B
baphu_d3
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã lùi xa chúng ta hôm nay hơn nửa thế kỉ, bụi thời gian đã xoá mờ lên biết bao nhiêu sự kiện, vấn đề, vậy mà hình ảnh:
“…Nhớ đêm ra đi khí trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai trơ tráng nợ anh hung
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm…”
vẫn còn in hằn mãi trong tâm trí người yêu thơ. Đó là hình ảnh của những trang nam nhi lên đường vì nghĩa lớn không hẹn ngày về vào mùa xuân năm 1947. Văn học với chức năng phản ánh hiện thực cuộc sống đã khắc tạc lại hình ảnh này. Là một thư kí trung thành của thời đại, Quang Dũng đã ghi lại hình ảnh trong bài thơ “Nhớ Tây tiến”- tên ban đầu của bài thơ. 10 năm sau, Quang Dũng cắt bỏ đi chữ “nhớ”, bài thơ chỉ còn là “Tây tiến”. Khi tiếp cận bài thơ này, người yêu thơ vẫn nhận thấy bao trùm lên 34 câu thơ của bài là nỗi nhớ da diết của nhân vật trữ tình. Hiện lên trên nỗi nhớ ấy là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc: dữ dội, khác thường nhưng cũng mỹ lệ, nên thơ; là hình ảnh của người lính Tây tiến- phần lớn xuất hiện từ thủ đô hoa lệ, những con người “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trích đoạn bình giảng gồm 8 câu thơ đã gói trọn nỗi nhớ ấy của người nghệ sỹ ở xứ Đoài “mây trắng bồng bềnh”:
“…Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”
Đoạn thơ bình giảng như một khúc nhạc hiện ra với hai lời cả. Bốn câu đầu là bức tượng đài của người lính Tây tiến:
“…Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”
Người xưa có câu “thi trung hữu hoạ” nên chăng ta chuyển thẳng đoạn thơ này thành một bức hoạ phẩm. Ở đó, hai câu thơ đầu Quang Dũng vẽ nên hình dáng bên ngoài của các anh, hai câu thơ sau ông đã lách sau ngòi bút để mô tả đời sống nội tâm của các anh:
“Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc kháng chiến trường kì gian khổ nhưng nhất định thắng lợi”(Trường Chinh). Các anh bộ đội cụ Hồ ra đi trong giai đoạn này phải chịu nhiều khó khăn, thiếu thốn: những thiếu thốn về vật chất, họ lại phải hành quân nung nấu trong suốt những đêm dài thế nên người lính Tây tiến trong giai đoạn này thường bị sốt rét rừng – đây là hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Hiện thực cuộc sống bước vào văn chương như một quy luật tất yếu bởi “nhà văn là thư kí trung thành của thời đại” (Ban-dắc). Viết về các anh, văn nghệ sĩ trong giai đoạn này thường bị ám ảnh bởi căn bệnh sốt rét rừng. Nếu căn bệnh này được cảm nhận qua tâm hồn những nhà thơ hiện thực cách mạng thì người lính hiện ra thật đáng thương, làm sao ta có thể quên được những vần thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”:
“…Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi…”
Có khi căn bệnh sốt rét rừng lại được hiện lên qua màu da vàng nghệ của anh vệ quốc quân trong bài “Cá nước” của Tố Hữu:
“…Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi! Sao mà yêu anh thế…”
Quang Dũng cũng viết về căn bện này nhưng ông đã cảm nhận bằng tâm hồn của một nhà thơ lãng mạn, đây là nghệ thuật nhất quán của nhà thơ Quang Dũng, nhân đây ta cũng nhắc qua nghệ thuật lãng mạn của Quang Dũng. Đó không phải là thứ lãng mạn tô hồng, bôi đen cuộc sống, thứ lãng mạn thoát li của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trước cách mạng tháng 8 (với những cây bút Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Thạch Lam). Nam Cao đã kịch liệt phê phán trong tác phẩm “Trăng sáng” năm 1943:”Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là anh trăng lừa dối! Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than!”. Quang Dũng đã lãng mạn hoá hiện thực là thứ lãng mạn cách mạng và lí tưởng. Hiện thực là những người linh Tây tiến vì mắc căn bệnh sốt rét rừng nên các anh đã bị rụng tóc. Hiện thực này tái hiện qua tâm hồn lãng mạn của Quang Dũng, nay được thể hiện trên trang thơ là hình ảnh:” Đoàn binh không mọc tóc”. Cách viết này, Quang Dũng đã làm toát lên tư tế chủ động của người lính Tây tiến. Vẫn biết rằng căn bệnh sốt rét làm cho da dẻ người lính xanh xao, vàng vọt. Qua tâm hồn lãng mạn của Quang Dũng, nó không còn là màu vàng nghệ, nó là màu xanh của lá nguỵ trang, màu xanh của cánh rừng bạt ngàn… . Nhờ có nghệ thuật lãng mạn, Quang Dũng viết về cái bi của hiện thực chiến tranh nhưng thơ của Quang Dũng không hề bi quan, bi luỵ trái lại là bi hùng, bi tráng. Nhưng điều quan trọng hơn với cách viết này, Quang Dũng đã làm tái hiện trước mắt chúng ta bức chân dung của những anh vệ trọc oai phong như mãnh hổ: dữ oai hùm, ngự trị giữa chốn rừng thiêng làm cho quân thù phải khiếp sợ. Hai câu thơ sau, Quang Dũng tập trung bú lực để miêu tả vẻ đẹp của người lính:
“…Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”
Ra đi theo tiếng gọi của lí tưởng, các anh bộ đội cụ Hồ đến từ mọi phương trời:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau…”
Họ bỏ lại đằng sau quê hương, nơi ấy có “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”; họ còn bỏ lại sau lưng hà thành mĩ lệ:
“…Người ra đi đầu không ngoảnh lại,
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…”
Đi sâu vào cuộc chiến tranh trường kì, giản khổ, từ trong sâu thẳm các anh bộ đội cụ Hồ thường nhớ về quê nhà. Nếu người lính xuất thân từ nông dân thì nỗi nhớ của họ chân chất, ngai ngái mùi lúa gạo, ta nhớ đến tứ thơ hay trong bài thơ “Nhớ” - Hồng Nguyên:
“…Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh tiếng mõ đêm trường
Luống cầy đất đỏ, ít người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya…”
Cũng có khi họ nhớ về cảnh tiễn đưa:
“…Xóm dưới, làng trên
Con trai, con gái
Xôi năm, cơm đùm
Ríu rít theo nhau…”
cần phải mở ngoặc đơn để nói với nhau rằng: đối tượng ra lính trong bài thơ này là những trí thức hà thành. Tâm hồn họ đã thấm nhuần áng văn chương cổ, họ xếp bút non nghiên lên đường vì nghĩa lớn. Nhớ về hà thành mĩ lệ, họ xem Hà Nội như một dáng kiều thơm là hoàn toàn hợp lí chứ sao?! Tiếc rằng, có thời kì người ta coi câu thơ này thể hiện rõ sự mộng rớt của tầng lớp tiểu tư sản vì vậy bài thơ này vắng bóng nhà trường 40 năm trời. Khoảng thời gian này không ít lớp bụi thời gian có thể phủ mờ lên biết bao nhiêu sự kiện, vấn đề nhưng thời gian lại bất lực trước vẻ đẹp của một thi phẩm nghệ thuật, càng đi vào lớp bụi thời, “Tây tiến” – Quang Dũng lại ngời lên những vẻ đẹp vốn có. Nhắc đến nghệ thuật của đoạn thơ bình giảng, ta không thể bỏ qua nghệ thuật đối lập qua hình ảnh thơ:” Mắt trừng gửi mộng…” . Mắt “trừng” trong câu thơ này nghĩa là các anh đang trừng về phía quân thù để canh chừng, để nêu cao quyết tâm chiến đấu và tinh thần cảnh giác đồng thời họ vẫn gửi mộng qua biên giới về hà thành mĩ lệ. Chữ “mộng” trong câu thơ này phải hiểu theo nghĩa hàm ẩn, là mộng lí tưởng, là khát vọng lên đường, chính nó đã thôi thúc người lính Tây tiến lên đường vì nghĩa lớn và chính nó đã giúp cho người lính Tây tiến vượt qua những chặng đường gian khổ, chẳng thế mà trong bài “Nhớ” - Nguyễn Đình Thi có viết:
“…Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sang đường chiến sĩ giữa đèo mây…”
còn Vũ Cao trong bài “Núi đôi’ có viết:
“…Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường…”
Đoạn thơ khép lại, Quang Dũng dựng lên bức tượng đài của người lính Tây tiến: oai phong, lẫm liệt khác hoàn toàn với hiện thực nhưng ẩn chứa bên trong là một tầm hồn khao khát yêu thương, là một trái tim biết căm thù quân xâm lược, một trái tim rực lửa anh hùng.
Viết về chiến tranh, nhà thơ Quang Dũng không hề ngần ngại né tránh viết về những hi sinh, mất mát bởi sung đã nổ người Việt Nam cũng đổ máu. Nhưng cái hay của người nghệ sĩ tài ba này là ở chỗ: xuyên suốt bài thơ, khi đề cập đến cái chết, nhà thơ Quang Dũng không phải sử dụng đến từ “mất”, “chết”, “hi sinh”. Thay vào đó là hình ảnh:
“…Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”
Và ở đoạn thơ bình giảng là hình ảnh:
“…Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
“…Nhớ đêm ra đi khí trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai trơ tráng nợ anh hung
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm…”
vẫn còn in hằn mãi trong tâm trí người yêu thơ. Đó là hình ảnh của những trang nam nhi lên đường vì nghĩa lớn không hẹn ngày về vào mùa xuân năm 1947. Văn học với chức năng phản ánh hiện thực cuộc sống đã khắc tạc lại hình ảnh này. Là một thư kí trung thành của thời đại, Quang Dũng đã ghi lại hình ảnh trong bài thơ “Nhớ Tây tiến”- tên ban đầu của bài thơ. 10 năm sau, Quang Dũng cắt bỏ đi chữ “nhớ”, bài thơ chỉ còn là “Tây tiến”. Khi tiếp cận bài thơ này, người yêu thơ vẫn nhận thấy bao trùm lên 34 câu thơ của bài là nỗi nhớ da diết của nhân vật trữ tình. Hiện lên trên nỗi nhớ ấy là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc: dữ dội, khác thường nhưng cũng mỹ lệ, nên thơ; là hình ảnh của người lính Tây tiến- phần lớn xuất hiện từ thủ đô hoa lệ, những con người “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trích đoạn bình giảng gồm 8 câu thơ đã gói trọn nỗi nhớ ấy của người nghệ sỹ ở xứ Đoài “mây trắng bồng bềnh”:
“…Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”
Đoạn thơ bình giảng như một khúc nhạc hiện ra với hai lời cả. Bốn câu đầu là bức tượng đài của người lính Tây tiến:
“…Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”
Người xưa có câu “thi trung hữu hoạ” nên chăng ta chuyển thẳng đoạn thơ này thành một bức hoạ phẩm. Ở đó, hai câu thơ đầu Quang Dũng vẽ nên hình dáng bên ngoài của các anh, hai câu thơ sau ông đã lách sau ngòi bút để mô tả đời sống nội tâm của các anh:
“Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc kháng chiến trường kì gian khổ nhưng nhất định thắng lợi”(Trường Chinh). Các anh bộ đội cụ Hồ ra đi trong giai đoạn này phải chịu nhiều khó khăn, thiếu thốn: những thiếu thốn về vật chất, họ lại phải hành quân nung nấu trong suốt những đêm dài thế nên người lính Tây tiến trong giai đoạn này thường bị sốt rét rừng – đây là hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Hiện thực cuộc sống bước vào văn chương như một quy luật tất yếu bởi “nhà văn là thư kí trung thành của thời đại” (Ban-dắc). Viết về các anh, văn nghệ sĩ trong giai đoạn này thường bị ám ảnh bởi căn bệnh sốt rét rừng. Nếu căn bệnh này được cảm nhận qua tâm hồn những nhà thơ hiện thực cách mạng thì người lính hiện ra thật đáng thương, làm sao ta có thể quên được những vần thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”:
“…Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi…”
Có khi căn bệnh sốt rét rừng lại được hiện lên qua màu da vàng nghệ của anh vệ quốc quân trong bài “Cá nước” của Tố Hữu:
“…Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi! Sao mà yêu anh thế…”
Quang Dũng cũng viết về căn bện này nhưng ông đã cảm nhận bằng tâm hồn của một nhà thơ lãng mạn, đây là nghệ thuật nhất quán của nhà thơ Quang Dũng, nhân đây ta cũng nhắc qua nghệ thuật lãng mạn của Quang Dũng. Đó không phải là thứ lãng mạn tô hồng, bôi đen cuộc sống, thứ lãng mạn thoát li của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trước cách mạng tháng 8 (với những cây bút Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Thạch Lam). Nam Cao đã kịch liệt phê phán trong tác phẩm “Trăng sáng” năm 1943:”Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là anh trăng lừa dối! Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than!”. Quang Dũng đã lãng mạn hoá hiện thực là thứ lãng mạn cách mạng và lí tưởng. Hiện thực là những người linh Tây tiến vì mắc căn bệnh sốt rét rừng nên các anh đã bị rụng tóc. Hiện thực này tái hiện qua tâm hồn lãng mạn của Quang Dũng, nay được thể hiện trên trang thơ là hình ảnh:” Đoàn binh không mọc tóc”. Cách viết này, Quang Dũng đã làm toát lên tư tế chủ động của người lính Tây tiến. Vẫn biết rằng căn bệnh sốt rét làm cho da dẻ người lính xanh xao, vàng vọt. Qua tâm hồn lãng mạn của Quang Dũng, nó không còn là màu vàng nghệ, nó là màu xanh của lá nguỵ trang, màu xanh của cánh rừng bạt ngàn… . Nhờ có nghệ thuật lãng mạn, Quang Dũng viết về cái bi của hiện thực chiến tranh nhưng thơ của Quang Dũng không hề bi quan, bi luỵ trái lại là bi hùng, bi tráng. Nhưng điều quan trọng hơn với cách viết này, Quang Dũng đã làm tái hiện trước mắt chúng ta bức chân dung của những anh vệ trọc oai phong như mãnh hổ: dữ oai hùm, ngự trị giữa chốn rừng thiêng làm cho quân thù phải khiếp sợ. Hai câu thơ sau, Quang Dũng tập trung bú lực để miêu tả vẻ đẹp của người lính:
“…Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”
Ra đi theo tiếng gọi của lí tưởng, các anh bộ đội cụ Hồ đến từ mọi phương trời:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau…”
Họ bỏ lại đằng sau quê hương, nơi ấy có “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”; họ còn bỏ lại sau lưng hà thành mĩ lệ:
“…Người ra đi đầu không ngoảnh lại,
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…”
Đi sâu vào cuộc chiến tranh trường kì, giản khổ, từ trong sâu thẳm các anh bộ đội cụ Hồ thường nhớ về quê nhà. Nếu người lính xuất thân từ nông dân thì nỗi nhớ của họ chân chất, ngai ngái mùi lúa gạo, ta nhớ đến tứ thơ hay trong bài thơ “Nhớ” - Hồng Nguyên:
“…Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh tiếng mõ đêm trường
Luống cầy đất đỏ, ít người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya…”
Cũng có khi họ nhớ về cảnh tiễn đưa:
“…Xóm dưới, làng trên
Con trai, con gái
Xôi năm, cơm đùm
Ríu rít theo nhau…”
cần phải mở ngoặc đơn để nói với nhau rằng: đối tượng ra lính trong bài thơ này là những trí thức hà thành. Tâm hồn họ đã thấm nhuần áng văn chương cổ, họ xếp bút non nghiên lên đường vì nghĩa lớn. Nhớ về hà thành mĩ lệ, họ xem Hà Nội như một dáng kiều thơm là hoàn toàn hợp lí chứ sao?! Tiếc rằng, có thời kì người ta coi câu thơ này thể hiện rõ sự mộng rớt của tầng lớp tiểu tư sản vì vậy bài thơ này vắng bóng nhà trường 40 năm trời. Khoảng thời gian này không ít lớp bụi thời gian có thể phủ mờ lên biết bao nhiêu sự kiện, vấn đề nhưng thời gian lại bất lực trước vẻ đẹp của một thi phẩm nghệ thuật, càng đi vào lớp bụi thời, “Tây tiến” – Quang Dũng lại ngời lên những vẻ đẹp vốn có. Nhắc đến nghệ thuật của đoạn thơ bình giảng, ta không thể bỏ qua nghệ thuật đối lập qua hình ảnh thơ:” Mắt trừng gửi mộng…” . Mắt “trừng” trong câu thơ này nghĩa là các anh đang trừng về phía quân thù để canh chừng, để nêu cao quyết tâm chiến đấu và tinh thần cảnh giác đồng thời họ vẫn gửi mộng qua biên giới về hà thành mĩ lệ. Chữ “mộng” trong câu thơ này phải hiểu theo nghĩa hàm ẩn, là mộng lí tưởng, là khát vọng lên đường, chính nó đã thôi thúc người lính Tây tiến lên đường vì nghĩa lớn và chính nó đã giúp cho người lính Tây tiến vượt qua những chặng đường gian khổ, chẳng thế mà trong bài “Nhớ” - Nguyễn Đình Thi có viết:
“…Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sang đường chiến sĩ giữa đèo mây…”
còn Vũ Cao trong bài “Núi đôi’ có viết:
“…Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường…”
Đoạn thơ khép lại, Quang Dũng dựng lên bức tượng đài của người lính Tây tiến: oai phong, lẫm liệt khác hoàn toàn với hiện thực nhưng ẩn chứa bên trong là một tầm hồn khao khát yêu thương, là một trái tim biết căm thù quân xâm lược, một trái tim rực lửa anh hùng.
Viết về chiến tranh, nhà thơ Quang Dũng không hề ngần ngại né tránh viết về những hi sinh, mất mát bởi sung đã nổ người Việt Nam cũng đổ máu. Nhưng cái hay của người nghệ sĩ tài ba này là ở chỗ: xuyên suốt bài thơ, khi đề cập đến cái chết, nhà thơ Quang Dũng không phải sử dụng đến từ “mất”, “chết”, “hi sinh”. Thay vào đó là hình ảnh:
“…Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”
Và ở đoạn thơ bình giảng là hình ảnh:
“…Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh