghĩa sĩ nông dân đã hi vinh nhưng phẩm hạnh của họ thì vẫn mãi bất tử cùng thời gian.Họ đã không chấp nhận cuộc sống ô nhục,không làm tay sai cho thực dân Pháp,không hưởng hậu đãi của chúng : “sống làm chi theo quân tả đạo,quăng vùa hương,xô bàn độc,thấy lại thêm buồn,sống làm chi ở lính mã tà,chia rượu lạt,gặm bánh mì,nghe càng thêm hổ”.Họ thà chết vinh còn hơn sống nhục!Những nghĩa sĩ nông dân đã chọn hi sinh vì dân vì nước,chết là về với cội nguồn,về theo tổ phụ cũng vinh” cho nên đây là sự hi sinh đáng ngợi ca,trân trọng,đã tạc lên bức tượng đài cao lớn về sự dũng cảm,lòng yêu nước bất tử của họ.

Hoàn thành bức tượng đài của mình,Nguyễn Đình Chiểu đã để phần cuối cho những lời ngợi ca,bất tử hóa hình ảnh người nghĩa sĩ “sống đáng giặc,thác cũng đánh giặc,linh hồn theo giúp cơ binh”.Người nghĩa sĩ đã hi sinh, song tấm lòng của họ mãi là động lực phi thường thôi thúc nhân dân đánh giặc cứu nước. Cuối tác phẩm,Nguyễn Đình Chiểu đã cầu nguyện và thắp những nén hương kính trọng đến những người đã anh dũng ngã xuống vì đất nước:
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,thương vì hai chữ thiên dân.Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm,cám bởi một câu vương thổ.”

Bài văn tế như một bức tượng đài bằng ngôn từ,tạc khắc nên hình tượng những người nông dân hào hùng mà bi tráng,tượng trưng cho tinh thần yêu nước và ý chí căm thù giặc của nhân dân ta.Bằng sự ngoan cường,lòng yêu nước nồng nàn họ đã làm nên những điều phi thường,chính họ đã cất lên bản anh hùng ca của dân tộc.Hình ảnh của họ hiện lên trong tác phẩm rực rỡ ánh hào quang,là động lực thôi thúc,khích lệ nhân dân Nam Bộ tiếp tục cố gắng chiến đấu để bảo vệ đất nước.

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của tác giả nói riêng và của nhân dân nói chung đối với những nghĩa sĩ đã anh dũng đấu tranh vì đất nước.Bức tượng đài về họ chính là tấm gương sáng để thế hệ trẻ học tập và noi theo.
 
Last edited by a moderator:
  • Like
Reactions: Đình Hải

Kim Thị Thu

Học sinh
Thành viên
8 Tháng sáu 2018
66
103
21
23
Nam Định
Trung học phổ thông Trực Ninh B
Thương vợ:

Trần Tế Xương (1870-1907) thường gọi là Tú Xương quê ở Nam Định,ông sinh ra trong 1 gia đình nhà nho nghèo,cuộc đời ông lận đận trong con đường thi cử.Ông để lại cho đời hơn 100 bài thơ thuộc nhiều thể loại,trong đó phải kể đến “Thương vợ”.Bài thơ ghi lại 1 cách xúc động cuộc đời tần tảo và những phẩm chất tốt đẹp của người vợ thân yêu của Tú Xương.

Trong nền văn học Trung Đại Việt Nam,rất ít văn nhân,nghệ sĩ viết về người phụ nữ đặc biệt là hình tượng người vợ của mình.Vậy nên có lẽ Tú Xương đã tạo ấn tượng với người đọc ngay từ nhan đề “Thương vợ”. Từ nhan đề ngắn gọn mà chứa chan cảm xúc ấy đã giúp người đọc cảm nhận được tình cảm chân thành của tác giả đối với vợ của mình là bà Tú.

Mở đầu bài thơ tác giả đã giới thiệu về công việc của người vợ:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”​
Công việc của bà Tú được khắc họa trong tác phẩm là “buôn bán”-1 công việc chẳng hề dễ dàng lại nhiều lo toan, vất cả, bon chen, vậy mà bà Tú phải làm việc “quanh năm”, ngày tiếp ngày,tháng tiếp tháng, dường như không lúc nào bà được nghỉ ngơi.Thời gian triền miên ấy hay chính là nỗi vất vả triền miên của bà Tú.Đáng chú ý hơn,địa điểm bà làm việc lại là “mom sông” gợi cảm giác chênh vênh hay cũng là công việc luôn rình rập nhiều hiểm nguy của bà Tú ở 1 xóm chợ nghèo ven sông Vị Hoàng,làng Vị Xuyên-quê hương tác giả.

Bà Tú làm việc vất vả quanh năm để “nuôi đủ năm con với một chồng”,việc sử dụng số từ “một,năm” đã gọi gánh nặng gia đình chồng chất lên đôi vai của bà Tú.Đặc biệt hơn,cách ngắt nhịp “Năm con/1 chồng” cho thấy sự ngang bằng trong việc nuôi “năm con” và nuôi “ một chồng”.Chồng cũng phải nuôi như con nhưng lại là đứa con đặc biệt-là anh học trò dài lưng tốn vải,thi tới 5 lần 7 lượt mới đỗ Tú tài,lại còn ăn chơi,nay cô đầu,mai con hát.Ông Tú tự cảm thấy mình ăn theo lũ con,làm trĩu thêm gánh nặng lên đôi vai vợ mình.Vậy mà bà Tú lại “nuôi đủ” cả về vật chất và tinh thần,hơn ai hết ông Tú hiểu được nỗi vất vả của bà Tú và công việc của bà,từ đó ông càng yêu thương,trân trọng,ngợi ca người phụ nữ đảm đang,tháo vát,tảo tần-một người mẹ,1 người vợ Việt Nam giàu đức hi sinh cao đẹp.

Hai câu thơ tiếp theo,tác giả đã cụ thể hóa nỗi vất vả trong công việc của bà Tú:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”​
Với việc sử dụng đảo ngữ “lặn lội” đã nhấn mạnh sự lam lũ,vất vả của bà Tú và gợi ra sự bươn chải của bà.Hình ảnh “thân cò” trong câu thơ vừa gợi cho người đọc liên tưởng đến hình ảnh con cò trong ca dao xưa : “Con cò lặn lội bờ sông-Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non” chỉ thân phận nhỏ bé đặc biệt là người phụ nữ,vừa gợi nỗi đau thân phận,gợi cảm giác đáng thương,tội nghiệp.Hình ảnh ẩn dụ bà Tú chẳng khác nào “thân cò” tội nghiệp kia,phải lặn lội kiếm sống,nuôi gia đình “khi quãng vắng,buổi đò đông”.Cụm từ “khi quãng vắng”vừa chỉ thời gian: lúc muộn màng nhất, chiều muộn, lúc mà mọi người đã nghỉ ngơi,quây quần bên gia đình thì bà Tú vẫn phải tần tảo,lặn lội với công việc của mình; vừa chỉ không gian:địa điểm vắng vẻ,ít ai lui tới vậy mà bà Tú vẫn phải dấn thân kiếm từng đồng tiền bát gạo để nuôi chồng,nuôi con.Đảo ngữ “eo sèo” vừa là từ tượng hình vừa là từ tượng thanh gợi quang cảnh chợ đông,người mua kẻ bán chèo kéo ồn ào,phức tạp mà bà Tú vốn là con nhà khuê các bây giờ phải hòa vào môi trường hỗn tạp,không ít khó khăn.Bên cạnh đó “ buổi đò đông” gợi liên tưởng tới chuyến phà Tân Đệ xưa,tấp nập, không tránh khỏi sự chen lấn,xô bồ.Vậy mà bà Tú vẫn làm việc quanh năm cho thấy sự tần tảo,đảm đang tháo vát,giàu đức hi sinh vì chồng,vì con của bà Tú,cũng qua đó cho thấy sự thương cảm,xót xa của ông Tú đối với vợ của mình.

Từ nỗi vất vả cực nhọc của bà Tú,ông Tú đã khái quát nên sự hi sinh thầm lặng của bà:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”​
“Duyên nợ” theo quan niệm dân gian là từ dùng để chỉ quan hệ tình cảm gắn bó khăng khít đặc biệt là tình cảm vợ chồng. “Duyên” là duyên may hạnh phúc. “nợ” là gánh nặng bởi vậy mà Tú Xương mới tách câu thơ ra thành “một duyên /hai nợ”.Bà Tú lấy ông Tú có thể coi là cái duyên hạnh phúc vì được ông trân trọng nhưng duyên thì chỉ có một mà nợ thì lại nhiều gấp đôi,câu thơ như tiếng thở dài của ông Tú thay cho vợ của mình.Đây cũng là tiếng nói cảm thương,trân trọng của ông Tú dành cho bà Tú,cuộc sống vất vả,chuân chuyên là thế mà bà không hề oán than nửa lời,trái lại còn “âu đành phận”- chấp nhận thiệt thòi,chấp nhận cuộc sống vất vả,cơ cực.Thành ngữ “năm nắng mười mưa” khiến ta liên tưởng tới thành ngữ “một nắng hai sương”,thành ngữ đã nhấn mạnh sự nhọc nhằn,vất vả nhưng bà Tú vẫn tự nhủ “dám quản công”-không so đo hay kể công.Từ vần thơ của ông Tú ta thấy được tình yêu thương và đức hi sinh lớn lao,hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.Phải chăng sự nhẫn nhịn,vị tha,hi sinh của bà Tú cũng là những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam?

Từ sự cảm thông,thấu hiểu nỗi vất vả của bà Tú,ý thơ đột ngột thay đổi:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”​
Tiếng chửi “cha mẹ thói đời” là tiếng nói gay gắt,quyết liệt,đày căm phẫn của ông Tú đối với “thói đời”hay chính là xã hội phong kiến đầy bất công ngang trái không biết trọng dụng nhân tài đã khiến con người tài đức như ông Tú trở thành bất tài,vô dụng.Đồng thời là tiếng nói lên án xã hội đối xử không công bằng đối với người phụ nữ,trói buộc họ trong “tam tòng” tứ đức,trong những hủ tục hà khắc và trút tất cả những gánh nặng lên đôi vai bé nhỏ của họ.Bên cạnh đó,ông Tú còn lên tiếng chửi chính bản thân mình “Có chồng hờ hững cũng như không”,tự cho mình là vô tích sự ,đã không giúp gì cho vợ con lại còn là gánh nặng cho gia đình.Đó là sự chân thành của ông Tú bởi lẽ ông tự nhận ra lỗi lầm của mình,ăn năn,hối hận,bởi vậy ông Tú đáng thương hơn đáng trách.

Với thể thơ thất ngôn bát cú ngắn gọn,hàm súc kết hợp với các yêu tố của văn học dân gian,giọng điệu thơ vừa trữ tình vừa trào phúng đã tạo nên nét độc đáo rất riêng của bài thơ.Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ đã góp phần truyền tải nội dung nhân đạo,nhân văn sâu sắc:Tình yêu thương vợ,nỗi vất vả,chuân chuyên và đặc biệt là thái độ trân trọng của ông Tú dành cho vợ.Cũng qua đó người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp con người tác giả.Bài thơ “Thương vợ” nói riêng và văn chương của Tú Xương nói chung đã tạo điểm nhấn và là giàu có,đặc sắc,cuốn hút cho nền văn học Trung Đại Việt Nam. “Thương vợ” là một bài thơ đặc sắc mà có lẽ hiếm có bài thơ nào khác đạt cảm xúc sâu sắc đến thế.Đọc “Thương vợ” ta càng cảm thông với những tâm tư của người phụ nữ xưa,càng thêm yêu quý những người mẹ,người chị hôm nay.
 
Last edited by a moderator:

Kim Thị Thu

Học sinh
Thành viên
8 Tháng sáu 2018
66
103
21
23
Nam Định
Trung học phổ thông Trực Ninh B
Nhân vật Huấn Cao:

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ . Và nhân vật Huấn Cao trong “ Chữ người tử tù” cũng mang nét đặc trưng ấy.

Truyện ngắn “ Chữ người tử tù” đã dựng lên một thế giới tù ngục tăm tối, hỗn độn, xô bồ. Trong thế giới ấy hiện lên ba đốm sáng lẻ loi, cô đơn: Huấn Cao, viên quản ngục và thầy thơ lại. Những con người có tài và biết trọng tài, có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí, họ tình cờ gặp nhau trong một tình huống trớ trêu, từ chỗ đối nghịch, ngờ vực nhau dần đi đến hiểu nhau và trở thành tri kỉ. Ba đốm sáng ấy cuối cùng lại thắp lên ngọn lửa rực sáng và đưa cái đẹp lên ngôi.

Nhân vật trung tâm trong “ Chữ người tử tù” là Huấn Cao, một người văn võ song toàn nhưng do cường quyền áp chế đến nỗi phải đi làm giặc rồi sa cơ trở thành tên tử tù khổ nhục. Nhưng xiềng xích hay ngục tối cũng không thể che lấp được ánh sáng của cái đẹp đang phát ra từ tâm hồn cao đẹp.

Huấn Cao được khắc họa trong tác phẩm là con người có tài viết chữ được ca ngợi qua lời của quản ngục “ Huấn Cao hay cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?”. Tài viết chữ của Huấn Cao đã trở thành sự ngưỡng mộ của nhân dân tỉnh Sơn, đối với quản ngục cũng vậy. Từ khi đọc vỡ sách thánh hiền thì sở nguyện của quản ngục là một ngày kia được treo chữ do chính tay ông Huấn Cao viết ở nhà riêng và coi dó như một vật báu trên đời.Nếu Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin mấy chữ thì sẽ ân hận suốt đời cho thấy khao khát ngưỡng vọng của viên quản ngục. Bên cạnh đó tài viết chữ của ông Huấn Cao còn được ca ngợi trực tiếp qua lời của tác giả “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Chính Huấn Cao cũng từng nói về chữ viết của mình “ những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên hoài bão bão tung hoành của một đời con người.

Chữ của Huấn Cao là chữ thư pháp- là thú chơi chữ của người xưa, chữ được viết bằng bút long, mực tàu trên vuông lụa trắng, hoặc trạm khắc trên gỗ. Nét chữ có khi vuông vắn, có khi là nét thanh nét đậm nhưng dù viết thế nào cũng đẹp tựa phượng múa rồng bay. Chữ viết của Huấn Cao không chỉ đẹp bởi hình khối, đường nét mà dường như còn là nét chữ, nết người. Chữ viết thể hiện nhân cách, hoài bão của con người, chính vì thế mà chữ của Huấn Cao được người đời ca ngợ, cái đẹp của chữ không chỉ ở bên ngoài mà quan trọng hơn là vẻ đẹp tâm hồn, nó nói lên cái hoài bão tung hoành thiên hạ của ông Huấn. Nếu như chữ thư pháp là một nghệ thuật thì Huấn Cao là 1 nghệ sĩ vừa có tài, vừa có khí phách, vừa có chí lớn. Qua việc ngời ca tài viết chữ của Huấn Cao tác giả Nguyễn Tuân đã thể hiện quan điểm của mình về nghệ thuật “Cái đẹp phải gắn liền với khí phách và nhân cách con người” . Bên cạnh đó, tác giả còn trân trọng nghệ thuật thi pháp cổ truyền của cha ông và ca ngợi bậc tài hoa của dân tộc cũng chính là thể hiện sâu sắc lòng yêu nước.

Chữ viết của Huấn Cao cũng đã phần nào thể hiện được khí phách của ông đồng thời khí phách ấy cũng được bộc lộ rõ nét qua những hành động của ông. Trước những lời dọa nạt, ra oai của bọn lính canh thì Huấn Cao vẫn lạnh lung dỗ gông “ ông chúc mũi gông lại, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái, then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt.” Chính hành độn của Huấn Cao đã cho thấy sức mạnh của ông và thái độ điềm nhiên, bình tĩnh trước cường quyền. Khí phách của hx còn được thể hiện qua lời nói của ông với quản ngục khi được biệt đãi “ ông thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình.” Huấn Cao đang ở ranh giới của sự sống và cái chết, cuộc sống được tính bằng ngày nhưng ông vẫn ung dung sống những ngày tháng cuối cùng của một cuộc đời đầy oanh liệt. Khi quản ngục hỏi “ vậy ngài có cần thêm gì xin cho biết tôi sẽ cố gắng chu tất ?” Huấn Cao đã trả lời quản ngục : “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có 1 điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Giọng nói của Huấn Cao khinh bạc đến điều , câu nói đầy thách thức, chắc hẳn Huấn Cao đã lường trước những thủ đoạn báo thù và những thủ đoạn của quản ngục khi bị xỉ nhục nhưng ông không hề mảy may run sợ vì chọc trời khuấy nước đến trên đầu ông còn chẳng biết đến ai nữa là bọn tiểu lại giữ tù. Không chỉ quản ngục mà thầy thơ lại cũng phải thốt lên : “ Thế ra văn võ y đều có tài cả. Chà chà. Giả thử tôi là đao phủ phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc” cho thấy sự ngưỡng mộ, nuối tiếc cho một khí phách hơn người. Huấn Cao dám đứng lên chống lại sự thối nát, bạt nhược của triều đình phong kiến đã cho thấy khí phách nhà nho tiết tháo, uy vũ, bất năng khuất.

Huấn Cao không chỉ có tài , không chỉ có khí phách hiên ngang mà còn có thiên lương trong sáng. Đây cũng chính là sự sáng tạo đầy tinh tế của Nguyễn Tuân, ông chỉ ngợi ca cái tài khi nó đi liền với cái tâm. Huấn Cao có cái tài viết chữ đẹp ai ai cũng ngưỡng mộ nhưng ông không hề có tư tưởng biến chữ viết thành phương tiện kiếm lời mà còn cực kì khắt khe với cái tài ấy: “Nhất sinh ta không vì tiền bạc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ, đời ta cũng chỉ mới viết một bức trung đường và hai bộ tứ bình cho ba người bạn thân.” Mặc dù khắt khe với cái tài của mình nhưng khi biết sở nguyện cao quý của quản ngục thì lập tức nhận lời cho chữ, cho chữ rồi còn thốt lên “ thiếu chút nữa ta đã phụ 1 tấm lòng trong thiên hạ.” Câu nói của Huấn Cao nghe như xót xa, ân hận vì đã phụ tấm lòng của người tri kỉ. Huấn Cao không chỉ cho chữ mà còn cho cả cái tâm chân thành “ ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến việc chơi chữ, ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc cái đời lương thiện đi.”

Với nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, tình huống truyện hấp dẫn, lôi cuốn và qua hành động, ngôn ngữ, tác giả Nguyễ Tuân đã chạm khắc lên một nhân vật Huấn Cao với vẻ đẹp toàn diện. ông Huấn Cao không chỉ có cái tài viết chữ đẹp mà còn là người có khí phách hiên ngang, thiên lương trong sáng. Qua đó thể hiện quan điểm của Nguyễ Tuân là “ cái đẹp phải đi liền với sự cao quý, cái tài phải gắn với cái tâm, khí phách phải gắn với thiên lương trong sáng.”

Nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng , sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đáo bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại dần.
 
Last edited by a moderator:

dương bình an

Banned
Banned
23 Tháng năm 2018
341
299
51
Hà Nội
lưu ban A
Nhân vật trữ tình tìm đến rượu để giải hết sầu muộn thế nhưng nàng “say lại tỉnh”,quên rồi nhớ chỉ trong chốc lát,đối diện với hiện thực càng làm cho nhân vật ý thức sâu sắc bất hạnh cuộc đời.Ngoại cảnh và tâm trạng đã tạo nên sự đồng nhất giữa trăng và người : “vầng trăng bóng xế ” nhưng “khuyết chưa tròn” hay tuổi thanh xuân của con người qua đi mà tình
Composed by : Kim Thị Thu _1712_
khi phân tích giá trị nhận đạo,giá trị hiện thực
thì ''khuyết chưa tròn '' còn có 1 nghĩa khác thể hiện 1 giá trị gì đó nữa mình nhớ là được học như vậy
bạn tự tìm hiểu nhá
nếu viết thêm được thì bài văn chỗ ý rất có chiều sâu
 

Ye Ye

Cây bút Truyện ngắn 2017|Thần tượng văn học
Hội viên CLB Ngôn từ
Thành viên
10 Tháng bảy 2017
2,064
2,347
434
Hà Nam
NEU (Dream)
Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ . Và nhân vật Huấn Cao trong “ Chữ người tử tù” cũng mang nét đặc trưng ấy.
Truyện ngắn “ Chữ người tử tù” đã dựng lên một thế giới tù ngục tăm tối, hỗn độn, xô bồ. Trong thế giới ấy hiện lên ba đốm sáng lẻ loi, cô đơn: Huấn Cao, viên quản ngục và thầy thơ lại. Những con người có tài và biết trọng tài, có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí, họ tình cờ gặp nhau trong một tình huống trớ trêu, từ chỗ đối nghịch, ngờ vực nhau dần đi đến hiểu nhau và trở thành tri kỉ. Ba đốm sáng ấy cuối cùng lại thắp lên ngọn lửa rực sáng và đưa cái đẹp lên ngôi.
Nhân vật trung tâm trong “ Chữ người tử tù” là Huấn Cao, một người văn võ song toàn nhưng do cường quyền áp chế đến nỗi phải đi làm giặc rồi sa cơ trở thành tên tử tù khổ nhục. Nhưng xiềng xích hay ngục tối cũng không thể che lấp được ánh sáng của cái đẹp đang phát ra từ tâm hồn cao đẹp.
Huấn Cao được khắc họa trong tác phẩm là con người có tài viết chữ được ca ngợi qua lời của quản ngục “ Huấn Cao hay cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?”. Tài viết chữ của Huấn Cao đã trở thành sự ngưỡng mộ của nhân dân tỉnh Sơn, đối với quản ngục cũng vậy. Từ khi đọc vỡ sách thánh hiền thì sở nguyện của quản ngục là một ngày kia được treo chữ do chính tay ông Huấn Cao viết ở nhà riêng và coi dó như một vật báu trên đời.Nếu Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin mấy chữ thì sẽ ân hận suốt đời cho thấy khao khát ngưỡng vọng của viên quản ngục. Bên cạnh đó tài viết chữ của ông Huấn Cao còn được ca ngợi trực tiếp qua lời của tác giả “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Chính Huấn Cao cũng từng nói về chữ viết của mình “ những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên hoài bão bão tung hoành của một đời con người.
Chữ của Huấn Cao là chữ thư pháp- là thú chơi chữ của người xưa, chữ được viết bằng bút long, mực tàu trên vuông lụa trắng, hoặc trạm khắc trên gỗ. Nét chữ có khi vuông vắn, có khi là nét thanh nét đậm nhưng dù viết thế nào cũng đẹp tựa phượng múa rồng bay. Chữ viết của Huấn Cao không chỉ đẹp bởi hình khối, đường nét mà dường như còn là nét chữ, nết người. Chữ viết thể hiện nhân cách, hoài bão của con người, chính vì thế mà chữ của Huấn Cao được người đời ca ngợ, cái đẹp của chữ không chỉ ở bên ngoài mà quan trọng hơn là vẻ đẹp tâm hồn, nó nói lên cái hoài bão tung hoành thiên hạ của ông Huấn. Nếu như chữ thư pháp là một nghệ thuật thì Huấn Cao là 1 nghệ sĩ vừa có tài, vừa có khí phách, vừa có chí lớn. Qua việc ngời ca tài viết chữ của Huấn Cao tác giả Nguyễn Tuân đã thể hiện quan điểm của mình về nghệ thuật “Cái đẹp phải gắn liền với khí phách và nhân cách con người” . Bên cạnh đó, tác giả còn trân trọng nghệ thuật thi pháp cổ truyền của cha ông và ca ngợi bậc tài hoa của dân tộc cũng chính là thể hiện sâu sắc lòng yêu nước.
Chữ viết của Huấn Cao cũng đã phần nào thể hiện được khí phách của ông đồng thời khí phách ấy cũng được bộc lộ rõ nét qua những hành động của ông. Trước những lời dọa nạt, ra oai của bọn lính canh thì Huấn Cao vẫn lạnh lung dỗ gông “ ông chúc mũi gông lại, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái, then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt.” Chính hành độn của Huấn Cao đã cho thấy sức mạnh của ông và thái độ điềm nhiên, bình tĩnh trước cường quyền. Khí phách của hx còn được thể hiện qua lời nói của ông với quản ngục khi được biệt đãi “ ông thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình.” Huấn Cao đang ở ranh giới của sự sống và cái chết, cuộc sống được tính bằng ngày nhưng ông vẫn ung dung sống những ngày tháng cuối cùng của một cuộc đời đầy oanh liệt. Khi quản ngục hỏi “ vậy ngài có cần thêm gì xin cho biết tôi sẽ cố gắng chu tất ?” Huấn Cao đã trả lời quản ngục : “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có 1 điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Giọng nói của Huấn Cao khinh bạc đến điều , câu nói đầy thách thức, chắc hẳn Huấn Cao đã lường trước những thủ đoạn báo thù và những thủ đoạn của quản ngục khi bị xỉ nhục nhưng ông không hề mảy may run sợ vì chọc trời khuấy nước đến trên đầu ông còn chẳng biết đến ai nữa là bọn tiểu lại giữ tù. Không chỉ quản ngục mà thầy thơ lại cũng phải thốt lên : “ Thế ra văn võ y đều có tài cả. Chà chà. Giả thử tôi là đao phủ phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc” cho thấy sự ngưỡng mộ, nuối tiếc cho một khí phách hơn người. Huấn Cao dám đứng lên chống lại sự thối nát, bạt nhược của triều đình phong kiến đã cho thấy khí phách nhà nho tiết tháo, uy vũ, bất năng khuất.
Huấn Cao không chỉ có tài , không chỉ có khí phách hiên ngang mà còn có thiên lương trong sáng. Đây cũng chính là sự sáng tạo đầy tinh tế của Nguyễn Tuân, ông chỉ ngợi ca cái tài khi nó đi liền với cái tâm. Huấn Cao có cái tài viết chữ đẹp ai ai cũng ngưỡng mộ nhưng ông không hề có tư tưởng biến chữ viết thành phương tiện kiếm lời mà còn cực kì khắt khe với cái tài ấy: “Nhất sinh ta không vì tiền bạc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ, đời ta cũng chỉ mới viết một bức trung đường và hai bộ tứ bình cho ba người bạn thân.” Mặc dù khắt khe với cái tài của mình nhưng khi biết sở nguyện cao quý của quản ngục thì lập tức nhận lời cho chữ, cho chữ rồi còn thốt lên “ thiếu chút nữa ta đã phụ 1 tấm lòng trong thiên hạ.” Câu nói của Huấn Cao nghe như xót xa, ân hận vì đã phụ tấm lòng của người tri kỉ. Huấn Cao không chỉ cho chữ mà còn cho cả cái tâm chân thành “ ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến việc chơi chữ, ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc cái đời lương thiện đi.”
Với nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, tình huống truyện hấp dẫn, lôi cuốn và qua hành động, ngôn ngữ, tác giả Nguyễ Tuân đã chạm khắc lên một nhân vật Huấn Cao với vẻ đẹp toàn diện. ông Huấn Cao không chỉ có cái tài viết chữ đẹp mà còn là người có khí phách hiên ngang, thiên lương trong sáng. Qua đó thể hiện quan điểm của Nguyễ Tuân là “ cái đẹp phải đi liền với sự cao quý, cái tài phải gắn với cái tâm, khí phách phải gắn với thiên lương trong sáng.”
Nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng , sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đáo bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại dần.
Bạn tự làm à?
 

Dương Sảng

The Little Angel |Bio Hero
Thành viên
28 Tháng một 2018
2,884
2,779
451
Hà Nội
HMF
Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ . Và nhân vật Huấn Cao trong “ Chữ người tử tù” cũng mang nét đặc trưng ấy.
Truyện ngắn “ Chữ người tử tù” đã dựng lên một thế giới tù ngục tăm tối, hỗn độn, xô bồ. Trong thế giới ấy hiện lên ba đốm sáng lẻ loi, cô đơn: Huấn Cao, viên quản ngục và thầy thơ lại. Những con người có tài và biết trọng tài, có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí, họ tình cờ gặp nhau trong một tình huống trớ trêu, từ chỗ đối nghịch, ngờ vực nhau dần đi đến hiểu nhau và trở thành tri kỉ. Ba đốm sáng ấy cuối cùng lại thắp lên ngọn lửa rực sáng và đưa cái đẹp lên ngôi.
Nhân vật trung tâm trong “ Chữ người tử tù” là Huấn Cao, một người văn võ song toàn nhưng do cường quyền áp chế đến nỗi phải đi làm giặc rồi sa cơ trở thành tên tử tù khổ nhục. Nhưng xiềng xích hay ngục tối cũng không thể che lấp được ánh sáng của cái đẹp đang phát ra từ tâm hồn cao đẹp.
Huấn Cao được khắc họa trong tác phẩm là con người có tài viết chữ được ca ngợi qua lời của quản ngục “ Huấn Cao hay cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?”. Tài viết chữ của Huấn Cao đã trở thành sự ngưỡng mộ của nhân dân tỉnh Sơn, đối với quản ngục cũng vậy. Từ khi đọc vỡ sách thánh hiền thì sở nguyện của quản ngục là một ngày kia được treo chữ do chính tay ông Huấn Cao viết ở nhà riêng và coi dó như một vật báu trên đời.Nếu Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin mấy chữ thì sẽ ân hận suốt đời cho thấy khao khát ngưỡng vọng của viên quản ngục. Bên cạnh đó tài viết chữ của ông Huấn Cao còn được ca ngợi trực tiếp qua lời của tác giả “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Chính Huấn Cao cũng từng nói về chữ viết của mình “ những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên hoài bão bão tung hoành của một đời con người.
Chữ của Huấn Cao là chữ thư pháp- là thú chơi chữ của người xưa, chữ được viết bằng bút long, mực tàu trên vuông lụa trắng, hoặc trạm khắc trên gỗ. Nét chữ có khi vuông vắn, có khi là nét thanh nét đậm nhưng dù viết thế nào cũng đẹp tựa phượng múa rồng bay. Chữ viết của Huấn Cao không chỉ đẹp bởi hình khối, đường nét mà dường như còn là nét chữ, nết người. Chữ viết thể hiện nhân cách, hoài bão của con người, chính vì thế mà chữ của Huấn Cao được người đời ca ngợ, cái đẹp của chữ không chỉ ở bên ngoài mà quan trọng hơn là vẻ đẹp tâm hồn, nó nói lên cái hoài bão tung hoành thiên hạ của ông Huấn. Nếu như chữ thư pháp là một nghệ thuật thì Huấn Cao là 1 nghệ sĩ vừa có tài, vừa có khí phách, vừa có chí lớn. Qua việc ngời ca tài viết chữ của Huấn Cao tác giả Nguyễn Tuân đã thể hiện quan điểm của mình về nghệ thuật “Cái đẹp phải gắn liền với khí phách và nhân cách con người” . Bên cạnh đó, tác giả còn trân trọng nghệ thuật thi pháp cổ truyền của cha ông và ca ngợi bậc tài hoa của dân tộc cũng chính là thể hiện sâu sắc lòng yêu nước.
Chữ viết của Huấn Cao cũng đã phần nào thể hiện được khí phách của ông đồng thời khí phách ấy cũng được bộc lộ rõ nét qua những hành động của ông. Trước những lời dọa nạt, ra oai của bọn lính canh thì Huấn Cao vẫn lạnh lung dỗ gông “ ông chúc mũi gông lại, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái, then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt.” Chính hành độn của Huấn Cao đã cho thấy sức mạnh của ông và thái độ điềm nhiên, bình tĩnh trước cường quyền. Khí phách của hx còn được thể hiện qua lời nói của ông với quản ngục khi được biệt đãi “ ông thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình.” Huấn Cao đang ở ranh giới của sự sống và cái chết, cuộc sống được tính bằng ngày nhưng ông vẫn ung dung sống những ngày tháng cuối cùng của một cuộc đời đầy oanh liệt. Khi quản ngục hỏi “ vậy ngài có cần thêm gì xin cho biết tôi sẽ cố gắng chu tất ?” Huấn Cao đã trả lời quản ngục : “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có 1 điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Giọng nói của Huấn Cao khinh bạc đến điều , câu nói đầy thách thức, chắc hẳn Huấn Cao đã lường trước những thủ đoạn báo thù và những thủ đoạn của quản ngục khi bị xỉ nhục nhưng ông không hề mảy may run sợ vì chọc trời khuấy nước đến trên đầu ông còn chẳng biết đến ai nữa là bọn tiểu lại giữ tù. Không chỉ quản ngục mà thầy thơ lại cũng phải thốt lên : “ Thế ra văn võ y đều có tài cả. Chà chà. Giả thử tôi là đao phủ phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc” cho thấy sự ngưỡng mộ, nuối tiếc cho một khí phách hơn người. Huấn Cao dám đứng lên chống lại sự thối nát, bạt nhược của triều đình phong kiến đã cho thấy khí phách nhà nho tiết tháo, uy vũ, bất năng khuất.
Huấn Cao không chỉ có tài , không chỉ có khí phách hiên ngang mà còn có thiên lương trong sáng. Đây cũng chính là sự sáng tạo đầy tinh tế của Nguyễn Tuân, ông chỉ ngợi ca cái tài khi nó đi liền với cái tâm. Huấn Cao có cái tài viết chữ đẹp ai ai cũng ngưỡng mộ nhưng ông không hề có tư tưởng biến chữ viết thành phương tiện kiếm lời mà còn cực kì khắt khe với cái tài ấy: “Nhất sinh ta không vì tiền bạc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ, đời ta cũng chỉ mới viết một bức trung đường và hai bộ tứ bình cho ba người bạn thân.” Mặc dù khắt khe với cái tài của mình nhưng khi biết sở nguyện cao quý của quản ngục thì lập tức nhận lời cho chữ, cho chữ rồi còn thốt lên “ thiếu chút nữa ta đã phụ 1 tấm lòng trong thiên hạ.” Câu nói của Huấn Cao nghe như xót xa, ân hận vì đã phụ tấm lòng của người tri kỉ. Huấn Cao không chỉ cho chữ mà còn cho cả cái tâm chân thành “ ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến việc chơi chữ, ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc cái đời lương thiện đi.”
Với nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, tình huống truyện hấp dẫn, lôi cuốn và qua hành động, ngôn ngữ, tác giả Nguyễ Tuân đã chạm khắc lên một nhân vật Huấn Cao với vẻ đẹp toàn diện. ông Huấn Cao không chỉ có cái tài viết chữ đẹp mà còn là người có khí phách hiên ngang, thiên lương trong sáng. Qua đó thể hiện quan điểm của Nguyễ Tuân là “ cái đẹp phải đi liền với sự cao quý, cái tài phải gắn với cái tâm, khí phách phải gắn với thiên lương trong sáng.”
Nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng , sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đáo bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại dần.
Có phải bạn muốn các bạn khác nhận xét về bài làm của mình không ? Hay là đăng lên cho các thành viên khác tham khảo ?
 

Kim Thị Thu

Học sinh
Thành viên
8 Tháng sáu 2018
66
103
21
23
Nam Định
Trung học phổ thông Trực Ninh B
Có phải bạn muốn các bạn khác nhận xét về bài làm của mình không ? Hay là đăng lên cho các thành viên khác tham khảo ?
Mình muốn đăng lên vừa là giúp các bạn khác tham khảo, đồng thời mong muốn các bạn khác góp ý để bài viết có chiều sâu hơn
 

dương bình an

Banned
Banned
23 Tháng năm 2018
341
299
51
Hà Nội
lưu ban A
đây là bài mình dựa vào kiến thức học trên lớp, có tham khảo ý kiến của giáo viên bộ môn và một số gợi ý trên mạng, nhưng ngôn ngữ và câu từ là của mình viết nhé
Mình muốn đăng lên vừa là giúp các bạn khác tham khảo, đồng thời mong muốn các bạn khác góp ý để bài viết có chiều sâu hơn
bạn rất có tinh thần hjhj
tuy nhiên viết MB chăm chút tí cho đỡ tốn công nhé
 
Top Bottom