phân tích đoạn thơ sau "tây tiến đoàn binh ko mọc tóc.."

B

baphu_d3

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã lùi xa chúng ta hôm nay hơn nửa thế kỉ, bụi thời gian đã xoá mờ lên biết bao nhiêu sự kiện, vấn đề, vậy mà hình ảnh:
“…Nhớ đêm ra đi khí trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai trơ tráng nợ anh hung
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm…”
vẫn còn in hằn mãi trong tâm trí người yêu thơ. Đó là hình ảnh của những trang nam nhi lên đường vì nghĩa lớn không hẹn ngày về vào mùa xuân năm 1947. Văn học với chức năng phản ánh hiện thực cuộc sống đã khắc tạc lại hình ảnh này. Là một thư kí trung thành của thời đại, Quang Dũng đã ghi lại hình ảnh trong bài thơ “Nhớ Tây tiến”- tên ban đầu của bài thơ. 10 năm sau, Quang Dũng cắt bỏ đi chữ “nhớ”, bài thơ chỉ còn là “Tây tiến”. Khi tiếp cận bài thơ này, người yêu thơ vẫn nhận thấy bao trùm lên 34 câu thơ của bài là nỗi nhớ da diết của nhân vật trữ tình. Hiện lên trên nỗi nhớ ấy là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc: dữ dội, khác thường nhưng cũng mỹ lệ, nên thơ; là hình ảnh của người lính Tây tiến- phần lớn xuất hiện từ thủ đô hoa lệ, những con người “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trích đoạn bình giảng gồm 8 câu thơ đã gói trọn nỗi nhớ ấy của người nghệ sỹ ở xứ Đoài “mây trắng bồng bềnh”:
“…Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”
Đoạn thơ bình giảng như một khúc nhạc hiện ra với hai lời cả. Bốn câu đầu là bức tượng đài của người lính Tây tiến:
“…Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”
Người xưa có câu “thi trung hữu hoạ” nên chăng ta chuyển thẳng đoạn thơ này thành một bức hoạ phẩm. Ở đó, hai câu thơ đầu Quang Dũng vẽ nên hình dáng bên ngoài của các anh, hai câu thơ sau ông đã lách sau ngòi bút để mô tả đời sống nội tâm của các anh:
“Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc kháng chiến trường kì gian khổ nhưng nhất định thắng lợi”(Trường Chinh). Các anh bộ đội cụ Hồ ra đi trong giai đoạn này phải chịu nhiều khó khăn, thiếu thốn: những thiếu thốn về vật chất, họ lại phải hành quân nung nấu trong suốt những đêm dài thế nên người lính Tây tiến trong giai đoạn này thường bị sốt rét rừng – đây là hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Hiện thực cuộc sống bước vào văn chương như một quy luật tất yếu bởi “nhà văn là thư kí trung thành của thời đại” (Ban-dắc). Viết về các anh, văn nghệ sĩ trong giai đoạn này thường bị ám ảnh bởi căn bệnh sốt rét rừng. Nếu căn bệnh này được cảm nhận qua tâm hồn những nhà thơ hiện thực cách mạng thì người lính hiện ra thật đáng thương, làm sao ta có thể quên được những vần thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”:
“…Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi…”
Có khi căn bệnh sốt rét rừng lại được hiện lên qua màu da vàng nghệ của anh vệ quốc quân trong bài “Cá nước” của Tố Hữu:
“…Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi! Sao mà yêu anh thế…”
Quang Dũng cũng viết về căn bện này nhưng ông đã cảm nhận bằng tâm hồn của một nhà thơ lãng mạn, đây là nghệ thuật nhất quán của nhà thơ Quang Dũng, nhân đây ta cũng nhắc qua nghệ thuật lãng mạn của Quang Dũng. Đó không phải là thứ lãng mạn tô hồng, bôi đen cuộc sống, thứ lãng mạn thoát li của nhóm Tự Lực Văn Đoàn trước cách mạng tháng 8 (với những cây bút Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Thạch Lam). Nam Cao đã kịch liệt phê phán trong tác phẩm “Trăng sáng” năm 1943:”Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là anh trăng lừa dối! Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than!”. Quang Dũng đã lãng mạn hoá hiện thực là thứ lãng mạn cách mạng và lí tưởng. Hiện thực là những người linh Tây tiến vì mắc căn bệnh sốt rét rừng nên các anh đã bị rụng tóc. Hiện thực này tái hiện qua tâm hồn lãng mạn của Quang Dũng, nay được thể hiện trên trang thơ là hình ảnh:” Đoàn binh không mọc tóc”. Cách viết này, Quang Dũng đã làm toát lên tư tế chủ động của người lính Tây tiến. Vẫn biết rằng căn bệnh sốt rét làm cho da dẻ người lính xanh xao, vàng vọt. Qua tâm hồn lãng mạn của Quang Dũng, nó không còn là màu vàng nghệ, nó là màu xanh của lá nguỵ trang, màu xanh của cánh rừng bạt ngàn… . Nhờ có nghệ thuật lãng mạn, Quang Dũng viết về cái bi của hiện thực chiến tranh nhưng thơ của Quang Dũng không hề bi quan, bi luỵ trái lại là bi hùng, bi tráng. Nhưng điều quan trọng hơn với cách viết này, Quang Dũng đã làm tái hiện trước mắt chúng ta bức chân dung của những anh vệ trọc oai phong như mãnh hổ: dữ oai hùm, ngự trị giữa chốn rừng thiêng làm cho quân thù phải khiếp sợ. Hai câu thơ sau, Quang Dũng tập trung bú lực để miêu tả vẻ đẹp của người lính:
“…Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”
Ra đi theo tiếng gọi của lí tưởng, các anh bộ đội cụ Hồ đến từ mọi phương trời:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau…”
Họ bỏ lại đằng sau quê hương, nơi ấy có “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”; họ còn bỏ lại sau lưng hà thành mĩ lệ:
“…Người ra đi đầu không ngoảnh lại,
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…”
Đi sâu vào cuộc chiến tranh trường kì, giản khổ, từ trong sâu thẳm các anh bộ đội cụ Hồ thường nhớ về quê nhà. Nếu người lính xuất thân từ nông dân thì nỗi nhớ của họ chân chất, ngai ngái mùi lúa gạo, ta nhớ đến tứ thơ hay trong bài thơ “Nhớ” - Hồng Nguyên:
“…Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh tiếng mõ đêm trường
Luống cầy đất đỏ, ít người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya…”
Cũng có khi họ nhớ về cảnh tiễn đưa:
“…Xóm dưới, làng trên
Con trai, con gái
Xôi năm, cơm đùm
Ríu rít theo nhau…”
cần phải mở ngoặc đơn để nói với nhau rằng: đối tượng ra lính trong bài thơ này là những trí thức hà thành. Tâm hồn họ đã thấm nhuần áng văn chương cổ, họ xếp bút non nghiên lên đường vì nghĩa lớn. Nhớ về hà thành mĩ lệ, họ xem Hà Nội như một dáng kiều thơm là hoàn toàn hợp lí chứ sao?! Tiếc rằng, có thời kì người ta coi câu thơ này thể hiện rõ sự mộng rớt của tầng lớp tiểu tư sản vì vậy bài thơ này vắng bóng nhà trường 40 năm trời. Khoảng thời gian này không ít lớp bụi thời gian có thể phủ mờ lên biết bao nhiêu sự kiện, vấn đề nhưng thời gian lại bất lực trước vẻ đẹp của một thi phẩm nghệ thuật, càng đi vào lớp bụi thời, “Tây tiến” – Quang Dũng lại ngời lên những vẻ đẹp vốn có. Nhắc đến nghệ thuật của đoạn thơ bình giảng, ta không thể bỏ qua nghệ thuật đối lập qua hình ảnh thơ:” Mắt trừng gửi mộng…” . Mắt “trừng” trong câu thơ này nghĩa là các anh đang trừng về phía quân thù để canh chừng, để nêu cao quyết tâm chiến đấu và tinh thần cảnh giác đồng thời họ vẫn gửi mộng qua biên giới về hà thành mĩ lệ. Chữ “mộng” trong câu thơ này phải hiểu theo nghĩa hàm ẩn, là mộng lí tưởng, là khát vọng lên đường, chính nó đã thôi thúc người lính Tây tiến lên đường vì nghĩa lớn và chính nó đã giúp cho người lính Tây tiến vượt qua những chặng đường gian khổ, chẳng thế mà trong bài “Nhớ” - Nguyễn Đình Thi có viết:
“…Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sang đường chiến sĩ giữa đèo mây…”
còn Vũ Cao trong bài “Núi đôi’ có viết:
“…Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường…”
Đoạn thơ khép lại, Quang Dũng dựng lên bức tượng đài của người lính Tây tiến: oai phong, lẫm liệt khác hoàn toàn với hiện thực nhưng ẩn chứa bên trong là một tầm hồn khao khát yêu thương, là một trái tim biết căm thù quân xâm lược, một trái tim rực lửa anh hùng.
Viết về chiến tranh, nhà thơ Quang Dũng không hề ngần ngại né tránh viết về những hi sinh, mất mát bởi sung đã nổ người Việt Nam cũng đổ máu. Nhưng cái hay của người nghệ sĩ tài ba này là ở chỗ: xuyên suốt bài thơ, khi đề cập đến cái chết, nhà thơ Quang Dũng không phải sử dụng đến từ “mất”, “chết”, “hi sinh”. Thay vào đó là hình ảnh:
“…Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”
Và ở đoạn thơ bình giảng là hình ảnh:
“…Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
 
B

baphu_d3

Áo bào thay chiều anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”
Viết về cái bi nhưng trong thơ Quang Dũng cái bi đã giảm đi đáng kể bởi ở đây tác giả liên tục sử dụng những từ Hán Việt:
“…Rải rác biên cương mồ viễn xứ…”
Câu thơ gồm bảy âm tiết, ở đó đã có năm âm tiết “biên cương mồ viễn xứ” vốn là những từ Hán Việt dùng để chỉ những nấm mồ nơi rừng sâu biên giới. Nhờ đó mà Quang Dũng viết về cái bi thơ không hề bi luỵ, bi quan trái lại là bi hùng, bi tráng. Vẫn viết về cái chết ở nơi chiến trường biên ải trong “ Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm - Đặng Trần Côn, cảnh tượng hiện ra rùng rợn, ảm đạm và thê lương hơn nhiều:
“…Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi…”
Hai chữ “rải rác” trong câu thơ này, QUang DŨng đã thể hiện rõ với người yêu thơ: đoàn binh Tây tiến năm xưa họ bị chết bệnh nhiều hơn chết trận. Đặc biệt, câu thơ tiếp sau cái bi không còn nữa bởi khát vọng lên đường đầy cao đẹp của các anh:
“…Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”
Ấn tượng của bạn đọc khi tính chất câu thơ này là nghệ thuật đảo ngữ ở hình ảnh:”Chiến trường đi”. Xưa nay, người ta thường nói “đi chiến trường”, ở đây Quang Dũng đặt hai chữ “chiến trường”, tác giả khẳng định đây là một cuộc chia li đã xác định được lí tưởng cũng như mục đích lên đường. Đó là một cuộc chia li chói ngời sắc đỏ đã làm nên “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên. Ta liên tưởng tới cuộc chia li trong bài “Tống biệt hành” của Thâm Tâm:
“…Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giớ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong…”
Tuy nhiên, trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Chân lại khẳng định: đây là nỗi bâng khuâng khó hiểu của thời đại, một cuộc chia li không rõ rang mục đích của một thế hệ nhà thơ: “Tôi buuồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Xuân Diệu).
Đọc câu thơ: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, ta nhận thấy sức nặng của thơ ca lại dồn vào hai chữ “chẳng tiếc” làm ta liên tưởng tới hai chữ “mặc kệ” trong thơ Chính Hữu: “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”. Ta còn nhớ đến chữ “thà” trong tứ thơ đẹp của Thâm Tâm trong “Tống biệt hành” khi tác giả khẳng định sự quyết tâm của trang nam nhi lên đường vì nghĩa lớn không hẹn ngày về:
“…Người đi ừ nhỉ người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say…”
Hai chữ “đời xanh” ở cuối câu thơ đã gợi lên cái tuổi với bao mộng đẹp, hoài bão vậy mà các anh cũng chẳng tiếc, chẳng màng tới, các anh đã hi sinh cả cuộc đời cho Tổ quốc, vậy thì thử hỏi có sự hiến dân nào cao hơn sự hiến dâng này?! Hai chữ “đời xanh” trong câu thơ còn giúp cho bạn đọc liên tưởng tới tứ thơ đẹp trong “Trường ca đất nước hình tia chớp” của Trần Mạnh Hảo:
“…Thế hệ chúng con ra đi như gió thổi
Áo quân phục xanh đồng sắc với chân trời
Chưa kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai…”
Đó là những con người sống giản dị, bình tâm nhưng chính họ đã âm thầm ngã xuống vì ngày mai độc lập để đất nước Việt Nam mang dáng hình các anh. Là một người chiến sĩ làm thơ, bước chân của Nguyễn Khoa Điềm in hằn trên dải đất hình tia chớp. Sau khi đi dọc dải đất Việt Nam thân yêu, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định:
“…Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước! Sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Thơ của Quang Dũng bùng lên với khát vọng, lí tưởng thì lại bị trùng xuống bằng một hiện thực khốc liệt. Đoạn thơ này không nằm ngoại lệ. Câu thơ mô tả một hiện thực khó khăn mà người lính Tây tiến phải đối mặt “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Người yêu thơ thường bị ám ảnh bởi “Áo bào thay chiếu”. Thứ nhất, theo cách hiểu của Trần Lê Văn - người bạn thân của Quang Dũng thì đây là hình ảnh chiếu thay áo bào, đó là những chiếc chiếu được đồng bào dân tộc đan tặng người lính Tây tiến, thể hiện tình quân dân cá nước, nếu hiểu theo cách này thì nhà thơ Hoàng Lộc trong bài “Viếng bạn” đã khẳng định:
“…Ở đây không gõ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán…”
Tuy nhiên, trong cuộc chiến tranh đầy thiếu thốn ấy, những chiếc chiếu để khâm liệm các anh cũng không còn vì vậy để thể hiện sự trân trọng của mình trước sự ra đi đầy cao đẹp của người lính Tây tiến, Quang Dũng đã thay bằng hình ảnh “Áo bào thay chiếu”. Áo bào chỉ có ở vua chúa, quan trường ngày xưa còn ở đây trong cuộc chiến tranh thiếu thốn này, áo bào chả qua là những chiếc áo các anh mặc ra trận. Suy đến cùng thì nó là những chiếc áo được Chế Lan Viên ghi lại trong “Tiếng hát con tàu”:
“…Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con…”
Đó là những chiếc áo đã đi vào trong thơ ca truyền thống từ “Ngoài cật có một manh áo vải” (Nguyễn Đình Chiểu) cho đến “Mà nay áo vải cờ đào” (Quang Trung - Nguyễn Huệ). Như vậy, các anh ra đi như thế nào thì khi trở về với đất mẹ lại vẫn giản dị như thế. Tuy nhiên, ở đây Quang Dũng lại viết “anh về đất”, với động từ “về” trong câu thơ này chứng tỏ rằng cái chết của người lính Tây tiến năm xưa không phải là chấtm hết mà mở ra một cuộc sống mới. Cái chết ấy làm cho đồn đội của mình “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” (Lê Anh Xuân):
“…Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung…”
Đất mẹ mở rộng lòng mình để ôm các anh vào lòng và dệt nên truyền thống của một dân tộc không bao giờ khất phục trước kẻ thù mà Nguyễn Đình Thi đã tự hào trong bài “Đất nước”:
“…Nước chúng ta!
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về…”
Cái chết của người lính Tây tiến năm xưa làm đoá tự do luôn được nở, quả độc lập được kết trái, chẳng thế mà trong bài “Mồ anh hoa nở” nhà thơ Thanh Hải có viết:
“…Mồ anh trên đồi cao
Bông hồng nở và nở
Hương thơm bay và bay
…Lũ chúng nó qua đây
Mắt diều không dám ngó…”
Tiễn biệt các anh về với đất mẹ, bên cạnh đồng đội của mình còn có một nhân vật nữa là dòng sông Mã “sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Ai đã từng đọc thơ Quang Dũng dễ dàng nhận thấy sông Mã đã trở thành một ám ảnh nghệ thuật. Trong bài thơ này, tác giả đã nhiều lần nhắc đến sông Mã, không phải ngẫu nhiên một biểu chiều mưa ở Phù Lưu Chanh, khi những kỉ niệm của một thời trận mạc ùa về trong tâm hồn mình, nốt nhạc đầu tiên ngân vang trong khúc độc hành ca của một thời ấy, Quang Dũng lại đến dòng sông Mã:
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!...”
Và cùng không phải ngẫu nhiên ngày tiễn biệt Quang Dũng, người bạn than trong bản điếu văn đã thốt lên rằng:
“Sông Mã gầm lên sông Mã ơi,
Người yêu sông Mã đã qua đời”
còn ở đây, Sông Mã đã thay mặt đất trời gầm lên những khúc bi ai để tiễn biệt các anh về với đất mẹ.
Sự rung động của thơ ca bao giờ cũng được đo bằng nhịp đâu của con tim. Trích đoạn bình giảng tác động nhiều vào xúc cảm của bạn đọc đó là bức tượng đài của người lính Tây tiến - những con người đẹp như chân lí sinh ra. Bởi lẽ chính thời đại đã sinh ra những anh hung; chính thời đại đã làm nên những tên tuổi. Đoàn binh Tây tiến năm xưa góp phần viết nên huyền thoại của Việt Nam ở thế kỉ XX, đó là huyền thoại của những con người đáng quý, đáng yêu hơn một lần đi vào trong thơ:
“…Ôi Tổ quốc bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại vuốt hoa
Trong và thực giữa đôi bờ suy tưởng
Mà hiên ngang, nhân ái, chan hoà…”
 
Q

quynh318

phan tich rat hay em thay no rat rat sau sac sap toi ki thi roi mong rang no se giup em thi tot cho ma xem
chú ý dùng vietkey bạn nhé!
 
Last edited by a moderator:
M

meoconkute

mình thấy bài đó của bạn cũng hay nhưng bạn nên chú ý ít đưa thơ khác vào để làm nỗi bật bài văn bạn lên ít thôi.Bạn đưa thơ của tác giả khác vào nhiều quá thì bài văn của bạn sẽ hôk hay lắm mà bạn nên bình luận nhiều hơn nữa như thế thì bài văn của bạn sẽ có ấn tượng với người đọc hơn.Mình có một số bài thơ hay văn xuôi 12 cũng khá hay nếu bạn nào thích thì add nick mình mình sẽ giúp cho,còn khi nào rãnh mình sẽ đưa ra diễn đàn để mọi người thông cảm.Nick mình là : bebu_yeunhoc_kute
 
B

bebupro

tôi cũng thấy như vậy nữa bạn nên ít dẫn chứng thơ bên ngoài vào còn lại là ok hihih
 
X

xungba_giangho

PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN - PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TÂY TIẾN

Tôi đã được nghe nhiều về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng nhưng gần đây mới được thưởng thức trọn vẹn cả bài thơ. Và tự như một thỏi nam châm bằng chất nhạc kỳ diệu, bằng hòa khí cách mạng sôi nổi…Tây Tiến đã cuốn hút tôi một cách khác thường.

Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến của Quang Dũng vẫn có một gương mặt riêng thật khó quên, mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc.

Tây Tiến không có một sáng tạo gì khác thường, đốt xuất mà vẫn là sự tiếp tục của dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào một hồn thơ rất mới và rất trẻ khác hẳn với những tiếng thơ bi lụy, não nùng trước đó. Tây Tiến nhắc nhở một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng được thể hiện theo cách riêng đặc đắc qua ngòi bút Quang Dũng với tâm trạng cụ thể: nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ máu thịt và niềm tự hào chân thành của Quang Dũng về những người đồng đội của ông là âm hưởng chủ đạo của bài thơ, khiến cho người đọc cảm động sâu xa.

Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ da diết, trải rộng cả không gian và thời gian mênh mông.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Tác giả nhớ về những ngày ở Tây Tiến, nhớ những người đồng đội và nỗi nhớ ấy đã thốt lên thành lời gọi. Văn học ta có nhiều câu thơ diễn tả nỗi nhớ…nhưng “nhớ chơi vơi” thì có lẽ Quang Dũng là người đầu tiên mạnh dạn sử dụng. Nỗi nhớ ấy gợi xa về cả không gian, thời gian và tầm cao nữ, nỗi nhớ như có dáng hình bềnh bồng, bềnh bồng. Quang Dũng viết bài thơ này khi mới xa đoàn quân Tây Tiến, xa mà không hẹn ước, không biết ngày gặp lại. Cảm giác về thời gian trải dài tạo nên nỗi “nhớ chơi vơi”, bâng khuâng khó tả.

Rồi cứ thế, nỗi nhớ đồng đội ấy lan tỏa, thấm đượm nồng nàn trên từng câu thơ, khổ thơ. Có lẽ nói bài thơ được xây dựng trên cảm hứng thương nhớ triền miên với bao kỷ niệm chống chất, ào ạt xô tới:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Sài Khao, Mường Lát, những địa danh rất Tây Bắc cũng góp phần gợi nỗi nhớ chơi vơi. Hình ảnh Tây Bắc được hiện lên trong câu thơ thật mịt mù và cải mệt mỏi của đoàn quân như lẫn vào sương. Bên cạnh cái gian khổ lại có một cái rất thơ, dường như huyền thoại:

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Câu thơ rất độc đáo, hoa về chứ không phải hoa nở, đêm hơi chứ không phải là đêm sương. Hoa hiện ra mờ mờ trong sương, trong màn sương vẫn cảm thấy hoa. Câu thơ đẹp, huyền ảo, lung linh quá! Đọc đến đây, cái “mỏi” của đoàn quân dường như đã tan biến hết. Quang Dũng thật tài tình khi viết một câu thơ hầu hết là thanh bằng nhẹ nhàng, lâng lâng, chơi vơi như sương, như hoa, như hồn người, khác với:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Những câu thơ giàu chất tạo hình như vẽ lại được cả chặng đường hành quân đầy gian khổ, khó khăn. Tác giả không viết súng chạm trời mà là “súng ngửi trời” rất sinh động, nghịch ngợm, thông minh, hóm hỉnh.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ ngắt nhịp ở giữa gợi hình ảnh dốc rất cao, rất dài nhưng ngay sau đó lại là một câu thơ toàn vần bằng. Xuân Diệu trước đây cũng chỉ viết được hai câu toàn vần bằng mà ông rất tâm đắc:

Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.

Còn Quang Dũng trong Tây Tiến đã có khá nhiều câu thơ hầu hết là vần bằng, chất tài hoa của ông bộc lộ ở đó.

Tây Tiến đặc tả cận cảnh. Con người và cảnh vật rừng núi miền Tây Tổ quốc được tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích thước có phần phóng đại khác thường. Trong khổ thơ thứ nhất này từng mảng hình khối, đường nét, màu sắc chuyển đổi rất nhanh, bất ngờ trong một khung cảnh núi rừng bao la, hùng vĩ như một bức tranh hoành tráng. Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” không thể nói rõ mà chỉ cảm nhận bằng trực giác. Nếu “thơ là nơi biểu hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kỳ ảo của ngôn ngữ” thì câu thơ này cũng đúng như vậy.

Thiên nhiên trong Tây Tiến cũng như trong thơ Quang Dũng bao giờ cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ tinh tế củ tác giả bắt rất nhạy từ một làn sương chiều mỏng, từ một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt, rồi ông thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một nỗi niềm bâng khuâng thương mến và một áng thơ đẹp:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.

Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở Tây Tiến thật hoang sơ, kỳ vĩ. Trên cái nên thiên nhiên dữ dội có hình ảnh đoàn quân Tây Tiến thật nhỏ bé nhưng chính sự đối lập tương phản đó càng làm tăng khí phách anh hùng, kẻ thù cũng như gian khổ không gì khuất phục nổi.

Trên đường hành quân đã có những người lính hy sinh. Tác giả không ngần ngại nói đến cái chết:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Quang Dũng là một nhà thơ xuất thân tiểu tư sản nên ông miêu tả cái chết cũng rất lãng mạn. Hình ảnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời” vừa gợi thương nhưng cũng rất bình thản. Những chiến sỹ Tây Tiến là những thanh niên Hà Nội chưa quen chuyện gươm súng gian khổ và họ đã ngã xuống sau những dãi dầu sương gió. Hình như tác giả không muốn người đọc chìm sâu trong cảm giác xót thương nên ngay sau đó là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.

Biết bao nhiêu điều đe dọa sinh mạng người lính. Câu thơ nói về những hiểm nguy ấy với giọng điệu ngang tàng, coi thường, xóa đi sự bi lụy của cảm xúc ở câu trên. “Cọp trêu người” – có một cái gì đó rất nghịch ngợm, rất lính.

Trong trường ca Từ đêm mười chín của Khương Hữu Dụng cũng có những câu nói về gian truân, nguy hiểm mà người lính phải gánh chịu:
Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác Không Tên
Có suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường chim.

Nhưng không mạnh mẽ bằng Tây Tiến.

Và đằng sau những trắc trở ấy lại là cảnh thanh bình, yên ấm:

Ôi nhớ Tây Tiến cơm nên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Câu thơ gợi cảm giác nồng nàn, no nê, đầy đủ những kỷ niệm đơn sơ, nhỏ bé trong cuộc sống đời lính thường ngày cũng hóa thành gần gũi, ấm lòng. Hương thơm ấy không chỉ là hương “nếp xôi” mà còn là hương từ đôi bàn tay em – cô gái Mai Châu.

Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến gian khổ, hy sinh nhưng không bi lụy, mà vẫn hùng, vẫn thơ. Tác giả sử dụng những từ ngữ, hình ảnh, âm thanh mwois mẻ, gợi cảm và có chút lãng mạn.

Tác giả chuyển mạch cảm xúc rất tự nhiên, nói những kỷ niệm đẹp trong cuộc sống với cảnh, người, tình quân dân đầm ấm, khó quên:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

“Hội đuốc hoa”, “xiêm áo” gợi cái gì về đếm cưới ngày xưa và có vẻ “e ấp” của “nàng” làm cho câu thơ thêm gợi cảm. Câu thơ lâng lâng, dìu dặt như tiếng khèn đưa người về một nơi rất xa.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.

Câu thơ có tính chất hư ảo, hình ảnh hoa lau gợi nhớ đến bài thơ Lau mùa thu của Chế Lan Viên:
Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng.

Quang Dũng không chỉ là một người tài hoa mà còn rất hào hoa khi ông viết:

Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Câu thơ: “Có nhớ dáng người trên độc mộc” rất giàu chất tạo hình. Nhà thơ yêu đất nước, yêu đến từng dòng suối, dáng người, cánh hoa. Nếu không có chất thơ ấy cuộc đời sẽ mất đi nhiều ý nghĩa, có chất thơ ấy gian khổ sẽ trở thành hào hùng.

Khổ thứ tư, tác giả trở lại với những gian khổ hy sinh của người lính:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Đọc những câu thơ này tưởng như ứa nuwocs mắt vì thương cảm. Những người lính bị sốt rét rụng hết cả tóc, người “xanh tàu lá”. Và những nguwoif lính dũng mãnh ấy, tâm hồn cũng thật dịu hiền và lãng mạn:

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Nhà thơ dùng từ rất tài hoa “kiều thơm” để chỉ những cô gái đẹp của Hà Nội. Giữa chiến trường miền Tây vô cùng khốc liệt, nếu người lính không biết mơ mộng, thi vị hóa cuộc sống về mục đích cao xa hơn thì sẽ gục ngã trong hiện thực đầy khắc nghiệt ấy. Chất men lãng mạn, vượt lên trên hoàn cảnh. Do vậy, dù miêu tả rất đậm sự gian khổ, khốc liệt của chiến trường, của người lính chinh chiến mà bài thơ không đượm chút sắc bi quan, u ám nào khiến con người run sợ, nản lòng.

Hơn một lần trong bài thơ tác giả nói về cái chết:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Với lòng yêu nước nồng nàn, cả một thế hệ người con ưu tú của dân tộc đã ra đi bảo vệ Tổ quốc. Không phải họ không biết đến những hy sinh, mất mát nhưng vẫn vui vẻ ra đi, không tính toán hơn thiệt mặc dù mắt vẫn nhìn thấy những nấm “mồ viễn xứ” nằm “rải rác biên cương”. Lý tưởng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất ngang tàng anh hùng và cả chất men say lãng mạn đáng yêu nữa, ngay cả khi đối mặt với cái chết cũng phảng phất nét nghệ sỹ tài tử, anh hùng hảo hán thời xưa, coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái chết của người lính là cái chết bi tráng chứ không bi lụy, mềm yếu. Đã có một thời nguwoif ta tránh nói về cái chết, về những mất mát. Nhưng có chiến thắng nào mà không trả giá bằng máu và nước mắt. Và “không có gì cao cả hơn một nỗi đau buồn lớn (An-phrêt-đơ Muyt-xê).
Nét đặc sắc của Tây Tiến là nói về chiến tranh mà không có một chữ đánh và có ba lần miêu tả cái chết, nhưng Quang Dũng nói một cách rất giản dị: “bỏ quên đời”, “về đất”, “hồn về” để bình thường hóa cái chết. Chúng ta có nhiều bài thơ nói về cái chết của người lính như Nấm mồ và cây trầm của Nguyễn Đức Mậu:

Cái chết bay ra từ nòng súng quân thù
Nhận cái chết cho đồng đội sống
Ngực chắn lỗ châu mai, Hùng đứng thẳng
Đồng đội xông lên nhìn thấy Hùng cười.

…Hùng nằm trong nôi của đất rộng còn nhiều nữa nhưng chưa bài nào sánh nổi Tây Tiến. Quang Dũng chỉ bằng vài dòng thơ đã khắc họa thật sâu và xúc động về cái chết vừa bi thiết vừa hùng tráng, mà xiết bao cao cả của người chiến sỹ. Để tiễn đưa người lính vô danh ra đi tác giả không cần một lời ngợi ca, cũng không cần một giọt nước mắt xót thương. Ông chỉ để cho trời đất chứng giám và thu nhận thể xác linh hồn người lính vào lòng. Nhưng những người lính ấy không hề chết, mà còn sống mãi trong lòng chúng ta:

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Những người lính hiểu rằng cuộc chiến đấu còn dài có thể họ sẽ ngã xuống vì Tổ quốc “đi không hẹn ước”. Con đường trở về không biết đến bao giờ nhưng người lính không buồn nản. Điều đó biểu hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Họ ra đi mang theo cả nỗi nhớ của người ở lại.

Bốn mươi ba năm đã trôi qua, kể từ ngày Tây Tiến ra đời. Vượt qua sức cản phá của thời gian, Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ chúng ta hôm nay, gợi nhớ về “những năm tháng không quên” trong lịch sử dân tộc. Có thể nói Tây Tiến là “một tượng đài bất tử” về người lính vô danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng cả tâm hồn mình để tưởng niệm một thế hệ thanh niên đã hăng hái, anh dũng ra đi mà nhiều người trong số họ không về nữa. Tây Tiến in đậm một phong cách thơ Quang Dũng, tài hoa, độc đáo.

Đoàn Văn Đăng
 
X

xungba_giangho

PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN - PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TÂY TIẾN

Tôi đã được nghe nhiều về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng nhưng gần đây mới được thưởng thức trọn vẹn cả bài thơ. Và tự như một thỏi nam châm bằng chất nhạc kỳ diệu, bằng hòa khí cách mạng sôi nổi…Tây Tiến đã cuốn hút tôi một cách khác thường.

Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng một đề tài người lính với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng chí của Chính Hữu, nhưng Tây Tiến của Quang Dũng vẫn có một gương mặt riêng thật khó quên, mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc.

Tây Tiến không có một sáng tạo gì khác thường, đốt xuất mà vẫn là sự tiếp tục của dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào một hồn thơ rất mới và rất trẻ khác hẳn với những tiếng thơ bi lụy, não nùng trước đó. Tây Tiến nhắc nhở một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng được thể hiện theo cách riêng đặc đắc qua ngòi bút Quang Dũng với tâm trạng cụ thể: nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ máu thịt và niềm tự hào chân thành của Quang Dũng về những người đồng đội của ông là âm hưởng chủ đạo của bài thơ, khiến cho người đọc cảm động sâu xa.

Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ da diết, trải rộng cả không gian và thời gian mênh mông.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Tác giả nhớ về những ngày ở Tây Tiến, nhớ những người đồng đội và nỗi nhớ ấy đã thốt lên thành lời gọi. Văn học ta có nhiều câu thơ diễn tả nỗi nhớ…nhưng “nhớ chơi vơi” thì có lẽ Quang Dũng là người đầu tiên mạnh dạn sử dụng. Nỗi nhớ ấy gợi xa về cả không gian, thời gian và tầm cao nữ, nỗi nhớ như có dáng hình bềnh bồng, bềnh bồng. Quang Dũng viết bài thơ này khi mới xa đoàn quân Tây Tiến, xa mà không hẹn ước, không biết ngày gặp lại. Cảm giác về thời gian trải dài tạo nên nỗi “nhớ chơi vơi”, bâng khuâng khó tả.

Rồi cứ thế, nỗi nhớ đồng đội ấy lan tỏa, thấm đượm nồng nàn trên từng câu thơ, khổ thơ. Có lẽ nói bài thơ được xây dựng trên cảm hứng thương nhớ triền miên với bao kỷ niệm chống chất, ào ạt xô tới:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Sài Khao, Mường Lát, những địa danh rất Tây Bắc cũng góp phần gợi nỗi nhớ chơi vơi. Hình ảnh Tây Bắc được hiện lên trong câu thơ thật mịt mù và cải mệt mỏi của đoàn quân như lẫn vào sương. Bên cạnh cái gian khổ lại có một cái rất thơ, dường như huyền thoại:

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Câu thơ rất độc đáo, hoa về chứ không phải hoa nở, đêm hơi chứ không phải là đêm sương. Hoa hiện ra mờ mờ trong sương, trong màn sương vẫn cảm thấy hoa. Câu thơ đẹp, huyền ảo, lung linh quá! Đọc đến đây, cái “mỏi” của đoàn quân dường như đã tan biến hết. Quang Dũng thật tài tình khi viết một câu thơ hầu hết là thanh bằng nhẹ nhàng, lâng lâng, chơi vơi như sương, như hoa, như hồn người, khác với:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Những câu thơ giàu chất tạo hình như vẽ lại được cả chặng đường hành quân đầy gian khổ, khó khăn. Tác giả không viết súng chạm trời mà là “súng ngửi trời” rất sinh động, nghịch ngợm, thông minh, hóm hỉnh.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ ngắt nhịp ở giữa gợi hình ảnh dốc rất cao, rất dài nhưng ngay sau đó lại là một câu thơ toàn vần bằng. Xuân Diệu trước đây cũng chỉ viết được hai câu toàn vần bằng mà ông rất tâm đắc:

Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.

Còn Quang Dũng trong Tây Tiến đã có khá nhiều câu thơ hầu hết là vần bằng, chất tài hoa của ông bộc lộ ở đó.

Tây Tiến đặc tả cận cảnh. Con người và cảnh vật rừng núi miền Tây Tổ quốc được tác giả thể hiện ở khoảng cách xa xa, hư ảo với kích thước có phần phóng đại khác thường. Trong khổ thơ thứ nhất này từng mảng hình khối, đường nét, màu sắc chuyển đổi rất nhanh, bất ngờ trong một khung cảnh núi rừng bao la, hùng vĩ như một bức tranh hoành tráng. Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” không thể nói rõ mà chỉ cảm nhận bằng trực giác. Nếu “thơ là nơi biểu hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất ma lực kỳ ảo của ngôn ngữ” thì câu thơ này cũng đúng như vậy.

Thiên nhiên trong Tây Tiến cũng như trong thơ Quang Dũng bao giờ cũng là một nhân vật quan trọng, tràn đầy sinh lực và thấm đượm tình người. Hồn thơ tinh tế củ tác giả bắt rất nhạy từ một làn sương chiều mỏng, từ một dáng hoa lau núi phất phơ đơn sơ bất chợt, rồi ông thổi hồn mình vào đó và để lại mãi trong ta một nỗi niềm bâng khuâng thương mến và một áng thơ đẹp:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.

Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở Tây Tiến thật hoang sơ, kỳ vĩ. Trên cái nên thiên nhiên dữ dội có hình ảnh đoàn quân Tây Tiến thật nhỏ bé nhưng chính sự đối lập tương phản đó càng làm tăng khí phách anh hùng, kẻ thù cũng như gian khổ không gì khuất phục nổi.

Trên đường hành quân đã có những người lính hy sinh. Tác giả không ngần ngại nói đến cái chết:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Quang Dũng là một nhà thơ xuất thân tiểu tư sản nên ông miêu tả cái chết cũng rất lãng mạn. Hình ảnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời” vừa gợi thương nhưng cũng rất bình thản. Những chiến sỹ Tây Tiến là những thanh niên Hà Nội chưa quen chuyện gươm súng gian khổ và họ đã ngã xuống sau những dãi dầu sương gió. Hình như tác giả không muốn người đọc chìm sâu trong cảm giác xót thương nên ngay sau đó là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.

Biết bao nhiêu điều đe dọa sinh mạng người lính. Câu thơ nói về những hiểm nguy ấy với giọng điệu ngang tàng, coi thường, xóa đi sự bi lụy của cảm xúc ở câu trên. “Cọp trêu người” – có một cái gì đó rất nghịch ngợm, rất lính.

Trong trường ca Từ đêm mười chín của Khương Hữu Dụng cũng có những câu nói về gian truân, nguy hiểm mà người lính phải gánh chịu:
Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác Không Tên
Có suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường chim.

Nhưng không mạnh mẽ bằng Tây Tiến.

Và đằng sau những trắc trở ấy lại là cảnh thanh bình, yên ấm:

Ôi nhớ Tây Tiến cơm nên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Câu thơ gợi cảm giác nồng nàn, no nê, đầy đủ những kỷ niệm đơn sơ, nhỏ bé trong cuộc sống đời lính thường ngày cũng hóa thành gần gũi, ấm lòng. Hương thơm ấy không chỉ là hương “nếp xôi” mà còn là hương từ đôi bàn tay em – cô gái Mai Châu.

Quang Dũng nhớ về người lính Tây Tiến gian khổ, hy sinh nhưng không bi lụy, mà vẫn hùng, vẫn thơ. Tác giả sử dụng những từ ngữ, hình ảnh, âm thanh mwois mẻ, gợi cảm và có chút lãng mạn.

Tác giả chuyển mạch cảm xúc rất tự nhiên, nói những kỷ niệm đẹp trong cuộc sống với cảnh, người, tình quân dân đầm ấm, khó quên:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

“Hội đuốc hoa”, “xiêm áo” gợi cái gì về đếm cưới ngày xưa và có vẻ “e ấp” của “nàng” làm cho câu thơ thêm gợi cảm. Câu thơ lâng lâng, dìu dặt như tiếng khèn đưa người về một nơi rất xa.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.

Câu thơ có tính chất hư ảo, hình ảnh hoa lau gợi nhớ đến bài thơ Lau mùa thu của Chế Lan Viên:
Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng.

Quang Dũng không chỉ là một người tài hoa mà còn rất hào hoa khi ông viết:

Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Câu thơ: “Có nhớ dáng người trên độc mộc” rất giàu chất tạo hình. Nhà thơ yêu đất nước, yêu đến từng dòng suối, dáng người, cánh hoa. Nếu không có chất thơ ấy cuộc đời sẽ mất đi nhiều ý nghĩa, có chất thơ ấy gian khổ sẽ trở thành hào hùng.

Khổ thứ tư, tác giả trở lại với những gian khổ hy sinh của người lính:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Đọc những câu thơ này tưởng như ứa nuwocs mắt vì thương cảm. Những người lính bị sốt rét rụng hết cả tóc, người “xanh tàu lá”. Và những nguwoif lính dũng mãnh ấy, tâm hồn cũng thật dịu hiền và lãng mạn:

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Nhà thơ dùng từ rất tài hoa “kiều thơm” để chỉ những cô gái đẹp của Hà Nội. Giữa chiến trường miền Tây vô cùng khốc liệt, nếu người lính không biết mơ mộng, thi vị hóa cuộc sống về mục đích cao xa hơn thì sẽ gục ngã trong hiện thực đầy khắc nghiệt ấy. Chất men lãng mạn, vượt lên trên hoàn cảnh. Do vậy, dù miêu tả rất đậm sự gian khổ, khốc liệt của chiến trường, của người lính chinh chiến mà bài thơ không đượm chút sắc bi quan, u ám nào khiến con người run sợ, nản lòng.

Hơn một lần trong bài thơ tác giả nói về cái chết:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Với lòng yêu nước nồng nàn, cả một thế hệ người con ưu tú của dân tộc đã ra đi bảo vệ Tổ quốc. Không phải họ không biết đến những hy sinh, mất mát nhưng vẫn vui vẻ ra đi, không tính toán hơn thiệt mặc dù mắt vẫn nhìn thấy những nấm “mồ viễn xứ” nằm “rải rác biên cương”. Lý tưởng cách mạng và tuổi trẻ đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất ngang tàng anh hùng và cả chất men say lãng mạn đáng yêu nữa, ngay cả khi đối mặt với cái chết cũng phảng phất nét nghệ sỹ tài tử, anh hùng hảo hán thời xưa, coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Cái chết của người lính là cái chết bi tráng chứ không bi lụy, mềm yếu. Đã có một thời nguwoif ta tránh nói về cái chết, về những mất mát. Nhưng có chiến thắng nào mà không trả giá bằng máu và nước mắt. Và “không có gì cao cả hơn một nỗi đau buồn lớn (An-phrêt-đơ Muyt-xê).
Nét đặc sắc của Tây Tiến là nói về chiến tranh mà không có một chữ đánh và có ba lần miêu tả cái chết, nhưng Quang Dũng nói một cách rất giản dị: “bỏ quên đời”, “về đất”, “hồn về” để bình thường hóa cái chết. Chúng ta có nhiều bài thơ nói về cái chết của người lính như Nấm mồ và cây trầm của Nguyễn Đức Mậu:

Cái chết bay ra từ nòng súng quân thù
Nhận cái chết cho đồng đội sống
Ngực chắn lỗ châu mai, Hùng đứng thẳng
Đồng đội xông lên nhìn thấy Hùng cười.

…Hùng nằm trong nôi của đất rộng còn nhiều nữa nhưng chưa bài nào sánh nổi Tây Tiến. Quang Dũng chỉ bằng vài dòng thơ đã khắc họa thật sâu và xúc động về cái chết vừa bi thiết vừa hùng tráng, mà xiết bao cao cả của người chiến sỹ. Để tiễn đưa người lính vô danh ra đi tác giả không cần một lời ngợi ca, cũng không cần một giọt nước mắt xót thương. Ông chỉ để cho trời đất chứng giám và thu nhận thể xác linh hồn người lính vào lòng. Nhưng những người lính ấy không hề chết, mà còn sống mãi trong lòng chúng ta:

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Những người lính hiểu rằng cuộc chiến đấu còn dài có thể họ sẽ ngã xuống vì Tổ quốc “đi không hẹn ước”. Con đường trở về không biết đến bao giờ nhưng người lính không buồn nản. Điều đó biểu hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Họ ra đi mang theo cả nỗi nhớ của người ở lại.

Bốn mươi ba năm đã trôi qua, kể từ ngày Tây Tiến ra đời. Vượt qua sức cản phá của thời gian, Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ chúng ta hôm nay, gợi nhớ về “những năm tháng không quên” trong lịch sử dân tộc. Có thể nói Tây Tiến là “một tượng đài bất tử” về người lính vô danh mà Quang Dũng đã dựng lên bằng cả tâm hồn mình để tưởng niệm một thế hệ thanh niên đã hăng hái, anh dũng ra đi mà nhiều người trong số họ không về nữa. Tây Tiến in đậm một phong cách thơ Quang Dũng, tài hoa, độc đáo.

Đoàn Văn Đăng
 
X

xungba_giangho

PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN - PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TÂY TIẾN

“Có một bài ca không bao giờ quên…”

Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, khi toàn dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với tất cả sức lực, niềm say mê. Chúng ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 45 vẫn còn, rất đậm, trong mỗi người Việt Nam. Tự do hay trở về cuộc đời cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những người nông dân, công nhân, học sinh, những người mẹ, người chị tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại.

Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sỹ cụ Hồ. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng cũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó.
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng sống và chiến đấu ở đoàn quân Tây Tiến là những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến.

Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội. Quang Dũng cũng như đồng đội tác giả trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại gần, để khi trở lại, tác giả phải bật lên:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng với âm hưởng của vần ơi, tạo nên xúc cảm lớn. Hành ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng dến đoàn quân Tây Tiến? Không! Đó là tiếng long của tác giả “Xa rồi Tây Tiến ơi” nhưng tấm lòng thì vẫn thiết tha lắm! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy sâu vào tâm hồn người đọc. Người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi!” Hình như trong ca dao ta cũng bắt gặp:

Ra về nhớ bạn chơi vơi

Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình, khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi nhớ ấy bao la, bát ngát lại có chiều sâu. Nói muốn tràn ra khỏi không gian để xoáy vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với tấm lòng tha thiết thì hẳn nỗi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lý. Cũng sử dụng vần “ơi!” câu thơ có sức lan tỏa rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả.

Thông thương thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỷ niệm đẹp để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi.

Nhớ về rừng núi…

Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu. Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao niềm vui nối buồn của người chiến sỹ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mấy súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải điều nhà thơ chú trọng phác họa nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng có những câu thơ:

Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm
Mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn.

Tố Hữu mô tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế. Quang Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông” rừng núi như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên cảnh rừng núi càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ.

Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng:

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Câu thơ ấy đã xóa đi cái mệt mỏi của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước. Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống.

Câu thơ với “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy. “Súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn mây” đã gợi lên một không khí vắng vẻ, hoang sơ của rừng núi, súng ngửi trời cộng thêm vào cái vẻ đơn độc của người lính giữa đèo cao.

Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi câu thơ vần bằng tiếp sau:

Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.

Cứ như thế, những câu thơ vần bằng xen giữa những câu thơ vần trắc, âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ.

Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi, của thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống như thế nào nhỉ?

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịc cọp trêu người.

Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ngợi ca người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính bằng ngòi bút rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa.

Nhưng anh hùng làm sao, những con người ngã xuống ấy! Người lính không chịu nỗi khổ hy sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người chiến sỹ:

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính lìa trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắc là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:

Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng.

Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng chiến chống Mỹ thì dáng ngã xuống gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.

Những khó khăn lại đến:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.

Hình như ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn cũng như tăng lên gấp bội. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình:

Ôi nhớ Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Quang Dũng lại nhớ về những kỷ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ như có gì náo nức, rộn rã:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Nguwoif đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau những kỷ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm vui tươi của những chàng trai thanh niên Hà Nội xúng xính giả làm con gái cùng tiếng nhạc và vẻ e ấp giả vờ, câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của người chiến sỹ. Những kỷ niệm vui đó hẳn sẽ không quên trong lòng người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên độc mộc vào một buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dòng nước lũ…tất cả đi vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ.

Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn còn nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải khắp bài thơ nhưng đọng nhất vẫn là nỗi nhớ về người lính Tây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt của tác giả:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi “Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc phải. sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa, đến nỗi da xanh xao “màu lá”.

Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.

Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính, khi Quang Dũng nói về điều này, tác giả muốn nói cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ sống và chiến đấu với cả gian khổ, cả bệnh tật nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn:

....................
 
X

xungba_giangho

tiếp

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Nét dữ tợn của người chiến sỹ Tây Tiến ở đây không làm nhạt tí nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sỹ yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” làm mất đi sự yếu đuối của “đoàn quân không mọc tóc” và của “quân xanh màu lá” giúp cho câu thơ trên tiếp tục:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng mạn của người chiến sỹ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính “trừng” nhưng không hề mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến đấu cho Tổ quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Nhưng người lính không đánh mất đi nét đẹp tâm hồn: sự mộng mơ. Hai câu thơ trên có thời đã bị đem ra chỉ trích cùng với bài thơ đó là buồn rớt, bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng câu thơ có thoáng nét buồn cũng như bài thơ có thoảng những nét buồn: nhưng buồn ở đây đâu có làm mất đi quyết tâm của người lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh giặc và lãng mạn phải kết hợp hài hòa mới có thể tạo nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sỹ một cách sâu sắc. (Đây là điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta đã quên đi hay cố tình quên đi). Người lính Tây Tiến chiến đấu cho ai? Mục đích của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ thể là Hà Nội. Người lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho người chiến sỹ sống và chiến đấu. Hai câu thơ chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng!

Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm, bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ.

Câu thơ đọc lên mà sao thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người qua lại, chẳng bao giờ trở về. Từ “rải rác” làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừng núi, gợi lên sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống, xoáy vào lòng ta một nỗi buồn không thể thốt lên lời, ta tưởng chừng như câu thơ sau không thể cất lên nổi, nhưng ngược lại:

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Câu thơ nhẹ nhàng như không hề mang chút gì bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi” câu thơ sau tạo nên nét “tráng”. Cái không khí bi quan biến mất, chỉ còn lại nét ngang tang, chút thanh thản của người lính Tây Tiến “chẳng tiếc đời xanh” là cách nói của người thanh niên trí thức Hà Nội nhưng cũng mang cả quan niệm về lý tưởng chiến đấu, người lính biết rằng họ còn trẻ, họ chiến đấu có thể bị hy sinh. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn tuổi trẻ họ còn có tự do, quê hương. Con người hậu phương gửi gắm cả nỗi lòng của họ. Đó là lý tưởng tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh ra đi là do lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất” ngoài ý nghĩa làm giảm sự đau thương? Quang Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là lý do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn nói rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê hương thì sự ra đi của họ cũng nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sỹ ngự trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hy sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi sự bi thảm vốn có. Anh chiến sỹ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Không hề có tiếng khóc, giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hòa vào sông, hòa vào đất mẹ.

Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta:

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều lần mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy là Tây Tiến!

Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sang với cả hào khí dân tộc.
 
T

truonglanuyen

bạn ơi minh nhớ bai thơ Nhớ cua Hồng Nguyên chứ không phai là Nguyên Hồng
 
H

hocmai.nguvan

Đúng rồi em.Nhớ là của Hồng Nguyên nhé.
Không phải của Nguyên Hồng. Nguyên Hồng là nhà văn mà...:)
 
Top Bottom