[NLVH 12] Người đàn bà hàng chài

A

aries1997

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

phân tích nv người đàn bà hàng chài trong "chiếc thuyền ngoài xa" qua đó nêu càm nghĩ của em về cuộc đời hạnh phúc.
p/s:với đề này thì làm thế nào.cảm nhận vể cuoc doi hp mình lồng ghép vào phân tích hay làm xong phân tích rồi mới qua cảm nhận.help meee cần gấp lắm ạ :((((((((((
 
Last edited by a moderator:
V

vuiva

bạn tham khảo
Nguyễn Minh Châu là nhà văn suốt đời trăn trở về nghề và người. Năm 1972 giữa lúc đang viết những thiên sử thi trữ tình lãng mạn, lộng lẫy hào quang, ông đã ghi vào nhật kí “hôm nay chúng ta đang chiến đấu để giành quyền sống cho một dân tộc. Nhưng rồi đến một ngày chúng ta phải chiến đấu để giành quyền sống cho từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn, hạnh phúc hơn. Đó mới chính là cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ”. Với niềm suy tư, trăn trở ấy, Nguyễn Minh Châu đã đổi thay từ cảm hứng sử thi trữ tình lãng mạn sang cảm hứng thế sự đời thường. Sự thay đổi đó để lại dấu ấn rõ nét trong các nhân vật nữ của ông mà tiêu biểu là nhân người đàn bà hàng chài trong truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Nếu nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” là nhân vật hoàn mĩ, lý tưởng từ cái tên đến đôi gót chân bóng hồng, sạch sẽ, từng sợi tóc lấp lánh đến ánh trăng. Và lúc nào cũng hiện lên trong cái nhìn mê muội cảm phục của Lãm thì nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” lại không tên, không chút nhan sắc, chị có thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt tái nhợt đầy những nốt rỗ. Mỗi lần chị khóc nước mặt đọng đầy trong những nốt rỗ ấy, bộ quần áo bạc phếch vá víu lúc nào cũng ướt sũng. Những nét chân dung như thế đã hé mở một cuộc đời khổ đau bất trắc, chị thuộc hiện thân của mảnh đời cơ cực tối tăm vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta. Đó là người phụ nữ lao động lam lũ vất vả ở làng chài, cả nhà sống chen chúc trên một chiếc thuyền chật hẹp. Thế nhưng trong cuộc đời đen tối đó lại ẩn chứa những vẻ đẹp đáng trân trọng.

phan tich nhan vat nguoi dan ba trong chiec thuyen ngoai xa nguyen minh chau

Người đàn bà có sức chịu đựng vô bờ bến, khi miêu tả bề ngoài của nhân vật Nguyễn Minh Châu chú ý đến chi tiết “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng vì kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Đây là chi tiết đáng giá để nhấn mạnh sức cam chịu, bình thường lúc mệt mỏi người ta thường sinh ra cáu gắt, ấy thế nhưng người đàn bà vẫn cam chịu những cơn cuồng nô của người chồng. Khi biết mình phải chịu đòn người đàn bà có những hành động rất ý nghĩa: đưa cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân, quay lại phía con thuyền để xác nhận rằng không còn đứa con nào ở đó. Chị còn là người hiểu sâu sắc lẽ đời: hiểu rõ hoàn cảnh của mình, hoàn cảnh khắc nghiệt của đời sống và hiểu rõ con người. Chị hiểu rõ nỗi bế tắc của người chồng, hiểu chồng là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh. Chị nói về việc chồng trở nên vũ phu là do đám đàn bà ở thuyền đẻ quá nhiều mà thuyền lại chật”. Chị còn là người mẹ bao dung đầy lòng vị tha, giàu đức hy sinh. Chị chấp nhận để chồng đánh ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng chứ nhất quyết không chịu bỏ chồng về đàn con. Nỗi đau khổ lớn nhất của chị là để đàn con bị tổn thương. Khi biết thằng Phác chứng kiến cảnh bố nó hành hạ mẹ nó, đây là nỗi đau giày xé trong lòng chị còn đau hơn nhiều những trận đánh, hành động ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, “vái lấy vái để” cho chúng ta thấy điều đó. Người đàn bà ấy còn rất giàu tình yêu thương. Chị yêu thương cảm thông cho lão chồng đã hành hạ chị suốt đời vì chị biết chồng chị chỉ là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh. Hành động chị lạy con để giữ cho nó không phải ân hận vì một lân lỗi đạo để cầu xin thằng bé tha thứ vì mẹ không thể chở che cho tâm hồn ngây thơ non nớt của nó không tổn thương trong hoàn cảnh tăm tối, cơ cực. Chị còn là người chắt chiu hạnh phúc, chị chấp nhận những cay đắng riêng mình để có niềm hạnh phúc bình dị nhỏ nhoi đó là những lúc đàn con của chị được ăn no, vợ chồng con cái hòa thuận với nhau. Chị còn rất giàu lòng tự trọng, chị có cách ứng xử rất tự trọng: xin lão chồng đưa lên bờ mà đánh để tránh các con phải nhìn thấy, khi biết Phùng và con trai chứng kiến cảnh mình bị đánh chị vô cùng đau đớn, xấu hổ, nhục nhã. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng sau mỗi trận đòn chị lại đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng để đuổi theo lão đàn ông. Đó là sự nhẫn nhục của người có nhân cách tự trọng. Chính vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà đã khiến Phùng và Đẩu nhận ra nhiều điều: cuộc sống không đơn giản một chiều, không thể giải quyết vấn đề cuộc sống bằng lòng nhiệt tình, ý thức sách vở.

Với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được hình ảnh nhân vật người đàn bà với đường nét thô kệch nhưng lại mang một vè đẹp rất đời, rất thực, ẩn sâu và khuất lấp giữa kiếp người nhọc nhằn , lam lũ. Một vẻ đẹp khiến lòng người quặn đau.(st)
theo mình là lồng ghép luôn
 
T

tieuyetdethuong1

Theo mình nên lồng ghép nhé!
Nguyễn Minh Châu là tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam sau 1975. Ông thành công với nhiều tác phẩm như: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa…Nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh .

Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới..toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng . Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.

Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,...
Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, ********* chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trôn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…’

Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì : “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó".

Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ :"Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn". Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: " Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được". Chị " phải sống cho con chứ không thể sống cho mình".
Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mời hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.

Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho ông.

Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi : "..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.
Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta . Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Nguồn:google
 
B

bangnhi_246

Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác năm 1983 là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu. Nội dung kể về chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh với những sự việc mà anh bất ngờ được chứng kiến. Thông qua đó thể hiện cách nhìn của tác giả về hiện thực cuộc sống, một cái nhìn thấu hiểu và trĩu nặng tình thương cùng sự băn khoăn về thân phận con người.

Truyện có ba nhân vật chính: chánh án Đẩu, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và người đàn bà hàng chài, trong đó nhân vật người đàn bà để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí người đọc. Cuộc đời và số phận của chị giống như bao cuộc đời và số phận của những người phụ nữ hàng chài khác : đông con, nghèo khổ… Là nạn nhân của bạo lực gia đình nhưng chị rất mực thương chồng, thương con, nhẫn nhục cam chịu đòn roi của chồng vì không muốn gia đình tan vỡ. Người đàn bà ấy có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm. Nhà văn đã khắc họa chân dung nhân vật này bằng thủ pháp nghệ thuật tương phản để làm nổi bật sự khác biệt giữa hình thức bên ngoài và phẩm chất bên trong, giữa tính cách và thân phận, vẻ đẹp đáng trân trọng ở người đàn bà hàng chài là đức tính vị tha, hi sinh đến quên mình của một người vợ, người mẹ lam lũ, vất vả, chồng chất trên vai gánh nặng mưu sinh. Phẩm chất ấy hiện lên qua từng chi tiết đầy kịch tính của truyện.

cam nhan ve nhan vat nguoi phu nu trong chiec thuyen ngoai xa



Tác giả chỉ gọi nhân vật của mình là người đàn bà một cách phiếm định chứ không có tên tuổi cụ thể với chủ ý nói đến những người đàn bà vô danh ở những vùng biển khác nhau nhưng cùng chung số phận đau thương. Bao nhiêu giọt nước mắt tủi hờn của họ tuôn rơi mà người đời không mấy khi để ý tới.

Tác giả giới thiệu vài nét về hình dáng bên ngoài của nhân vật này: Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ… tấm lưng ảo bạc phếch và rách rưởi, nửa thân dưới ướt sũng…

Nhưng bên trong cái hình thức xấu xí ấy lại là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. Người đàn bà hàng chài rất hiểu chồng và thương chồng, cái gã đàn ông cục tính hễ mở miệng ra là đòi giết vợ, giết con, là nguyền rủa: ********* chết hết đi cho ông nhờ! Theo lời chị ta kể thì chồng chị hồi còn trẻ là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm và không biết Uống rượu. Anh ta không chịu đi lính để lấy tiền nuôi vợ con mà cam chịu cuộc sống vất vả của dân chài. Sau giải phóng, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn kéo dài là nguyên nhân biến tính nết cục cằn của anh ta thành hung bạo. Anh ta giải tỏa sự bức bối, căng thẳng bằng cách thường xuyên đánh vợ. Khi lũ con còn nhỏ, anh ta đánh vợ ngay tại thuyền. Đến lúc chúng đã lớn, người vợ xin chồng cho lên bờ để chịu đòn. Theo suy nghĩ của chị thì trong hoàn cảnh đông con, túng quẫn, những người đàn ông hàng chài nếu không đánh vợ cho hả giận thì cũng uống rượu để giải sầu.

Sức chịu dựng và sự hi sinh thầm lặng của người đàn bà hàng chài làm cho người đọc phải ngỡ ngàng. Vừa ở dưới thuyền lên đến bên chiếc xe rà phá mìn bị hỏng nằm trên bờ cát, chị ta đã bị anh chồng rút chiếc thắt lưng tía quất tới tấp vào người. Chị không hề né tránh mà cắn răng cam chịu, không kêu rên, không chống trả và cũng không chạy trốn. Chị chấp nhận những trận đòn hằng ngày như một phần cuộc đời mình ; chẳng khác gì người đánh cá phải đương đầu với sóng to, gió lớn khi biển động.

Người đàn bà ấy chấp nhận đau khổ, coi đó là lẽ đương nhiên, bởi một lí do quan trọng là trên chiếc thuyền lưới vó đánh cá ngoài khơi xa, cần phải có một người đàn ông khỏe mạnh và giỏi nghề để giúp vợ nuôi đàn con đông đúc. Chị nghĩ rất đúng rằng mình sống cho con chứ không phải cho bản thân và tự an ủi là nếu những người vợ khác chấp nhận các ông chồng nghiện rượu thì mình cũng chấp nhận để cho chồng đánh đập thường xuyên. Chị chỉ xin chồng hãy đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy. Tất cả suy nghĩ, hành động của chị đều vì chồng, vì con, đó là điểu đáng thương mà cũng đáng quý biết chừng nào !

Hình như người đàn bà hàng chài chẳng bao giờ để lộ ra bên ngoài nỗi đau khổ của mình. Sự nhẫn nhục cam chịu hầu như chi phối toàn bộ suy nghĩ và hành động của chị. Thấp thoáng ở người đàn bà ấy là bóng dáng những người vợ, người mẹ đảm đang, nhân hậu, bao dung và hi sinh đến quên mình.

Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng. Sau khi biết hành động vũ phu của chồng mình đã bị đứa con trai và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) chứng kiến, chị thấy đau đớn, vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Chắc chắn đây không chì là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau khổ của người đàn bà đã ứa ra. Đó là giọt nước mắt của nhọc nhằn và chịu đựng. Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót cho tình cảnh trớ trêu của mình, kể cả thằng Phác, đứa con trai mà chị quý nhất. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng người đàn bà ấy không hề để ý, không hề bận tâm. Đúng là sự nhẫn nhục của một người có nhân cách, có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ đời.

Bên trong vẻ cam chịu, nhẫn nhục ấy là tính cách can đảm, cứng cỏi và khát vọng hạnh phúc dù nhỏ nhoi nhưng thật cảm động, ở tòa án huyện, chính người đàn bà ấy đã đem đến cho Phùng và Đẩu những suy nghĩ, xúc cảm mới. Được mời lên tòa án để giải quyết chuyện gia đình, lúc đầu chị ta lúng túng, rụt rè tìm một góc tường để ngồi. Chị thấy sợ hãi Khi đến một không gian lạ và cảm thấy mình thật nhỏ bé giữa chốn công đường. Cái thế ngồi của chị như cố thu mình lại để tự vệ, cho dù đã được Đẩu, Phùng chia sẻ và cảm thông.

Nguyễn Minh Châu đã thể hiện thành công sự thay đổi bất ngờ trong thái độ và ngôn ngữ của người đàn bà hàng chài khi bày tỏ tâm sự về gia cảnh vả quyết tâm giữ gìn hạnh phúc bé nhỏ của đời mình. Lúc đầu, chị thưa gửi rất lễ phép, xưng là con và có lúc đã năn nỉ van xin chánh án Đẩu : Con lạy quý tòa… Nhưng khi đã lấy lại được sự tự tin, tâm thế người đàn bà đó đột ngột thay đổi. Chị ta chuyển sang cách xưng hô thân mật và có phần suồng sã : Chị cám ơn các chủ ! Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc… Sự thay đổi bất ngờ ấy khiến Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên.

Chị ta đã nói cho Đẩu và Phùng biết nỗi vất vả và nguy hiểm khôn lường của người đàn bà trên một chiếc thuyền đánh cá không có đàn ông, nhất là những khi biển động. Giọng nói của người đàn bà tha thiết như giãi bày, mong nhận được sự chia sẻ của người nghe: Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hằng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho chính mình như ở trên đất được ! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó!

Giọng người đàn bà bớt sầu não phần nào khi nói về hạnh phúc được hi sinh của người vợ, người mẹ. Bên ngoài, chị ta là một kẻ quê mùa, thất học; nhưng bên trong lại là người từng trải và thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Qua lời kể của chị, Đẩu và Phùng hiểu thêm phần nào về cuộc sống cực nhọc và bất trắc của nghề chài lưới ngoài khơi xa cùng với những niềm vui, nỗi buồn của một gia đình hàng chài vất vả nuôi một đận con trong một chiếc thuyền hẹp. Bên cạnh đó là đời sống tinh thần nghèo nàn của những người sống lênh đênh trên biển, không biết giãi bày tâm sự với ai. Người đàn bà hàng chài gọi Đẩu và Phùng là các chú cách mạng. Cách gọi như thế có cái gì đó vừa thân thương nhưng cũng vừa xạ lạ, bởi các chủ có hiểu gì về cuộc sống đời thường với những chuyện phức tạp như thế này đâu?! Hình ảnh người đàn bà vùng biển đã ám ảnh Phùng, cũng chính là cuộc sống đời thường đang ám ảnh tâm trí các nghệ sĩ trên hành trình phản ánh hiện thực và sáng tạo nghệ thuật.

Người đàn bà hàng chài trân trọng tình mẫu tử và nâng niu những niềm vui, hạnh phúc nhỏ nhoi chắt lọc từ trong cuộc sống thiếu thốn, đau khổ triền miên. Nét mặt chị tươi hẳn lên khi kể rằng trong gia đình mình đôi khi vẫn có niềm vui. Ấy là khi vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ… và vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no. Vì thương đàn con nheo nhóc mà người đàn bà hàng chài cắn răng chấp nhận những trận đòn tàn bạo của chồng. Vì thương chồng mà chị cảm thông và tha thứ cho tính vũ phu. Ở đây, tình thương và lẽ đời đã chiến thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền gì nhưng cái tâm của một người đàn bà thương con sâu sắc cũng là một thứ uy quyền có sức lay động rất lớn. Nó làm cho những trí thức như chánh án Đẩu, nghệ sĩ Phùng chợt tỉnh ngộ ra nhiều điều trong cuộc sống đời thường.

Tính cách người đàn bà hàng chài trong truyện được tác giả khắc họa thông qua các mối quan hệ gia đình và xã hội: Với chồng thì cam chịu, nhẫn nhục nhưng không phải mù quáng mà là sự cảm thông và thương xót. Với con thì tận tâm, bao bọc, che chở, cố tránh cho con khỏi bị tổn thương, luôn mang nặng mặc cảm có lỗi với con. Với cán bộ tòa án, lúc đầu chị tỏ ra sợ sệt, e ngại, sau đó tự tin hơn và thành thật bộc bạch suy nghĩ của mình. Đây là tính cách của một người đàn bà lao động chất phác, lam lũ, giàu lòng thương con, thương chồng và sống bằng kinh nghiệm thực tiễn. Người đàn bà hàng chài là hiện thân của vẻ đẹp khiêm nhường và thế giới tâm hồn phức tạp, bí ẩn của con người.



Nói đến bạo lực trong gia đình người đàn bà hàng chài, tác giả đã khơi dậy trong lòng người đọc nỗi xót thương pha lẫn lo âu trước tình trạng phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sẽ sớm nhiễm thói vũ phu, thô bạo do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào cuộc sống. Nhà văn không chỉ lên án bạo lực, phê phán sự ngu muội, không chỉ bày tỏ tình thương yêu với những con người nhỏ bé, bất hạnh, mà còn cảnh báo một nguy cơ đáng sợ: Nếu không giải phóng con người ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo, tăm tối thì không thể đẩy lùi được cái ác. Đó là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

Hình tượng người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã thể hiện tấm lòng trĩu nặng tình thương, nỗi lo âu cho số phận con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu, đồng thời cho thấy, tác giả đã có cái nhìn không hể đơn giản về cuộc sống.
 
W

windysnow

Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quá của bà.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chi mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị.

Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thời về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, ********* chết hết đi cho ông nhờ". Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc đời nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được.

Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam chịu tất cả, làm tất cả vì những đứa con thân yêu của mình. Thị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của mụ. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu. Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.
Sau tất cả những nỗi đau mà người chồng đã gây ra cho bà, bà vẫn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng
Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm chất phi thường không phải ai cũng có được. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.
Cuộc sống của người đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá hiếm hoi. Vì vậy bà rất nâng niu những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.

Tác giả đã dùng biện pháp đồi lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca. Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống.

Người đàn bà hàng chài chính là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam, họ chịu đựng hi sinh gian khổ, hết lòng vì chồng con, vì gia đình. Họ có tấm lòng bao dung độ lượng sâu sắc. Đó là những phầm chất đáng quý, đáng tự hào. Hiện nay xã hội đã công bằng bình đẳng hơn, nhưng vẫn còn không ít phụ nữ phải chịu bất hạnh trong cuộc đời, xã hội cần có biện pháp mạnh hơn để răn đe những hành động chà đạp người phụ nữ, để học xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc.

Nguồn: saigonxe.net
 
Top Bottom