- 29 Tháng mười 2018
- 3,304
- 4,365
- 561
- TP Hồ Chí Minh
- THCS Nguyễn Hiền
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!! ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.
Không nhiều người trẻ ngày nay có thể hiểu Lò Sũ nghĩa là gì, Hàng Chĩnh, Hàng Đẫy bán gi ?
Hà Nội có trên 40 tên phố bắt đầu bằng từ "Hàng". Gần trăm năm trước, mỗi phố "Hàng" bán một loại mặt hàng, một số phố vẫn còn truyền thống như Hàng Chiếu, Hàng Thiếc, Hàng Mã, Hàng Đào (bán quần áo), Thuốc Bắc…
Tuy nhiên, đa số phố cổ nay không chỉ kinh doanh một mặt hàng như ngày xưa nữa, hoặc đã chuyển sang kinh doanh mặt hàng khác. Do đó, nhiều từ riêng trong các tên cổ không còn được dùng thường xuyên, khiến nhiều người, nhất là lớp trẻ, không hiểu được ý nghĩa.
Như phố Lò Sũ, ít người biết ý nghĩa của tên phố này là phố… bán quan tài. Chữ “sũ”, tiếng Việt cổ, nghĩa là áo quan. Thợ sũ ở phố này thờ ông tổ nghề mộc và nghề rèn, bởi những người thợ sũ đều xuất thân từ nghề mộc và nghề rèn. Trong khi đó, phố Hàng Hòm không phải là nơi bán quan tài mà chuyên bán các loại hòm gỗ đựng quần áo, đồ đạc, cũng như các loại tráp, đồ gỗ sơn khác.
Nhiều người trẻ chắc sẽ phải ngẫm nghĩ một lúc với tên phố Hàng Chĩnh. Chĩnh là một loại vật đựng bằng sành, miệng và đáy nhỏ, bụng phình to giống cái chum nhưng kích thước nhỏ hơn. Chĩnh thường dùng để đựng mắm, tương, cũng có thể đựng gạo giống cái hũ, như trong câu tục ngữ "chuột sa chĩnh gạo". Trong tryện cổ tích Tấm Cám, mẹ Cám có câu chê Tấm: “Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre”, thì mảnh chĩnh cũng như mảnh sành vậy, chỉ là đồ bỏ đi, không giá trị. Phố Hàng Chĩnh xưa vẫn bán đủ các loại vật đựng bằng sành khác như chum, vại, hũ, vò...
Phố Hàng Đẫy, nay được đặt tên là Nguyễn Thái Học, có sân vận động Hàng Đẫy trước kia lớn nhất Hà Nội, ngày xưa chuyên bán đẫy. Đẫy là một loại vật đựng, làm bằng vải như cái túi, cái bị, hoặc tay nải. Người Việt xưa đi xa thường đựng hành lý trong cái đẫy, khoác vào vai như ta đeo balô, túi bây giờ.
Còn Hàng Bồ, là phố ngày xưa bán những chiếc bồ đan bằng tre, hình trụ, trên miệng có nẹp tre, to thì đựng thóc trong kho, nhỏ thì đựng muối trong bếp. Xưa đơn vị đo không xác định hay được tính bằng bồ, như "ăn hết bồ muối mới hiểu lòng dạ nhau" hay "học hết ba bồ chữ của thầy". Sau này khi có các vật đựng bằng sành, sứ, thủy tinh, rồi đến bằng nhựa như hiện nay, thì những cái bồ dần biết mất khỏi cuộc sống người Việt.
Đoạn phố Thợ Nhuộm nối ra Bà Triệu xưa có tên là phố Hàng Lam, vốn cũng cùng nhóm với phố Thợ Nhuộm, vì nơi đây tập trung thợ chuyên nhuộm quần áo vải vóc sang màu lam.
Phố Hàng Chai có tên khá muộn, theo tài liệu của nhà giáo chuyên nghiên cứu về Hà Nội Nguyễn Văn Uẩn, thì thời gian những năm 1920-1930, dân trong ngõ đa số là người nghèo sinh sống về nghề “ve chai”, đi rong mua bán các thứ phế liệu, chai lọ, đem về tập kết ở phố mà khiến phố có tên như vậy.
Phố Mã Mây, nếu muốn suy ra chuyên bán đồ gì thì khá khó. Bởi phố có tên như vậy do ghép từ Hàng Mã và Hàng Mây.
Trong khi đó, đoạn Đường Thành rẽ ra Hàng Điếu có phố tên là Nhà Hỏa. Phố có tên này do có đền thờ Hỏa Thần, để cầu xin thần phù hộ tránh cho nhân dân khỏi các cơn hỏa hoạn. Đền được lập khoảng đầu triều Nguyễn, có ý kiến cho rằng đây là ngôi đền thờ thần lửa duy nhất tại Việt Nam. Ở đền này có quả chuông lớn để báo động khi có cháy. Do đó, con phố này được gọi là phố Nhà Hỏa.
Còn tên phố Hàng Bè cho ta biết, xưa kia nơi đây vẫn là bờ sông Hồng, tức là các phố Nguyễn Hữu Huân, Hàng Tre, Trần Quang Khải ngày xưa nằm dưới lòng sông hết. Nơi này là bến thuyền với nhiều bè tre, nứa, gỗ cập bờ để bán hàng nên cũng trở thành tên.
Tuệ Phong.
Tư liệu & Ảnh St.
Hà Nội có trên 40 tên phố bắt đầu bằng từ "Hàng". Gần trăm năm trước, mỗi phố "Hàng" bán một loại mặt hàng, một số phố vẫn còn truyền thống như Hàng Chiếu, Hàng Thiếc, Hàng Mã, Hàng Đào (bán quần áo), Thuốc Bắc…
Tuy nhiên, đa số phố cổ nay không chỉ kinh doanh một mặt hàng như ngày xưa nữa, hoặc đã chuyển sang kinh doanh mặt hàng khác. Do đó, nhiều từ riêng trong các tên cổ không còn được dùng thường xuyên, khiến nhiều người, nhất là lớp trẻ, không hiểu được ý nghĩa.
Như phố Lò Sũ, ít người biết ý nghĩa của tên phố này là phố… bán quan tài. Chữ “sũ”, tiếng Việt cổ, nghĩa là áo quan. Thợ sũ ở phố này thờ ông tổ nghề mộc và nghề rèn, bởi những người thợ sũ đều xuất thân từ nghề mộc và nghề rèn. Trong khi đó, phố Hàng Hòm không phải là nơi bán quan tài mà chuyên bán các loại hòm gỗ đựng quần áo, đồ đạc, cũng như các loại tráp, đồ gỗ sơn khác.
Nhiều người trẻ chắc sẽ phải ngẫm nghĩ một lúc với tên phố Hàng Chĩnh. Chĩnh là một loại vật đựng bằng sành, miệng và đáy nhỏ, bụng phình to giống cái chum nhưng kích thước nhỏ hơn. Chĩnh thường dùng để đựng mắm, tương, cũng có thể đựng gạo giống cái hũ, như trong câu tục ngữ "chuột sa chĩnh gạo". Trong tryện cổ tích Tấm Cám, mẹ Cám có câu chê Tấm: “Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre”, thì mảnh chĩnh cũng như mảnh sành vậy, chỉ là đồ bỏ đi, không giá trị. Phố Hàng Chĩnh xưa vẫn bán đủ các loại vật đựng bằng sành khác như chum, vại, hũ, vò...
Phố Hàng Đẫy, nay được đặt tên là Nguyễn Thái Học, có sân vận động Hàng Đẫy trước kia lớn nhất Hà Nội, ngày xưa chuyên bán đẫy. Đẫy là một loại vật đựng, làm bằng vải như cái túi, cái bị, hoặc tay nải. Người Việt xưa đi xa thường đựng hành lý trong cái đẫy, khoác vào vai như ta đeo balô, túi bây giờ.
Còn Hàng Bồ, là phố ngày xưa bán những chiếc bồ đan bằng tre, hình trụ, trên miệng có nẹp tre, to thì đựng thóc trong kho, nhỏ thì đựng muối trong bếp. Xưa đơn vị đo không xác định hay được tính bằng bồ, như "ăn hết bồ muối mới hiểu lòng dạ nhau" hay "học hết ba bồ chữ của thầy". Sau này khi có các vật đựng bằng sành, sứ, thủy tinh, rồi đến bằng nhựa như hiện nay, thì những cái bồ dần biết mất khỏi cuộc sống người Việt.
Đoạn phố Thợ Nhuộm nối ra Bà Triệu xưa có tên là phố Hàng Lam, vốn cũng cùng nhóm với phố Thợ Nhuộm, vì nơi đây tập trung thợ chuyên nhuộm quần áo vải vóc sang màu lam.
Phố Hàng Chai có tên khá muộn, theo tài liệu của nhà giáo chuyên nghiên cứu về Hà Nội Nguyễn Văn Uẩn, thì thời gian những năm 1920-1930, dân trong ngõ đa số là người nghèo sinh sống về nghề “ve chai”, đi rong mua bán các thứ phế liệu, chai lọ, đem về tập kết ở phố mà khiến phố có tên như vậy.
Phố Mã Mây, nếu muốn suy ra chuyên bán đồ gì thì khá khó. Bởi phố có tên như vậy do ghép từ Hàng Mã và Hàng Mây.
Trong khi đó, đoạn Đường Thành rẽ ra Hàng Điếu có phố tên là Nhà Hỏa. Phố có tên này do có đền thờ Hỏa Thần, để cầu xin thần phù hộ tránh cho nhân dân khỏi các cơn hỏa hoạn. Đền được lập khoảng đầu triều Nguyễn, có ý kiến cho rằng đây là ngôi đền thờ thần lửa duy nhất tại Việt Nam. Ở đền này có quả chuông lớn để báo động khi có cháy. Do đó, con phố này được gọi là phố Nhà Hỏa.
Còn tên phố Hàng Bè cho ta biết, xưa kia nơi đây vẫn là bờ sông Hồng, tức là các phố Nguyễn Hữu Huân, Hàng Tre, Trần Quang Khải ngày xưa nằm dưới lòng sông hết. Nơi này là bến thuyền với nhiều bè tre, nứa, gỗ cập bờ để bán hàng nên cũng trở thành tên.
Tuệ Phong.
Tư liệu & Ảnh St.