BÀI LÀM 
Trao duyên, em hỏi, chị thưa... 
“Lạy thưa”, “gửi lạy”...tình chưa đoạn tình! 
    Sao đã “trao”, đã “gửi” mà “tình chưa đoạn tình”?Cảm xúc này có  thể lý giải qua việc phân tích tâm trạng bi kịch của Kiều trong đêm  “trao duyên”. 
    Trước tiên, hãy hiểu Vân đôi chút, bởi lẽ Vân trực tiếp đối thoại, khơi gợi và chuẩn bị cho Kiều bộc lộ tâm sự của mình.    
    Người ta hay nói rằng nàng Vân “vô tư”(?) có lẽ là ở chỗ này: cả  nhà vừa mắc oan, mới “thong dong” một chút, trong khi chị Kiều một mình  một ngọn đèn khuya: “Dầu chong thấm đĩa, lệ tràn thấm khăn” thì em Vân  hình như không chống nổi các quy luật sinh lý cho nên đã có một “giấc  xuân” êm đềm!Song đến cuộc trao duyên, bắt đầu ta nghe Vân “ân cần hỏi  han” chị, ta lại nghĩ Vân chưa hẳn vô tình, những điều cô hỏi chứng tỏ  cô hiểu đời, cái đời “dâu bể đa đoan”, biến động khôn lường...Cô biết  nỗi oan của mình, oan “một nhà” mà cô nghĩ “để chị riêng oan”, cô ngủ mà  cô vẫn biết chị “ngồi nhẫn tàn canh, nỗi riêng còn mắc mối tình chi  đây?”.Nguyễn Du quả đã khéo sắp đặt: để cho Vân hỏi chị trước, hỏi vừa  đủ mà “trúng đích”, hỏi thể tất “nhân tình”!Và trong suốt cuộc trao  duyên, Vân chỉ hỏi mỗi một lần, rồi lẳng lặng mà nghe... 
    Vậy ra Vân cũng hay đấy chứ, cô đã tỏ ra “biết chuyện” và đã  khơi gợi, tạo cơ hội cho chị Kiều bày tỏ, nhưng bày tỏ sao đây trong khi  chị Kiều: 
Hở môi ra cũng thẹn thùng 
    Chị buộc phải trao duyên – cái duyên vợ chồng với Kim Trọng cho  em! Chuyện ấy, “hở môi ra” đã thẹn.Biết thẹn mà phải nói, nói để mà  trao, sự tình đã đến thế thì chị phải thổ lộ thật, thổ lộ hết cùng  em.Thật lòng là chị “đương thổn thức đầy”, “còn vương vấn mối này chưa  xong”, thật lòng là chị ngượng, vì vậy mà điều băn khoăn day dứt trắng  đêm nay, chị gửi trong mấy lời thành thật: 
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai 
    Ấy chính là cái gút của tâm trạng bi kịch trao duyên vừa là vấn  đề “ức xúc” đặt ra cho chị, và cho cả em giải quyết.Vân thương chị, hẳn  là cảm nhận được cái tâm, cái tình trong đó, và hẳn cô đã lờ mờ thấy chị  đang có yêu cầu gì với mình đây...Thúy Kiều thật khó nói, mà lại khó  nói hơn khi phải nói một chuyện mà mình không muốn nói – mà vẫn “phải”  nói cho em nghe, thật rối rắm, thật khó xử, thật là “đau đầu” cho cả em  lẫn chị...Đến nước này thì chị phải nhờ vả em thôi, em có hiểu không  Vân?Tâm trạng Kiều thật sự bối rối, cách giải quyết của Kiều là sự họat  động về tình cảm chị em mà thôi, chứ không phải là lí trí: 
Cậy em, em có chịu lời 
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa 
    Đến nước này thì chị phải cậy em thôi, chị tin rằng em sẽ bằng  lòng giúp chị mà, “em có chịu lời” của chị không?Câu thơ như van xin,  như cầu khẩn, câu thơ đặt ra vấn đề cho Vân, và Kiều thăm dò ý của em  mình, ở đây Kiều không ép, mà Vân cũng chẳng phật lòng, càng dễ cảm  thông cùng chị, Kiều mới yêu cầu em: 
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa 
    Sao lại thế nhỉ?Theo tôi, có lẽ Vân cảm thấy đột ngột trước yêu  cầu này.Người đọc thì cảm thấy như có sự “thay bậc đổi ngôi”, có sự  “hóan vị”, em bỗng như là chị, chị bỗng như là em (cúi mình “lạy”).Thì  ra chính cái yêu cầu kia là xuất phát từ tình thế, tâm trạng chị: vì  chuyện tình riêng, chị phải “lạy thưa” em, “cậy” nhờ em, đương nhiên em  sẽ là ân nhân của chị!Thúy Kiều lạy thưa là tỏ trước tấm lòng biết ơn  của mình, và cũng là xuất phát từ sự trân trọng của mình trước chuyện  “trao duyên” thiêng liêng, hệ trọng này.Câu thơ trên gợi ý có tình, câu  thơ dưới cầu khiến có tình, quả nhiên hai câu thơ có sức thuyết phục đặc  biệt! 
    Kiều bắt đầu kể cho em nghe chuyện tình của mình với Kim Trọng: 
Kể từ khi gặp chàng Kim 
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề 
    Phải rồi, kể từ đó – từ khi gặp chàng Kim, chị đã có tình yêu và  tình yêu đó ngày càng sâu đậm hơn.Kiểu thổ lộ với em thật thà, không  giấu giếm, thật trong sáng, tình yêu của Kiều là do thiên tính – là do  trời chỉ định, Kiều “quan niệm” tình yêu của mình khác với “quan niệm”  phong kiến, đó là sự cảm nhận yêu thương từ trong trái tim chứ không là  sự thức ép.Phải chăng, Nguyễn Du đã cho Kiều ít nhiều nói lên sự tự do  yêu thương của con người trong xã hội lúc đó? 
    Sau mấy câu kể vắn tắt chuyện tình riêng của Kim Trọng, Kiều tiếp tục thuyết phục em bằng cả lí, cả tình: 
Sự đâu sóng gió bất kì 
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vạn hai? 
    Từ tình cảm của mình, Kiều nói đến cái lí, cái lí phải chọn một  trong hai điều để trọn vẹn một điều nào, hi sinh điều nào.Kiều nghĩ Vân  sẽ ắt hiểu và hiểu thêm tâm trạng bi kịch của mình nữa. 
Ngày xuân em hãy còn dài 
Xót tình máu mủ thay lời nước non 
    Em còn trẻ, em hãy thương chị mà thay chị lấy chàng Kim.Ấy chính  là tình.Chỉ cần nói mấy tiếng “xót tình máu mủ” là đủ xóay tận vào đáy  lòng em rồi.Mà em đã “xót tình máu mủ” thì làm sao có thể từ chối “thay  lời nước non”?Câu thơ nghe não lòng, nghe như có tiếng kêu thương thống  thiết khiến Vân phải nghĩ đến bổn phận mình phải làm thế nào cho phải... 
    Kiều mới nói tiếp: 
Cho dù thịt nát xương mòn 
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây 
    Đó là những lời gan ruột của Kiều – một người chị bất hạnh.Lí,  tình mà Kiều giãi bày thật tình như vậy, Thúy Vân chỉ còn biết lẳng lặng  mà nghe, lẳng lặng mà chấp nhận! 
    Đây là nỗi đau lớn nhất và đầu tiên trong suốt cuộc đời của  Kiều, cho nên khi nhắc đến chàng Kim, Kiều vô tình chạm vào nỗi đau sâu  thẳm nhất của mình, khiến cô tỏ ra bần thần, rối trí, không điều khiển  được mình: 
Chiếc thoa với bức tờ mây 
Duyên này thì giữ vật này của chung 
    Đọc câu thơ, ta nghe như có một giọng khang khác.Phải chăng, nội  tâm của Kiều lúc này phức tạp hơn, nên ngôn ngữ trở nên “bất bình  thường”? Ở đoạn trên ta thấy, dù thuyết phục em bằng lí, bằng tình hay  bằng cả hai, thì vẫn là ngôn ngữ lí trí, giọng thơ đều đều, trầm  trầm.Đến đâu thì lời thơ như nấc như nghẹn, cái “gút” tâm trạng trên kia  đã mở ra dường như được thắt lại ở chỗ này!Tại sao lại có sự khác lạ  trong lời nói vậy? Bởi do “chiếc thoa với bức tờ mây” đó thôi, nó là  hiện diện của tình yêu! Cầm kỷ vật cụ thể ở tay, trao cho em, Kiều bỗng  thấy vụt lên hình ảnh Kim Trọng cùng bao kỷ niệm, thề nguyền...và Kiều  chợt nghĩ: vật này là của ta, chàng là của ta, sao lại thành của Vân? Có  thể nào như vậy được?  Tâm lí Kiều lúc này cần một lời thỏa đáng, ít ra  là để tự an ủi mình.Cho nên câu thơ “Duyên này thì giữ vật này của  chung” là cả bao nhiêu sự giằng xé, níu kéo khủng khiếp trong tâm hồn,  con tim của Kiều, Nguyễn Du quả thật tinh tế và cũng thật nhân bản trong  ý thơ của mình. 
    Đến đoạn cuối cảnh trao duyên, nội tâm Kiều lại phức tạp hơn  nữa.Ta hãy nhớ lại: Trước cuộc trao duyên Kiều đã tự cho mình có lỗi với  Kim Trọng. Nàng vốn là người giàu tình, đa cảm, dễ ứng mộng...Nàng cũng  đã tự gọi mình là người “mệnh bạc”.Bây giờ đang trong nỗi đau mất mát  khủng khiếp, bỗng nhiên nàng thấy mình đáng thương nhất, đau đớn nhất, u  uất nhất, cay cực nhất.Rồi như người mất hồn, vẫn ngồi đây, mà hồn thi  bay xa xăm tận mai sau...Miệng đang nói với em mà như hồn nói với hồn  những điều hình dung, dự báo về “mai sau”! 
Mai sau dù có bao giờ 
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này 
Trôn ra ngọn cỏ lá cây 
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về 
Hồn còn mang nặng lời thề 
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai... 
    Thì ra, cái hồn vẫn chưa dứt nổi Kim Trọng! Hồn Kiều còn múon về  để “đền nghì trúc mai” để được “rảy xin chén nước” tẩy oan cho hồn! Câu  thơ nghe mới não lòng làm sao! Và dễ sợ làm sao! Nguyễn Du thương con  người thác oan, bạc mệnh hay Nguyễn Du nhạy cảm với nỗi đau nhân tình mà  đã đi xa hơn Thanh Tâm Tài Nhân? Nguyễn Du cho ta thấy cái “hồn” Kiều  đang vừa nói với mình, vừa nhớ thương Kim Trọng vụt trở thành cố  nhân...Trong giây phút ấy, Thúy Vân bỗng bị “hồn” Kiều quên đi, phải  chăng là một điều rất hợp lí? Kiều đang còn sống mà thấy mình đã chếtm  đang nói với em của mình mà không biết đang nói với ai, lúc này Kiều bị  rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm, và trước mắt Kiều, Thúy Vân trở  thành Kim Trọng, cho nên bao nhiêu tình thương nhớ, nỗi thương yêu ấp ủ  khi hồn đã lìa xác bỗng như được tuôn tràn ra: 
Bây giờ trâm gãy bình tan 
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! 
Trăm nghìn gửi lạy tình quân... 
    Trên kia, Kiều lạy em vì Kim Trọng, đến đây, hồn Kiều lạy chính  Kim Trọng.Nhưng đâu phải vậy, tất cà đều là gửi lạy qua Vân, gửi những  trăm nghìn lạy – lạy thương, lạy nhớ, lạy đau...thay vì lạy Kim Trọng,  bởi vì Kim Trọng lúc này không có mặt ở đây...Nhưng hồn Kiều vẫn chưa  nguôi nỗi niềm thương nhớ, cho nên hồn đã kêu khóc dầm dề: 
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! 
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! 
    Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa...bấy nhiêu tâm trạng dồn dập xuất  hiện trước mắt Kiều – vậy hóa ra hồn lại mâu thuẫn với người sao?Trên  kia người nói: 
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai 
    Trao duyên rồi, ngỡ như khỏi phụ và “nợ tình” đành là trả được  ít nhiều...Thế mà mãn cuộc trao duyên lại khóc “phụ chàng từ đây” là  nghĩa làm sao? Thế mới thật sự là giằng xé, thật sự là bi kịch. Và con  mắt tinh đời  của Nguyễn Du mới đúng là “nhìn thấu sáu cõi”, lòng đau  của Nguyễn Du mới đúng là “nghĩ suốt ngàn đời”.Quả như Chế Lan Viên đã  nói: “ Đây chính là những vần thơ siêu thực” bởi vì lần đầu tiên trong  lịch sử văn chương dân tộc, cái nghịch lí trong tâm trạng được phát hiện  và sử dụng để phân tích nội tâm nhân vật tiểu thuyết, phải chăng đó  chính là nét độc đáo, là lí do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!
Nguồn : net