Văn Những bài viết phục vụ cho HSG Văn

Ye Ye

Cây bút Truyện ngắn 2017|Thần tượng văn học
Hội viên CLB Ngôn từ
Thành viên
10 Tháng bảy 2017
2,064
2,347
434
Hà Nam
NEU (Dream)
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Một số vấn đề lí luận văn học

KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Quan điểm/ quan niệm sáng tác

+ Là gì:

- Chỗ đứng, điểm nhìn để nhà văn sáng tác.

- Phải được hiện thực hoá trong quá trình sáng tác.

- Được phát biểu trực tiếp hay thể hiện gián tiếp qua các tác phẩm.

- Nhà văn nào cũng có quan điểm/quan niệm sáng tác nhưng để tạo thành một hệ thống có giá trị thì không phải ai cũng làm được.

+ Vai trò:

- Chi phối toàn bộ quá trình sáng tác (lựa chọn đề tài, hình tượng, lựa chọn lối viết, các hình thức nghệ thụât...)

- Phần nào thể hiện tầm tư tưởng của nhà văn.

+ Ví dụ: Quan điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh: Văn học là vũ khí lợi hại phục vụ sự nghiệp cách mạng, nhà văn là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hoá tư tưởng.

+ Ứng dụng:

Phân tích quan điểm sáng tác của một nhà văn (Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nam Cao…).

2. Phong cách nghệ thuật

+ Là gì:

Là nét riêng có tính hệ thống trong sáng tác của một nhà văn

+ Đặc điểm:

- Thiên về hình thức nghệ thuật.

- Có sự thống nhất và vận động trong quá trình sáng tác của nhà văn.

+ Vai trò:

- Là một trong những điều kiện quan trọng để đánh giá vị trí, tài năng của nghệ sĩ. Một nhà văn lớn phải là nhà văn có phong cách.

- Thể hiện bản chất của văn chương: hoạt động sáng tạo.

+ Ví dụ:

- Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu: Thơ dù viết về đề nào cũng nồng nàn thao thiết niềm giao cảm với đời. Tư tưởng nghệ thuật độc đáo này được chuyển hoá vào hệ thống các phương tiện biểu hiện mới mẻ (bút pháp tương giao; ngôn ngữ rất Tây, tinh tế; cách cấu tứ theo sự vận động của thời gian cùng giọng điệu thơ đa dạng, phong phú đủ để tái hiện những cung bậc, những biến thái tinh vi nhất, chân xác nhất của thế giới cũng như tình cảm con người).

- Phong cách nghệ thuật Tố Hữu: mang tính chất thơ trữ tình chính trị sâu sắc; đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn; giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết; đậm đà tính dân tộc

- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác; cảm quan sắc nhọn phong phú; chữ nghĩa giàu có; tuỳ bút tài hoa...=> “Ngông”.

+ Ứng dụng

Phân tích phong cách nghệ thuật của một tác giả (Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Nam Cao, Xuân Diệu…)

3. Tình huống trong truyện ngắn

+ Là gì:

- Là lát cắt của đời sống mà qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét nhất và tư tưởng nhà thể hiện rõ nhất.

“Là một lát cắt, một khúc của đời sống. Nhưng qua lát cắt, qua khúc ấy người thấy được trăm năm của đời thảo mộc” (Nguyễn Minh Châu)

- Biểu hiện qui luật có tính nghịch lí trong sáng tạo nghệ thuật: qui mô nhỏ nhưng khả năng phản ánh lớn.

+ Vai trò:

- Khắc hoạ tính cách nhân vật, thể hiện tư tưởng nghệ sĩ.

- Xuất phát từ đặc trưng truyện ngắn: dung lượng nhỏ, thể hiện nhân vật qua một khoảnh khắc ngắn ngủi của đời sống (tiểu thuyết: dài, theo sát toàn bộ cuộc đời, số phận nhân vật…) => Tình huống phải giống như thứ nước rửa ảnh làm nổi lên hình sắc nhân vật và tư tưởng nhà văn => Xây dựng được tình huống truyện độc đáo là dấu hiệu của:

• Một tác phẩm có giá trị

• Một tác giả tài năng.

+ Ví dụ: tình huống đợi tàu ám ảnh (Hai đứa trẻ), tình huống cuộc gặp gỡ đầy éo le, oái oăm giữa quản ngục và Huấn Cao (Chữ người tử tù), tình huống nhận thức (Chiếc thuyền ngoài xa)…

+ Ứng dụng:

Phân tích tình huống truyện trong: Chiếc thuyền ngoài xa, Vợ nhặt, Chữ người tử tù,…

4. Các giá trị văn học

+ Mô tả: có 3 giá trị cơ bản của văn học

- Giá trị nhận thức:

• Mang tới cho bạn đọc những tri thức sâu rộng về thế giới

• Giúp con người khám phá, nhận thức, thấu hiểu sâu sắc chính bản thân mình.

- Giá trị giáo dục

• Đem đến những bài học quí giá về lẽ sống

• Về tư tưởng: Hình thành cho con người những tư tưởng tiến bộ, có thái độ và quan điểm sống đúng đắn.

• Về tình cảm: Giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, tâm hồn trở nên lành mạnh, trong sáng.

- Giá trị thẩm mĩ:

• Nội dung:

 Vẻ đẹp muôn hình vẻ của cuộc đời

 Vẻ đẹp bản thân con người.

• Hình thức: những biện pháp, thủ pháp xây dựng hình tượng nghệ thuật sinh động, giàu sức gợi.

- Mối quan hệ của 3 giá trị:

• Giá trị nhận thức: tiền đề của giá trị giáo dục.

• Giá trị giáo dục: làm sâu sắc hơn giá trị nhận thức

• Các giá trị nhận thức và giá trị giáo dục đều được phát huy tích cực nhất qua giá trị thẩm mĩ.

+ Ví dụ:

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu mở rộng phạm vi nhận thức về một hiện thực bề bộn, phức tạp thời hậu chiến với những nghịch lí đầy ngang trái, đồng thời khám phá vẻ đẹp bên trong người đàn bà tưởng như chỉ biết cam chịu, khơi gợi ở bạn đọc một thái độ sống, một cách nhìn cuộc đời sâu sắc, tỉnh táo hơn thông qua những hình ảnh có tính chất biểu tượng, qua lối kể chuyện đa dạng.

+ Ứng dụng:

Đánh giá giá trị của một tác phẩm văn học.

5. Nhà văn – văn bản – bạn đọc

+ Nhà văn: người sáng tạo ra văn bản => thực hiện quá trình kí mã => Ý đồ nghệ thuật, cách lí giải của nhà văn về văn bản chỉ là một khả năng hiểu văn bản.

+ Bạn đọc: ngưòi tiếp nhận văn học => thực hiện quá trình giải mã.

+ Văn bản: là một bộ mã, có thể chấp nhận nhiều cách giải khác nhau nhưng phải phù hợp với các mã đã được nhà văn kí gửi.

6. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ

+ Mô tả (so sánh với hình tượng nhân vật trong tác phẩm tự sự)

Hiện ra qua giọng điệu, trạng thái tâm hồn, cảm xúc (nhân vật trong tác phẩm tự sự: có diện mạo, tính cách, hành động cụ thể)

+ Phân loại:

- Xét sự xuất hiện của tác giả trong tác phẩm:

• Cái tôi trữ tình: tác giả

• Nhân vật trữ tình nhập vai: khi tác giả hoá thân vào nhân vật khác trong tác phẩm.

- Xét về vai trò:

• Chủ thể trữ tình (người trực tiếp bộc lộ cảm xúc)

• Đối tượng trữ tình: đối tượng hướng tới của tâm trạng chủ thể trữ tình

+ Ví dụ:

- “Tảo giải” (Giải đi sớm) khắc hoạ hình tượng nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh - chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình với vẻ đẹp tâm hồn nghệ sĩ và vẻ đẹp tinh thần chiến sĩ.

- “Sóng”: xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình “sóng” – nhân vật trữ tình nhập vai, đối tượng trữ tình mang vẻ đẹp của khao khát tình yêu thuỷ chung, nồng nàn, mãnh liệt.

+ Ứng dụng:

Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong một bài thơ.

7. Giá trị hiện thực

+ Là gì:

- Phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh.

- Tác phẩm nào cũng có giá trị hiện thực. (Vì văn học bắt nguồn từ cuộc sống: hiện thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, hiện thực tình cảm, tâm lí…)

+ Biểu hiện:


Hiện thực phản ánh trong tác phẩm thì vô cùng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, nói đến giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học người ta thường đề cập 3 nét chính:

- Phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh.

- Chỉ ra nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người.

- Miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người.

Ở mỗi một tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được biểu hiện đa dạng. Cùng phản ánh tình cảnh khốn quẫn của người nông dân Việt Nam trước cách mạng, Ngô Tất Tố miêu tả nỗi chật vật về vật chất của chị Dậu vì nạn sưu cao thuế nặng, một cổ nhiều tròng, Nguyễn Công Hoan phơi bày chân thực sự cùng đường tuyệt lộ của người nông dân (“Bước đường cùng”), Nam Cao lại đi vào mảng hiện thực sâu kín nhất, tăm tối nhất – địa hạt tâm lí để lột trần bi kịch bị tha hoá, nỗi đau tinh thần khắc khoải của những con người dưới đáy của xã hội – Chí Phèo.

+ Vai trò:

- Thể hiện cái nhìn hiện thực sâu sắc hay hời hợt của nhà văn.

- Dấu hiệu của một tác phẩm có giá trị.

+ Ứng dụng:

- Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm. (Chí Phéo, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt…)

- Phân tích nhân vật làm rõ giá trị hiện thực mới mẻ và độc đáo trong một tác phẩm. (nhân vật Chí Phèo, nhân vật Mị, nhân vật người phụ nữ vợ nhặt…)

8. Giá trị nhân đạo

+ Là gì:

- Hạt nhân: lòng yêu thương con người.

- Đối tượng: thường là nỗi khổ.

+ Biểu hiện: 3 khía cạnh cơ bản.

- Cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh.

- Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người.

- Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh.

Ở mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự biến đổi phong phú, linh hoạt. Chẳng hạn, cùng viết về người phụ nữ với cái nhìn trân trọng, yêu thương sâu sắc, Ngô Tất Tố khám phá ở Chị Dậu vẻ đẹp truyền thống, thuỷ chung, không tì vết; Kim Lân phát hiện ra nét nữ tính và khát vọng hạnh phúc bất diệt trong tâm hồn người vợ nhặt, còn Tô Hoài thì khơi tìm sức sống tiềm tàng, mãnh liệt nơi cô gái vùng cao - Mị…

+ Vai trò:

- Thể hiện tầm vóc tư tưởng của nhà văn

“Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” (Biêlinxki)

- Là một trong những dấu hiệu của một tác phẩm giàu giá trị (Văn học là nhân học. Nghệ thuật chỉ có nghĩa khi hướng tới con người, yêu thương con người).

+ Ứng dụng:

- Phân tích giá trị nhân đạo trong một tác phẩm (Vợ nhặt, Vợ chồng A Phủ, Chí Phèo…)

- Làm rõ giá trị nhân đạo độc đáo và mới mẻ của một tác phẩm qua việc phân tích nhân vật (Phân tích nhân vật Tràng, phân tích nhân vật Mị, phân tích nhân vật Chí Phèo…)

+ Mối quan hệ giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo:

- Gắn bó hài hoà trong một tác phẩm.

- Các khía cạnh biểu hiện nhìn chung tương đồng chỉ khác biệt ở chỗ: nếu nói giá trị hiện thực là nhắc tới sự trình bày, miêu tả hiện thực một cách tương đối khách quan thì nói tới gía trị nhân đạo tức là đã bao hàm thái độ của nhà văn (cảm thông, thương xót, đồng tình, ngợi ca…)

BÀI VIẾT THAM KHẢO


Bình luận quan niệm của J.Paul. Sartre:

“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”

1. Nhiều năm trở lại đây, vấn đề tiếp nhận tác phẩm không chỉ là mối quan tâm của lí luận văn học mà còn là đối tượng của rất nhiều khoa học nghiên cứu văn học. Bình luận và phân tích quan niệm của J.Paul.Sartre trên cơ sở ngôn ngữ học hiện đại cho chúng tôi những kiến giải sâu sắc.

2. Nếu như vai trò sáng tạo của nhà văn có lịch sử nghiên cứu khá đầy đặn thì vai trò của người đọc, bản chất của quá trình tiếp nhận văn học dẫu đã được “canh tác” ít nhiều vẫn còn là mảnh đất khá màu mỡ, mời gọi khám phá.

Lấy mối quan hệ tác giả - tác phẩm - bạn đọc làm căn cốt, xưa nay có nhiều ý kiến khác nhau về yếu tố trung tâm của hoạt động văn học.

Trước đây, có một quan niệm đã trở thành quán tính trong nghiên cứu phê bình: lấy tác giả cùng cá tính sáng tạo làm trung tâm. Nó xem nhẹ vai trò của bạn đọc và quá trình tiếp nhận.

Ý tưởng của nghệ sĩ là nòng cốt, là “chỉ dẫn của Chúa” để soi đường cho những tín đồ văn chương mải miết đi tìm chân lí. Tiếp nhận được xem như một nỗ lực phóng chiếu tinh thần nghệ sĩ vào tác phẩm, truy tìm ánh xạ tâm hồn nhà văn trong bề mặt ngôn ngữ, văn bản.

Theo đó, phê bình cố gắng lần tìm theo lối người viết đã đi để dựng lại một tác phẩm văn học duy nhất trong ý đồ sáng tạo. Hướng nghiên cứu phổ biến và lí tưởng một thời là tiếp cận trực tiếp với tác giả, khai thác địa đồ nhà văn đã phác thảo, lí giải tác phẩm bằng chỉ dẫn trực tiếp.

Vấn đề đặt ra: làm cách nào để tìm hiểu các tác phẩm khuyết danh, các sáng tác của các nhà văn không đồng thời với chúng ta hay nhà văn đã mất? Nếu tác giả không để lại bất kì chỉ dẫn nào ngoài văn bản thì có nghĩa chiếc chìa khoá đi vào văn bản mãi mãi bị vùi lấp.

Xem tác phẩm văn học “như một quá trình”, các nhà nghiên cứu đã phục nguyên vai trò của bạn đọc.

Chúng tôi quan tâm tới phân tích của hai tác giả Nguyễn Lai và Bùi Minh Toán trên góc độ ngôn ngữ học.

GS.Nguyễn Lai trong bài viết “Về quá trình tiếp nhận văn học” có đưa ra 5 luận điểm quan trọng:

 Nói đến quá trình tiếp nhận văn học, thoạt tiên ta nghĩ ngay tới “sản phẩm” được làm ra. Theo cách đó, sản phẩm chưa qua tay người tiêu dùng thì mới ở dạng tiềm năng. Do vậy, năng động chủ quan của người tiếp nhận là cánh cửa đầu tiên để ta có thể đi vào ngôi nhà tạo nghĩa của quá trình tiếp nhận văn học.

 Chủ thể hoạt động biến “thành phẩm” thành tác phẩm.

 Sự khác nhau giữa kí hiệu thẩm mĩ và hình tượng thẩm mĩ. Tuy cùng là những gợi dẫn thẩm mĩ, nhưng ở hình tượng tượng thẩm mĩ, tính năng động chủ quan của chủ thể phát huy cao độ và phát huy với thế hoàn toàn chủ động. Từ ngữ, kí hiệu thẩm mĩ chỉ là phương tiện của quá trình gợi dẫn. Trong luận điểm này, tác giả cũng phân tích quá trình chuyển mã từ mã ngôn ngữ sang mã hình tượng.

 Quá trình tác động một cách có qui luật của tác phẩm nghệ thuật đối với người tiếp nhận.

 Mối quan hệ giữa người tiếp nhận với tác phẩm và xã hội thông qua ngôn ngữ.

Coi hoạt động văn học như là hoạt động giao tiếp, GS Bùi Minh Toán xem xét quá trình tiếp nhận văn học trên hai khía cạnh.

 Vai trò của người đọc trong quá trình tiếp nhận.

 Vai trò của người đọc trong chính hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ.

Trong quá trình sáng tạo của nhà văn, độc giả có vai trò nhất định, chi phối quá trình sáng tạo và chi phối cả nội dung, hình thức của tác phẩm.

Trong quá trình tiếp nhận, độc giả có vai trò đồng sáng tạo. Tác phẩm là một bộ mã, nhà văn là người kĩ mã, bạn đọc giải mã.

3. Như vậy, ở Việt Nam, quan niệm về quá trình tiếp nhận và vai trò của bạn đọc đã được thấu thị qua những lăng kính khoa học đáng tin cậy. Dễ dàng nhận thấy những luận điểm đó khá gần gũi với nhận định của J.Paul.Sartre.

“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận đông. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”.

Trước hết, Sartre nhận xét tác phẩm văn học không phải là cái hoàn tất cố định sau quá trình thai nghén của nhà văn mà luôn luôn vận động biến đổi như “con quay kì lạ”. Tác phẩm chỉ hiện tồn “trong vận động”.

Dường như, ở đây có một cuộc đối thoại ngầm với các quan điểm cho rằng tác phẩm là cố định, duy nhất, chỉ phụ thuộc vào ý đồ của nhà văn ( đã phân tích ở trên). Vận động là điều kiện thiết yếu để tác phẩm có thể xuất hiện, là đời sống đích thực của tác phẩm.

Vậy cơ chế nào cho sự vận động của văn bản nghệ thuật? Ông khẳng định “cần có hoạt động cụ thể là sự đọc”, đồng thời tiếp tục nhấn mạnh vai trò của sự đọc hay cũng chính là vai trò của độc giả “tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục.

Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”. Như vậy sự đọc có ý nghĩa sống còn đối với sức sống của tác phẩm. Không được độc giả tiếp nhận, tác phẩm chỉ là những “vệt đen trên giấy trắng” – những con chữ vật lí vô cảm, vô hồn. Sự đọc là máu để biến một thể xác vật chất (văn bản) thành một sinh thể có xúc cảm, có vui buồn, có trăn trở.

Tóm lại, J.Paul.Sartre sử dụng cách nói quá để nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của tiếp nhận đối với đời sống văn học. Vô hình chung, tác giả đã xem văn học là hoạt động giao tiếp, là một quá trình.

Dễ dàng nhận thấy dấu ấn triết học hiện sinh trong nhận định này. Sự vật hiện tượng tồn tại trong thế giới ở hình thức cá thể, hiện thực với sinh hoạt hàng ngày. Cho nên, tác phẩm văn học là một sản phẩm tinh thần, được cụ thể bằng dạng vật chất (văn bản ngôn từ), cũng chỉ có ý nghĩa trong đời sống của nó – sự đọc. Được viết ra từ những ẩn ức của nhà văn nhưng để hướng tới độc giả, nhân loại nói chung, tách khỏi sự đọc, tác phẩm chỉ là cái xác vô hồn.

Khẳng định ý nghĩa của sự đọc không có nghĩa phủ nhận vai trò của nhà văn và quá trình sáng tạo. “Con quay kì lạ” dẫu biến ảo, vận động về đâu cũng cần có một trục trụ duy nhất để cân bằng. Ấy là những chỉ dẫn nghệ thuật, những tín hiệu thẩm mĩ mà nhà văn dày công xây dựng trong tác phẩm. Tác phẩm là một quá trình, Sartre nhấn mạnh vào quá trình thứ hai – giải mã. “Tác phẩm chỉ có thể kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục” .

So sánh quan niệm của Sartre với luận giải của Nguyễn Lai, Bùi Minh Toán (đã nên ở trên), có thể thấy sự tương đồng rõ nét. Nếu Sartre cho rằng thiếu sự đọc, tác phẩm chỉ là “những vệt đen trên giấy trắng” thì Nguyễn Lai coi văn bản được nhà văn sáng tạo ra mới chỉ ở dạng “tiềm năng”.

Tiềm năng ấy chỉ được hiện thực hóa thông qua quá trình giải mã tín hiệu thẩm mĩ dựa trên sự tác động có qui luật của văn bản lên người đọc. Bùi Minh Toán phân tích chỉ rõ vai trò của độc giả một cách toàn diện. Như vậy, từ những so sánh này, có thể khẳng định:

 Quá trình văn học được tạo thành từ quá trình sáng tác (của nhà văn) và quá trình tiếp nhận (của người đọc). Nó có tính liên tục, quan hệ chặt chẽ, không tách rời bởi hạt nhân – văn bản.

 Trung tâm của quá trình văn học là văn bản. Nhà văn tạo ra văn bản đồng nghĩa với việc sáng tạo những tín hiệu thấm mĩ, thực hiện quá trình kí mã (chuyển ngôn ngữ tự nhiên thành ngôn ngữ nghệ thuật). Đến lượt mình, độc giả thực hiện việc giải mã.

Ý đồ của nhà văn chỉ là một khả năng tồn tại của tác phẩm. Mỗi người đọc, bằng nền tảng văn hóa, tâm lí, trình độ thụ cảm riêng lại tạo ra vô vàn khả năng khác cho văn bản.

Xét ở góc độ này, văn bản có tính độc lập tương đối với nhà văn và bạn đọc. Cái trục của “con quay kì lạ” chính là những chỉ dẫn nghệ thuật thông qua hệ thống tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm.

 Đời sống của tác phẩm không phải tính bằng thời gian nhà văn thai nghén ra nó. Có những sản phẩm nghệ thuật mới ra đời đã chết yểu và mãi mãi không phục sinh vì thiếu vắng độc giả. Lại có những tác phẩm cổ xưa vẫn dồi dào sức sống nhờ quá trình thụ cảm còn tiếp tục.

Thực tế đời sống văn học cho thấy quan niệm của Sartre là hoàn toàn có lí.

Truyện Kiều – sản phẩm của “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” của Nguyễn Du khai sinh cách đây mấy nghìn năm vẫn còn mời gọi khám phá, tạo ra biết bao cách cảm nhận và tranh luận khác nhau. Nguyễn Du đã mất nhưng sinh mệnh nghệ thuật Truyện Kiều dường như bất tử. Mối thế hệ bạn đọc, với nền tảng văn hóa, tinh thần khác nhau lại giải mã tác phẩm theo một cách khác bằng một thái độ riêng.

Có thời, người ta đặt Truyện Kiều lên bàn cân tư tưởng phong kiến để đánh giá vị trí của tác phẩm. Dùng quan điểm xã hội học, áp đặt những yếu tố bên ngoài để nhận xét mà không căn cứ vào ngôn từ, mọi nhận định cơ hồ đều đi vào phiến diện, bế tắc.

GS Trần Đình Sử, dựa trên cơ sở ngôn ngữ học, phân tích các tín hiệu thẩm mĩ đã rút ra những luận điểm chính xác về Thi pháp Truyện Kiều, gợi mở cho chúng ta thấy cách tiếp cận trục trụ của “con quay kì lạ” chính là ngôn từ nghệ thuật.

Tính độc lập tương đối của văn bản khiến cho nhiều khi bạn đọc có thể phát hiện những nét mới ngoài ý đồ sáng tạo của nhà văn. Kim Lân từng bất ngờ khi trong kì thi ĐH, khối D, năm 2005, có một học sinh được điểm 10 khám phá ra một điều mà ông chưa bao giờ dụng công trong xây dựng phẩm chất anh cu Tràng (sự hiếu thảo với bà cụ Tứ). Người đọc từ một bộ mã mà nghệ sĩ đã kí gửi – văn bản có thể giải theo nhiều cách khác nhau, tạo ra những khả năng thụ cảm phong phú.

Sáng tạo văn học đồng nghĩa với việc thiết kế những tín hiệu thẩm mĩ. Đó là những chỉ dẫn nghệ thuật người đọc dù tạo ra bao nhiêu khả năng cho tác phẩm vẫn phải tụ phát từ trục quay này.

Chẳng hạn, tín hiệu thẩm mĩ “mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử) có thể hiểu là khuôn mặt của người con trai – tác giả hoặc khuôn mặt của người con gái soi qua trái tim nhớ thương da diết của thi sĩ. Dẫu hiểu theo cách nào cũng cần đặt trong hệ thống – nghĩa là gắn với văn cảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” để thấy được nét đẹp của con người Vĩ Dạ và niềm hoài mong đau đáu của Hàn Mạc Tử.

Tương tự như thế, cặp hình tượng “non – nước” ở “Thề non nước” của Tản Đà mang tính đa nghĩa: vừa là hai vật thể thiên nhiên với qui luật muôn đời, vừa là người con trai và người con gái nhớ thương trong xa cách, vừa là đất nước bị cắt chia đầy xa xót nhưng tất cả đều mang một trạng thái cảm xúc chung.

Hồ Chí Minh khi cầm bút đều đặt ra bốn câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào? Người đọc như vậy còn có vai trò chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn.

Văn bản thì duy nhất nhưng tác phẩm xét ở chừng mực nhất định là bất tận. Tác phẩm có thể chỉ được tạo ra trong một khắc, nhưng sinh mệnh của nó là bất tử (đối với các kiệt tác). Độc giả chính là thước đo giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Quan niệm hiện sinh của J.Paul.Sartre xét cho cùng đã đạt đến bản chất tồn tại của tác phẩm văn học.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân. 150 thuật ngữ văn học. NXB ĐHQG. 1998.

2. Đỗ Hữu Châu. Một số luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các tác phẩm văn học. Tạp chí ngôn ngữ, số 2, 1990.

3. Nguyễn Lai. Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học. NXB GD. 1996.

4. Phương Lựu. Lí luận văn học. NXBGD. 2003.

5. Khrap-chen-kô. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học. NXB Tp HCM. 1978

6. Jean-Paul Sartre - Nỗi đam mê làm người trong thế kỷ (nguồn: evan.com.vn)

7. Trần Đình Sử. Thi pháp Truyện Kiều. NXB GD. 2002

8. Nguyễn Thuỳ. Viết văn, Đọc văn: "Đối thoại với chính mình, với người" (nguồn: dactrung.net)

9. Bùi Minh Toán. Tập bài giảng chuyên đề Ngôn ngữ và văn học. 2009.
 

Ye Ye

Cây bút Truyện ngắn 2017|Thần tượng văn học
Hội viên CLB Ngôn từ
Thành viên
10 Tháng bảy 2017
2,064
2,347
434
Hà Nam
NEU (Dream)
Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng trước cách mạng tháng 8 - 1945
Đào Thị Lý
Nghiên cứu đặc điểm nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 giúp người đọc hiểu thêm về những nỗi bất hạnh của con người trong xã hội thực dân phong kiến (đặc biệt là nhân vật trẻ em).

Viết về những cảnh đời này Nguyên Hồng đã phản ánh một cách cụ thể, chi tiết từng mảnh đời, từng số phận để khái quát một cách toàn diện cuộc sống cơ cực, cay đắng của những trẻ em nghèo trong xã hội cũ. Đồng thời nhà văn cũng khẳng định bản chất lương thiện của con người, sự hướng thiện, tinh thần tương thân tương ái... của nhân vật trẻ em - Đó là một trong những lý do khiến cho tác phẩm của Nguyên Hồng bao giờ cũng thấm đậm một chủ nghĩa nhân đạo cao cả, bên cạnh một chủ nghĩa hiện thực mang đầy tính chất phê phán và phủ định xã hội đương thời.

Văn học Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX đến 1945 đã xuất hiện khá nhiều tác phẩm viết về số phận của trẻ em trong xã hội thực dân phong kiến như: Những ngày thơ ấu - Nguyên Hồng, Hai đứa trẻ - Thạch Lam, Sống nhờ - Mạnh Phú Tư, Tắt đèn - Ngô Tất Tố, Trẻ con không được ăn thịt chó - Nam Cao... Những tác phẩm trên đều thể hiện thái độ phê phán quyết liệt đối với xã hội đương thời và thể hiện tấm lòng thương yêu tha thiết đến trẻ thơ (những người đáng lẽ được nâng niu, yêu quý, bảo vệ) của các nhà văn giàu lòng nhân ái này. Tuy nhiên, viết nhiều và phản ánh một cách khá toàn diện và khái quát về số phận của trẻ em Việt Nam giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945 - thì phải kể đến những sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng. Nguyên Hồng đã viết về những sinh mệnh đáng thương này bằng chính những trải nghiệm đau đớn trong thời thơ ấu của mình nên có sức lay động lòng người sâu sắc.

Đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học đề cập đến vấn đề trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng như: Thạch Lam, Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Nguyễn Đăng Điệp...

Khi khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài trẻ em của Nguyên Hồng trước Cách mạng Tháng 8/1945 như: Những ngày thơ ấu, Giọt máu, Hai nhà nghề, Những mầm non, Đi, Hơi thở tàn, Mợ Du,... chúng tôi thường thấy nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng có đặc điểm: Là những đứa trẻ nghèo khổ, bất hạnh, không có tuổi thơ, bị xã hội đày đọa, tước đi những niềm vui, niềm hạnh phúc của mình; và đặc biệt là phải sống thiếu tình mẫu tử. Tuy vậy chúng vẫn là những đứa trẻ nhân hậu, luôn khao khát hạnh phúc gia đình, vượt lên những nỗi đắng cay, tủi nhục, đày đọa của cuộc đời để ước mơ có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những hình tượng nhân vật đặc biệt này dù được nhà văn khắc họa đậm nét hay thoáng qua đều tạo nên một sự thương cảm và một nỗi ám ảnh khôn nguôi đối với người đọc.

1. Những đứa trẻ nghèo khổ, bất hạnh không có tuổi thơ.

Các nhân vật trẻ em của Nguyên Hồng, hầu hết đều là những đứa trẻ con các gia đình lao động nghèo khổ luôn bị đói rách và phải làm đủ mọi nghề để tồn tại. Chúng không có quyền và không tự bảo vệ được mình trong xã hội đầy cạm bẫy, bất công và luôn bị lạm dụng sức lao động một cách tàn nhẫn, vô cùng thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Những ngày thơ ấu là một tập hồi ký ghi lại những năm tháng ấu thơ đầy tủi cực cay đắng của chú bé Hồng. Mồ côi cha từ năm 12 tuổi, mẹ đi bước nữa và thường phải đi làm ăn xa, cậu bé thiếu ăn thiếu mặc, thiếu sự chăm sóc của người thân sớm phải lăn lộn nơi đầu đường xó chợ... đánh đáo kiếm ăn, chung đụng với đủ hạng trẻ lang thang. Tuổi thơ cần biết bao tình thương yêu ấp ủ của gia đình, vậy mà chú bé đã sớm bị mồ côi cha, lại phải xa mẹ, phải chịu sự hắt hủi không chỉ của người đời, mà ngay ở chính những người thân trong gia đình của mình. Tâm hồn non nót dễ tổn thương của cậu đã từng run lên vì giận dữ trước sự bêu riếu xúc phạm người mẹ của cậu dưới miệng lưỡi của bà cô cay nghiệt, và tủi cho mình vì còn quá nhỏ nên không chống đỡ nổi sự xúc phạm ấy. Xa mẹ cậu da diết nhớ thương, và đau đớn vì không thể giãi bày tâm tư mình với người cha đã mất... Nhất là những khi đói lòng, khi trời rét, những lúc đơn côi... một mình trơ trọi trước giông bão của cuộc đời.

Những dòng hồi ký được chú bé Hồng ghi lại trong một sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại (Thạch Lam). Vì vậy, nó khơi gợi sự cảm thương sâu sắc, một niềm trắc ẩn sâu xa trong tâm hồn người đọc trước cảnh ngộ đau thương của nhân vật nhỏ tuổi này. Giáo sư Phong Lê đã xúc động viết: Tôi cứ ngẩn ngơ hoài trước một tuổi thơ sao mà cay cực đến thế, mà sao nhà văn có thể thành thực đến thế! Một sự thành thực đến tận cùng chi tiết khiến người đọc đến mà sững sờ, mà nổi gai nên trong tâm trí mà run rẩy đến từng cảm xúc [3;Tr.131]. Có lẽ, tác phẩm này trở nên xúc động đến vậy là do nhà văn đã lấy chính cuộc đời của mình cùng bao cảnh ngộ của những trẻ em khác xung quanh mình làm đối tượng phản ánh. Trong tập hồi ký này, ta còn gặp những đứa trẻ làm đủ mọi nghề nhỏ mọn khác như: Bán báo, bán xôi, đi ở, bế em hay nhặt bóng thuê, ăn mày, ăn cắp... ở khắp các ngõ hẻm, vườn hoa, cổng chợ, bến phà... Mỗi em một gương mặt, một cảnh ngộ, nhưng đều giống nhau ở cảnh đời lam lũ cơ cực, đói khát, bất hạnh. Chúng phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống, phụ giúp gia đình. Không những thế, các em còn bị xã hội, bị người đời lãnh đạm, hoặc bị chính những người thân của mình ngược đãi, hành hạ một cách tàn nhẫn như bé Hồng trong Những ngày thơ ấu, Thạo bé, Tý con, Tân trong Những mầm non, Nhân trong Hai nhà nghề...

Đã từng bị đẩy vào nhà tù thực dân từ khi còn là trẻ con, sống ở một nơi chỉ có thói tàn nhẫn, độc ác, nên không ít lần cậu bé Hồng từng phải ôm mặt khóc mỗi khi đi làm "cỏ vê" về, khóc ngay dưới gốc cây bên cạnh xe bò rác. Cậu "tù trẻ con" khóc vì thương thân mình và nhớ lại tuổi ấu thơ cay cực đầy nước mắt. Sẵn có một tâm hồn đặc biệt nhạy cảm với nỗi khổ của những thân phận bé nhỏ trong xã hội, nên nhà văn từng quặn đau khi phải chứng kiến cảnh: Mưa phùn tạnh từ hôm kia, nhưng gió rét càng thổi mạnh. Da thịt người nhức buốt vì khí lạnh. Con nhỏ của tù đàn bà khóc suốt đêm. Chúng khát sữa - sữa của mẹ chúng như cạn mất rồi [1 ,tr. 142]. Hay cảnh những ngày tết đến, khi mọi người được hưởng sự ấm cúng gia đình, thì những tù nhân trẻ con cùng với những bà mẹ tội nghiệp của chúng vẫn phải ở trong tù chịu sự đói khát, ốm yếu, bệnh tật (Tết của tù đàn bà)...

Trong xã hội thực dân phong kiến, những người phụ nữ phải làm việc cật lực, vắt kiệt mình ra để kiếm tiền nuôi gia đình, nuôi đàn con. Cuộc sống lam lũ kéo dài đã bòn rút sức lực của họ, đã làm cạn kiệt dòng sữa của họ nên họ nuôi con nhỏ mà không có sữa cho con bú, để đến nỗi đứa bé phải khát sữa, từ giã cõi đời trong sự đau đớn xé lòng của những người mẹ nghèo, bất lực như nhân vật Cúc trong truyện ngắn Trước xác chết. Hình ảnh những đứa con khát sữa, chết vì không có sữa; hình ảnh những bà mẹ nghèo đói, cạn kiệt sữa với những bộ ngực lép, khô ép tận xương, đau đớn, bất lực, phát điên, phát rồ vì không thể cho con sự sống - luôn là hình ảnh trăn trở, nhói buốt tận tâm can nhà văn. Ông đã từng thét lên, gào lên trong tác phẩm của mình những lời đau đớn: Phải đem sữa lại cho những bà mẹ nhiều con dại ở các nước chiến tranh tàn phá... Phải trả sữa lại cho những cái miệng bé nhỏ há rộng, lưỡi gần cứng đó, dưới những bầu vú lép... Người ta đương chờ đợi ở một thi sĩ một bài thơ, ở một nhà văn một trang truyện, kêu đòi sữa cho trẻ em [1; tr.187]. Đây là lời kêu gọi góp phần thức tỉnh những tấm lòng nhân ái thức tỉnh tinh thần đấu tranh cho cuộc sống của những trẻ em nghèo. Đồng thời đó còn là một tiếng kêu thống thiết cho kiếp người cùng khổ trong đó có số phận của trẻ em; là lời tố cáo đanh thép xã hội thực dân phong kiến đã cướp đi quyền được sống, được chăm sóc của trẻ em. Từ năm 1939 trở đi, do được hoạt động trong Đoàn thanh niên Dân chủ, sống trong tù và được tiếp xúc với nhiều chiến sĩ Cách mạng, Nguyên Hồng ngày càng có điều kiện tiếp nhận tư tưởng Cách mạng. Vì vậy, ông đã hiểu sâu hơn về sự áp bức bóc lột, về sự bất công trong xã hội thực dân phong kiến. Sẵn mối đồng cảm sâu sắc với những thân phận bé nhỏ trong xã hội, lại được giác ngộ Cách mạng, nên những vấn đề nhà văn đặt ra qua số phận các nhân vật trẻ em đã được nâng lên ở một tầm cao mới đó là: Phải cứu lấy tuổi thơ, cứu lấy những sinh linh vô tội; tất cả mọi người trong xã hội đều phải có trách nhiệm với trẻ em, bởi trẻ em chính là tương lai của dân tộc! Tiếng gọi khẩn thiết ấy vang lên qua từng tác phẩm của nhà văn. Đây là một nét khác biệt so với một số các nhà văn cùng khuynh hướng và cùng thời với Nguyên Hồng. Đây cũng là một đóng góp đáng quí của một nhà văn hiện thực sớm tìm đến với Cách mạng.

Trong sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám, ta cũng thường gặp những hình ảnh em bé bị xã hội và gia đình tước đi những niềm vui, niềm hạnh phúc của mình và đặc biệt là phải sống thiếu tình mẫu tử. Những hình tượng nhân vật trẻ em này ít nhiều đều mang bóng dáng của tác giả thời thơ ấu. Đó là những nhân vật như Thạo bé trong Giọt máu, Hồng trong Những ngày thơ ấu, Dũng trong Mợ Du... Tác phẩm Giọt máu là câu chuyện cảm động về một em bé gái nhà nghèo: Thạo bé. Cuộc sống tối tăm nặng nề đói rét, áp bức đã làm cho em có dáng vẻ len lét, sợ sệt, ngơ ngác ngay cả khi ăn uống hay vui chơi. Bố mẹ đi làm, Thạo bé đỡ đần cha mẹ bằng đủ mọi việc như: Quét nhà, rửa bát, trông em... Niềm vui duy nhất của cô bé là được chăm sóc hai luống ngô với mơ ước khi bẻ bắp bán đi sẽ dành dụm tiền mua gà nuôi, bán gà đi để tết may áo mới. Nhưng thành quả lao động của em bị mụ chủ nhà độc ác nhẫn tâm tước đoạt, để trừ nợ tiền nhà của bố mẹ em. Việc tước đi niềm hy vọng và niềm vui nhỏ bé của em đã khiến cho em tiếc nuối, đau xót đến ngơ ngẩn, đến thất thần... Tâm hồn Thạo đã bị tổn thương sâu sắc trước cách sử sự tàn nhẫn của mụ chủ nhà. Em sống như một cái bóng không hồn vậy: Cái bóng còm cõi thường thần mặt ra mà nhìn thiếp vào khoảng không, ngồi hàng giờ không nhúc nhích nhìn ra vườn [1; tr.385]. Người đọc nghẹn ngào, đau đớn cho thân phận những em bé nghèo, nhỏ nhoi, hiền như chiếc lá non, hoàn toàn không có khả năng tự vệ trước giông bão của cuộc đời. Không chỉ bị đối xử bất công ở trong gia đình, ngoài xã hội, mà còn ở ngay trong nhà trường của chế độ thực dân phong kiến - các em cũng bị ngược đãi một cách cực kỳ vô lý. Người thầy giáo trong truyện Những ngày thơ ấu đã đánh đập một cách tàn nhẫn cậu học trò Hồng chỉ vì ông ta lầm tưởng rằng Hồng đã cãi lại ông: Bốp! Chát! Bốp! Chát! Một cái tát đập mạnh vào mặt tôi bằng sức mạnh của một con thú dữ đương cuồng lên, lại một cái tát khác... rồi một cái tát khác. Hai bàn tay của thầy giáo vả vào mặt tôi chẳng kỳ mắt mũi, gò má thái dương... Thầy giáo liền giằng tôi ra và đưa những quả đấm nắm chắc vào mặt tôi... làm máu mũi chảy ròng ròng... ống chân mông đít sống lưng bả vai và hai cánh tay tôi như bị vặt ra từng miệng thịt bởi những đầu thước kẻ... Rắc! Cái thước kẻ quật lên rồi vọt xuống nền nhà [2; tr.245]. Như vậy, trong gia đình, các em bị người thân hắt hủi, đối xử một cách vô trách nhiệm, ở nhà trường các em cũng bị đánh đập dã man; ngoài xã hội thì bị đày đọa, bị lạm dụng sức lao động một cách tàn nhẫn. Trước những nghịch cảnh ấy, trẻ em không tự bảo vệ được mình, chỉ còn biết chống đỡ bằng cách... khóc. Qua những cảnh tượng này Nguyên Hồng đã vạch trần ra những "vết thương xã hội" đã khiến trẻ em phải chịu nhiều tai ương, đau dớn, phải chịu bao uất ức vì bị xúc phạm cả về thể xác lẫn tinh thần. Nguyên Hồng đã hòa nỗi đau đớn ấy vào từng trang viết. Chúng như những mầm cây hoang dã, tự lớn lên trong giông bão mưa gió dập vùi. Số phận đáng thương ấy đã được nhà văn miêu tả rất sinh động, đa dạng và sắc nét, gợi nỗi niềm thương cảm và nỗi xót xa với người đọc. Và cũng chính qua những số phận bé nhỏ đáng thương này, nhà văn cũng thể hiện với tấm lòng yêu thương sâu sắc, tinh thần nhân đạo cao cả của ông.

2. Những đứa trẻ luôn khao khát hạnh phúc gia đình, giàu mơ ước và lòng nhân hậu

Như trên đã nói, nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám hầu hết là những em bé nghèo khổ, không có tuổi thơ, không có hạnh phúc nên các em đều khao khát một mái ấm gia đình một cuộc sống tốt đẹp hơn thực tại. Nhưng cuộc sống tối tăm với những hủ tục phong kiến nặng nề đã khiến không biết bao nhiêu gia đình tan nát như gia đình của nhân vật bé Hồng (Những ngày thơ ấu), bé Dũng (Mợ Du), hoặc là cảnh gia đình nhà mụ Đen (Bố con lão Đen), gia đình nhà ụ Mão (Người mẹ không con)... càng khiến các em khát thèm thêm cảnh hạnh phúc gia đình - nhưng nỗi khát thèm đó luôn chỉ là mơ ước xa vời đối với các em mà thôi!

Nhân vật cậu bé Hồng trong tập hồi ký Những ngày thơ ấu hoặc nhân vật bé Dũng trong truyện ngắn Mợ Du đã phải sống trong cảnh chia lìa tình mẫu tử. Năm tháng thơ ấu phải xa mẹ, lăn lộn trong trường đời với biết bao oan trái cay nghiệt khiến bé Hồng càng khát khao hơn một mái ấm gia đình có sự âu yếm của người mẹ. Nỗi khát khao tình mẹ luôn cháy bỏng trong lòng cậu bé dễ tủi thân và đa cảm ấy. Vì vậy, cậu rất hạnh phúc khi gặp lại người mẹ hiền từ sau bao ngày tháng đằng đẵng xa cách: Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Nơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra thơm tho lạ thường [2; tr.272]. Sự phản ánh hiện thực này của Nguyên Hồng làm người ta nhớ đến Thời thơ ấu của M. Gorki; Không gia đình của Hecto Malo... Điểm gần gũi tương đồng của những tác phẩm này là đã phản ánh chân thực cuộc sống nhọc nhằn đau khổ của trẻ em khi bị gạt ra khỏi đời sống gia đình, bị xã hội đối xử một cách bất công, tàn bạo. Nhưng dù bị đày đọa, vùi dập đến đâu thì chúng vẫn là những đứa trẻ nhân hậu, giàu lòng tương thân tương ái, như Điều trong Con chó vàng, Nhân trong Hai nhà nghề, An trong Mợ Du... Chúng biết đùm bọc và chia sẻ đau buồn với những người cùng cảnh ngộ, biết xót xa, thông cảm với nỗi đau khổ của đồng loại.... Ví dụ như nhân vật Điều trong truyện ngắn Con chó vàng. Sau bao ngày Điều rình rập để ăn cắp túi tiền của ông lão ăn mày bị mù mà không được, vì bên cạnh ông lão có con chó vàng rất tinh khôn, luôn dắt ông lão đi ăn mày và luôn báo động cho lão mỗi khi có chuyện gì nguy hiểm. Điều và Tý Sáu đã bỏ bả để giết con chó vàng. Vậy mà, khi lấy được tiền rồi, nhìn thấy cảnh ông lão vật vã bên xác con chó, lương tâm Điều chợt thức tỉnh, day dứt, ngay lập tức em đã giằng lấy cái bị và ném trả vào lòng ông lão và Điều ôm lấy mặt, lắc lắc đầu nói - Con chó ấy chết thì ông lão chết mất ông lão chết mất! Tội nghiệp ông lão. Tội nghiệp cho ông lão! [1; tr.107]. Hành động của Điều chứng tỏ bản chất lương thiện trong tâm hồn em không hề mất đi dù cuộc sống xô đẩy em vào tình trạng bị lưu manh hoá. Trong sâu thẳm tâm hồn các em, ánh sáng của lương thiện, của tình thương đối với người cùng cảnh ngộ vẫn bừng sáng, khiến người đọc cảm động và vẫn tin vào bản chất tốt đẹp của con người; Hoặc nhân vật em Nhân trong Hai nhà nghề đã quên cả hoàn cảnh đói khát của riêng mình mà thương cảm cho cậu bé múa dao người Tàu đang trổ tài múa dao nguy hiểm cho người xem để mong xin được chút tiền sống qua ngày mà không được, bởi những người đứng xem kia chỉ có thể xem không và ngượng nghịu rút lui [4; tr.103]. Tình thương xót đến người cùng cảnh ngộ của Nhân thật đáng quí, đó là tình cảm Thương người như thể thương thân - vốn là nét đẹp truyền thống đạo lí của người Việt Nam - kể cả với những người nghèo đói nhất. Tình thương vượt qua mọi khoảng cách về biên giới, về dân tộc ấy của nhân vật thật đáng trân trọng biết bao. Bản chất tốt đẹp, sự hướng thiện của trẻ em luôn được nhà văn khẳng định trong sáng tác của mình là bài học sâu sắc cho người lớn. Bởi trong cái xã hội chỉ có đồng tiền ngự trị ấy thì có những người lớn đôi khi cũng lạnh lùng ích kỉ, không có những hành động bênh vực trẻ em, để chúng phải tự bảo vệ mình, tự bênh vực nhau, thương yêu, giúp đỡ đùm bọc nhau trước những khó khăn. Viết về đề tài này, Nguyên Hồng đang đau đáu một sự trăn trở: Làm thế nào cho cuộc sống của các em có thể tốt hơn? Làm sao những ước mơ của các em có thể trở thành hiện thực? Ngày nay chúng ta nói nhiều đến việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em, nhưng trước chúng ta hơn nửa thế kỉ, Nguyên Hồng đã thức tỉnh điều này. Lời kêu gọi hãy cứu lấy trẻ em, hãy bảo vệ quyền sống của trẻ em, luôn toát ra từ tác phẩm của ông.

Đó là một trong những lý do khiến cho tác phẩm của Nguyên Hồng bao giờ cũng thấm đẫm một tinh thần nhân đạo cao cả, bên cạnh một tinh thần phê phán sâu sắc, quyết liệt xã hội thực dân phong kiến đương thời.

Nguồn: vietvan.vn
 

Ye Ye

Cây bút Truyện ngắn 2017|Thần tượng văn học
Hội viên CLB Ngôn từ
Thành viên
10 Tháng bảy 2017
2,064
2,347
434
Hà Nam
NEU (Dream)
Part 1

ĐỌC TIỂU THANH KÍ-TƯ LIỆU VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU

Bài Độc Tiểu Thanh kí được dịch và in bằng chữ quốc ngữ khá sớm, nhưng phải đợi đến khi soạn giả sách giáo khoa đưa vào Văn 10 thì giới nghiên cứu mới thực sự chú ý tới và tạo thành cuộc tranh luận khá sôi nổi, kéo dài ngót 5 năm, sau đấy tạm lắng xuống và cho tới nay vẫn còn nhiều điều cần bàn, nhất là những vấn đề về tư liệu và hướng nghiên cứu. Đấy cũng là mục đích của bài viết này.

Có lẽ người đầu tiên châm ngòi cho cuộc tranh luận bài Độc Tiểu Thanh kí là Ts. Nguyễn Danh Đạt. Ông cho rằng, bản dịch nghĩa và dịch thơ bài Độc Tiểu Thanh kí in trong Văn 10 “là chưa ổn” và đưa ra cách dịch mới của mình. Chủ biên Văn 10 - GS. Nguyễn Đình Chú trả lời. Theo Giáo sư, muốn dịch một cách chính xác bài thơ, phải hiểu đúng hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và nguyên nhân dẫn đến cách hiểu khác nhau “là do hiểu về hoàn cảnh sáng tác bài thơ khác nhau". Trên cơ sở định hướng đó, Giáo sư khẳng định: Bài Độc Tiểu Thanh kí được viết khi Nguyễn Du còn ở nhà chưa đi sứ. Tiếp theo, các học giả Trần Đình Sử, Đào Thái Tôn, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Phi... lần lượt viết bài trao đổi. Để trình bày cách hiểu nội dung bài thơ, trong trao đổi, các vị đi theo hai hướng:

Một là, xác định thời điểm ra đời bài Độc Tiểu Thanh kí.

Hai là, truy tìm tư liệu liên quan tới Tiểu Thanh.

Về thời điểm bài thơ ra đời, các nhà nghiên cứu đã đưa ra kết luận ngược chiều nhau. Một số tán thành ý kiến cùa các cụ Bùi Kỉ, Đào Duy Anh... trước đây; cho rằng, Độc Tiểu Thanh kí được viết vào thời kì Nguyễn Du đi sứ Trung Hoa như Nguyễn Danh Đạt, Trần Đình Sử... Số khác chẳng hạn Nguyễn Lộc, Nguyễn Đình Chú... thì đồng tình với Trương chính: Độc Tiểu Thanh kí “không phải làm khi nhà thơ đi qua mộ Tiểu Thanh ở Hàng Châu, mà làm khi còn ở nhà’. Mỗi người đều đưa ra lí lẽ của mình và lí lẽ nào cũng có sức thuyết phục riêng. Tuy vậy, cũng có người muốn dung hòa rằng, “có thể Nguyễn Du đã viết bài thơ này trong thời kì đi sứ”.

Hướng truy tìm tư liệu về Tiểu Thanh, gồm Nguyễn Quảng Tuân, Trần Đình Sử, Nguyên khắc Phi... Các ông đã lần lượt công bố Tiểu Thanh truyện trong thư tịch cổ Trung Hoa như Nữ Liêu trai chí dị Ngu Sơ tân chí Tình sử. Tuy nhiên, các ông mới tìm thấy Tiểu Thanh truyện. Thế thì, có cái gọi là Tiểu Thanh kí không? Hoặc giả, Tiểu Thanh kí là Tiểu Thanh truyện như có nhà nghiên cứu đã phỏng đoán?

Để giải quyết những vấn đề trên, chứng tôi nghĩ, trước hết cần biết Tiểu Thanh là ai; sau nữa phải truy tìm những tư liệu viết về Tiểu Thanh có liên quan đến các câu thơ Nguyễn Du. Những tư liệu tìm được sẽ cho ta lời giải đáp.

Bây giờ xin lần lượt trình bày từng vấn đề theo tư liệu chúng tôi đã có.

I/ Tam bách dư niên

1. Để tìm ẩn số 300 năm, vấn đề đầu tiên cần biết: Tiểu Thanh là ai?

Nói chung, trong các thư tịch của mình, người Trung Hoa viết về Tiểu Thanh khá thống nhất. Chỉ có điều, họ chưa thật nhất trí trong việc, nên xếp Tiểu Thanh theo họ hay theo tên trong từ điển. Chẳng hạn, cùng một bộ Từ Hải nhưng sách do Trung Hoa Thư cục xuất bản thì xếp Tiểu Thanh vào từ mục ‘Tiểu Thanh”, tra chữ tiểu 3 nét; còn sách do Thượng Hải Từ thư xã xuất bản lại đặt vào từ mục “Phùng Tiểu Thanh”, tra chữ phùng 12 nét. Lấy chữ “Phùng” hay chữ ‘Tiểu” làm đầu mục từ, đều thể hiện quan điểm về phụ nữ của các soạn giả. Khi tôn trọng ai đó, người Trung Hoa thường dùng họ để gọi, khi bình thường thì chỉ gọi tên là đủ. Vì lẽ đó, cuốn từ điển do Thượng Hải Từ thư xã in năm 1989, các soạn giả lấy chữ “Phùng” làm đầu mục từ để tra. Bởi không lưu ý tới đặc điểm này nên, khi tra "Tiểu” trong từ mục "Tiểu Thanh” ở Từ Hải của Thượng Hải Từ thư xã không thấy, có nhà nghiên cứu đã hốt hoảng thốt lên rằng khi tái bản, “cuốn Từ Hải mới (Thượng Hải Từ thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1989) mục "Tiểu Thanh” đã bị lược bỏ”. Thực ra, họ đâu có “lược bỏ”! Chỉ tại, sách thì lấy tên, sách thì dùng họ làm đầu mục cho từ điển mà thôi.

Về cuộc đời Phùng Tiểu Thanh, thoạt đọc, ta cũng thấy hiện tượng dường như mâu thuẫn. Chẳng hạn, Trung Hoa Thư cục ghi, Tiểu Thanh là “tên người con gái ở Giang Đô, thời Minh... giỏi thơ từ, biết âm luật. Bởi vợ cả không dung, dời đến ở nhà riêng tại Cô Sơn; có người bà con là Dương phu nhân thương xót, nói bóng gió khuyên đi lấy chồng khác nhưng không nghe, buồn đau thành bệnh; sai họa sư vẽ ảnh mình, tự tế rồi chết, năm chỉ mới 18 tuổi; chôn ở Cô Sơn, Tây Hồ. Có người họ hàng thu thập thơ từ của nàng, khắc in thành Phần dư cảo. Vở tạp kịch Xuân ba ảnh của Từ Hối thời Minh là lấy từ câu chuyện về Tiểu Thanh mà phổ ra”. Thượng Hải Từ thư xã lại viết: Phùng Tiểu Thanh là “nhân vật trong truyện văn học. Tương truyền, nhà ở Dương Châu, giỏi thơ, tài họa. Năm 16 tuổi lấy con trai họ Phùng làm thiếp. Bị người vợ cả ghen tuông, đưa ra an trí tại Phật Xá, Cô Sơn do một ni cô cai quản, tinh thần đau khổ, uất ức mà chết. Vở kịch truyền kì Liệu đố canh của Ngô Bính thời Minh đã lấy sự kiện này làm đề tài”. Tuy viết có vẻ khác nhau như vậy, nhưng thực ra, họ đâu có mâu thuẫn. Chỉ vì, Trung Hoa Thư cục dựa vào cuộc đời thực của Tiểu Thanh để biên soạn, còn Thượng Hải Từ thư xã lại dựa vào tác phẩm văn học để viết về Tiểu Thanh. Ngay cả thời điểm Tiểu Thanh sống, họ viết cũng có vẻ khác nhau, song thực chất vẫn thống nhất. Chẳng hạn, Từ Hải nói, Tiểu Thanh người thời Minh; Từ Nguyên bản in năm 1988 bảo người thời Minh Mạt; còn Từ nguyên bản in năm 1938 và Trung Quốc nhân danh đại từ điển lại viết, nàng người thời Thanh Sơ... Bảo Tiểu Thanh người thời Minh, thời Minh Mạt hoặc Thanh Sơ đều đúng cả, vì mỗi sách lấy từ một nguồn khác nhau. Hơn nữa, trong văn chương, người viết thường dùng con số ước lượng.

2. Liên quan đến Tiểu Thanh là ai, có vấn đề mộ Tiểu Thanh.

Về mộ Tiểu Thanh thì, 3 trong 5 bộ từ điển là Từ nguyên (bản in năm 1938 và năm 1988) và Trung Quốc nhân danh đại từ điển đều khẳng định: Nay ở Cô Sơn, Tây Hồ có mộ Tiểu Thanh. Trong ba tư liệu trên, đáng chú ý nhất vẫn là Trung Quốc nhân danh đại từ điển, một loại sách công cụ chỉ dẫn tên người Trung Hoa có thật, đã thừa nhận: “nay ở Cô Sơn Tây Hồ Hàng Châu có mộ Tiểu Thanh”.

Vậy, hiện nay ở Cô Sơn, Tây Hồ có mộ Tiểu Thanh không? Rất may là, gần đây trên một trang Web của mạng Dương Châu (Trung Hoa), mục Dương Châu mĩ nữ (năm 2004) có đưa tin về Tiểu Thanh và hai bức ảnh: mộ Tiểu Thanh (ảnh này cách đây hơn 70 năm, Phan Quang Đán cũng đã công bố) và ảnh màu cảnh Cô Sơn bên hồ Tây Tử. Nhấn mạnh vấn đề này, chúng tôi không nhằm mục đích khẳng định hoặc phủ định Tiểu Thanh là người có thật hay không có thật. Chỉ biết, Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh kí và người Trung Hoa có ảnh mộ Tiểu Thanh. Vấn đề chúng ta cần là thời điểm Tiểu Thanh hiện diện trên đời vì liên quan tới câu “tam bách dư niên” trong thơ của Nguyễn Du.

Thực ra, vấn đề Phùng Tiểu Thanh diễn ra tương tự hiện tượng Vương Thúy Kiều. Thoạt đầu, nàng là người có thật, sau đấy, các văn nhân tài sĩ đua nhau tiểu thuyết hóa để thành các câu chuyện khác nhau.


Nguồn: nguyendu.vn
 
Last edited:
  • Like
Reactions: Hạ Di

Ye Ye

Cây bút Truyện ngắn 2017|Thần tượng văn học
Hội viên CLB Ngôn từ
Thành viên
10 Tháng bảy 2017
2,064
2,347
434
Hà Nam
NEU (Dream)
Part 2.


3. Thời điểm Tiểu Thanh hiện diện trên thế gian này.

Có lẽ do mới tìm thấy Tiểu Thanh truyện, nên chúng ta lúng túng khi lí giải thời gian hơn 300 năm. Tính từ bao giờ để đến Nguyễn Du (1765-1820) được 300 năm? Ngu Sơ tân chí thì nói, Tiểu Thanh mất năm Nhâm Tí niên hiệu Vạn Lịch 1612. Xin lưu ý, chỉ có sách Ngu Sơ tân chí nói thời điểm Tiểu Thanh qua đời, các tài liệu khác như Tình sử, Nữ Liêu trai chí dị và một số tài liệu chúng tôi mới sưu tầm không đề cập tới vấn đề này. Dù tính toán bằng cách nào thì, từ năm Tiểu Thanh mất (theo Ngu Sơ tân chí) 1612, hoặc năm Tiểu Thanh sinh 1595 đến thời điểm Nguyễn Du ra đời 1765, hoặc Nguyễn Du đi sứ 1813, thậm chí tới lúc Nguyễn Du mất 1820 cũng chỉ được 225 năm (1820 - 1595 = 225) huống chi lại “hơn 300 năm”! Song, tài liệu Dương Châu mĩ nữ sẽ giúp ta giải đáp phần nào nghi vấn này.

Để giới thiệu các mĩ nữ nổi tiếng thời Minh của Trung Hoa, trong mục “Bi kịch thảm thương của Phùng Tiểu Thanh - đại diện cho các cô gái đẹp ở Dương Châu” địa chỉ www.yzmn.cn, tác giả viết: “Bên Tây Hồ ở Hàng Châu có hai ngôi mộ mĩ nhân thường khiến du khách phải buồn đau than thở. Thứ nhất là ngôi mộ cô đơn của Tô Tiểu Tiểu, một thi sĩ - danh kĩ nổi tiếng thời Nam Tề, nằm tại bờ tây Lãnh Kiều; ngôi thứ hai là mộ Phùng Tiểu Thanh, một oán nữ thời Minh Sơ, nằm yên tĩnh đã lâu trong khu rừng mai dưới chân núi Cô Sơn. Hai ngôi mộ cô quạnh cỏ xanh phủ kín khiến cho bờ hồ Tây Tử tăng thêm vẻ đẹp đượm buồn. Người tới đây tưởng niệm, không khỏi hồi tưởng đến câu chuyện thê lương của hai giai nhân bạc mệnh”.

Đoạn văn trên nói rõ, Tiểu Thanh sống thời Minh Sơ, mộ hiện ở Tây Hồ. Chẳng những thế, tác giả còn kể tỉ mĩ thân phận nàng:

“Phùng Tiểu Thanh vốn là con gái nhà thế gia ở Quảng Lăng. Trước đây, vị tổ của nàng từng theo Chu Nguyên Chương nam chinh bắc phạt, có công trong việc dựng nên giang sơn nhà Đại Minh. Sau khi nhà Minh định đô ở Nam Kinh, gia tộc họ Phùng được hưởng quan cao, lộc hậu. Đến đời phụ thân Phùng Tiểu Thanh, ông được thụ phong làm Thái thú Quảng Lăng.

Thuở ấu thơ, Phùng Tiểu Thanh sống trong phủ Thái thú ở Quảng Lăng. Đó là những ngày có thể nói rằng, vàng son chói lọi, áo gấm xênh xang, kẻ hầu người hạ tấp nập. Từ nhỏ, Phùng Tiểu Thanh đã xinh đẹp đoan trang, thông minh linh lợi, rất được yêu chiều”.

Về gia thế thân mẫu Phùng Tiểu Thanh, tác giả kể: “Mẹ nàng cũng là một khuê tú, xuất thân từ gia đình đại gia, giỏi văn chương, thạo đàn phách và chỉ có một cô con gái cưng như báu vật là Phùng Tiểu Thanh. Từ nhỏ, Tiểu Thanh đã được gia đình quan tâm dậy dỗ, mong sau này trở thành tiểu thư tài mạo xuất chúng”.

Thời thơ ấu của Tiểu Thanh như vậy. Nhưng rồi, một biến cố trọng đại bất ngờ ập xuống gia đình nàng. Tác giả kể tiếp: “Nhưng ai hay, trời có gió mây bất trắc; người có phúc họa khôn lường. Năm Kiến Văn thứ tư, Yên vương Chu Đệ mượn danh nghĩa “dẹp nạn” đã đoạt lấy ngôi vua của Kiến Văn đế. Khi Chu Đệ tiến quân vào Nam Kinh, thân phụ Phùng Tiểu Thanh bấy giờ đang là bề tôi của Kiến Văn đế nên đem quân cương quyết chặn lại. Sau khi Chu Đệ lấy được thiên hạ, Phùng gia tự nhiên trở thành ma không đầu dưới lưỡi dao của vị vua mới này và bị giết cả nhà. Lúc đó Phùng Tiểu Thanh vừa tuổi cập kê, lại đúng dịp đang theo một người bà con là Dương phu nhân ở nơi xa, nên may mà thoát nạn. Trong cảnh hỗn loạn ấy, nàng theo Dương phu nhân chạy đến Hàng Châu”.

Kiến Văn là niên hiệu của Chu Huệ đế nhà Minh, lên ngôi năm Kỉ Mão 1399. Như vậy, năm thứ tư sẽ là năm Nhâm Ngọ 1402. Vào thời điểm ấy, Tiểu Thanh đang tuổi cập kê, nghĩa là 14 hoặc 15 tuổi. Nàng mất ở tuổi 18, nghĩa là ba bốn năm sau, khoảng 1405-1406. Nếu tính từ 1405-1406 đến năm Nguyễn Du ra đời 1765 thì sấp sĩ 360 niên, còn tính đến năm vua Gia Long lên ngôi 1802 thì phải hai 3 năm nữa mới đủ 400 năm và nếu tính đến năm Nguyễn Du đi sứ 1813 thì đã 407-408 năm. Điều này có lẽ cho thấy, Nguyễn Du viết Độc Tiểu Thanh kí trước khi vua Nguyễn Gia Long lên ngôi, thậm chí viết rất sớm, trước khi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc năm 1786. Có điều rất lạ là, khi biên soạn Thơ chữ Hán Nguyễn Du, chẳng hẹn mà nên, cả hai nhà khoa học, ông Trương Chính và Đào Duy Anh đều khẳng định, Tiểu Thanh “sống vào đầu đời Minh”, đúng với tài liệu Dương Châu mĩ nữ. Hoặc giả, hai ông Trương - Đào đã được đọc tài liệu mà sau này mạng Dương Châu công bố chăng? Tiếc rằng, hai ông và cả tác giả Dương Châu mĩ nữ không cho biết xuất xứ tư liệu các vị đã dùng. Dựa vào tài liệu mạng Dương Châu mới công bố gần đây và chú thích của hai ông Trương - Đào, ta có thể coi như bước đầu đã giải quyết xong câu “bất tri tam bách dư niên hậu” và cũng có thể coi như giải đáp một phần vấn đề thời điểm Nguyễn Du viết Độc Tiểu Thanh kí. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cũng không nên chỉ hiểu “tam bách dư niên” là thời điểm tính từ Tiểu Thanh qua đời đến Nguyễn Du đọc Tiểu Thanh kí. Ngoài nghĩa chủ yếu ấy ra, có lẽ Nguyên Du còn muốn đề cập tới nghĩa thứ hai: chu kì vòng đời của một con người. Xin đưa ra để tham khảo thêm.

Cổ nhân cho rằng, giới hạn đời người là trăm năm. Vì vậy, khái số “trăm năm” được dùng để tính một kiếp. Triết học phương Đông cổ đại lại quan niệm, vòng đời con người gồm 3 kiếp (cũng gọi là “tam sinh” hoặc “tam thế'’). Bởi vậy, “tam bách niên” cũng đồng nghĩa với một vòng đời. Sau khi hết một vòng đời 300 năm của mình, biết hậu thế có ai khóc Tố Như? Đấy có thể là ý nghĩa thứ hai của câu thơ: Bất tri tam bách dư niên hậu... Vả chăng, trong văn học, người trung đại thường dùng con số theo kiểu ước lượng, chứ không làm phép tính cộng trừ chuẩn xác như chúng ta ngày nay.

Nguồn: nguyendu.vn
 
  • Like
Reactions: Hạ Di

Ye Ye

Cây bút Truyện ngắn 2017|Thần tượng văn học
Hội viên CLB Ngôn từ
Thành viên
10 Tháng bảy 2017
2,064
2,347
434
Hà Nam
NEU (Dream)
Part 3

II/ Cổ kim hận sự... Phong vận kì oan...

“Hận sự” ở đây là gì? Tiểu Thanh bị oan tới mức nào khiến Nguyễn Du gọi là “kì oan”? “Phong vận kì oan..đi liền với “cổ kim hận sự..thành một cặp, không thể tách rời. Tình sử, Ngu Sơ tân chí và kể cả Nữ Liêu trai chí dị chưa phản ánh được cái gọi là “hận sự” và “kì oan” của Tiểu Thanh. Nhưng thiên 14 Di tích về nỗi hận ở gò mai trong Tây Hồ giai thoại đã chỉ rõ điều này.

Sau khi kể xong cuộc đời Phùng Tiểu Thanh, Cổ Ngô Mặc lãng tử kết luận: “Kẻ có lòng liên tài, phần lớn coi việc Tiểu Thanh buồn uất mà chết là nỗi hận. Ta thì không nghĩ vậy. Giá như Phùng sinh không sợ tên đố phu kia và vợ Phùng sinh không đố kị Tiểu Thanh, thì chẳng qua Tiểu Thanh chỉ là kẻ thê thiếp tham ân trộm ái, nhận sự sủng phúc tầm thường, dù tên tuổi có mĩ miều thì trong khoảnh khắc cũng tan biến, sao có thể trăm năm sau vẫn khiến văn nhân tài sĩ, mỗi khi qua ngôi nhà riêng ở Cô Sơn, điếu tưởng ánh tịch dương rực rỡ nơi núi chiều, nhớ tới Tiểu Thanh phong lưu như đang còn?

Than ôi! Điều mà trời kia không nhất thời thành tựu cho Tiểu Thanh lại chính là để thành tựu cho nàng ngàn năm !Sao lại có hận?".

Đấy là cách nói của Mặc lãng tử. Nếu không coi cuộc đời của Tiểu Thanh là một nỗi hận lớn, hà cớ tác giả lại đặt nhan đề Mai tự hận tích - (Di tích về nỗi hận ở gò mai) cho câu chuyện về Tiểu Thanh, mà không đặt Tiểu Thanh truyện như Trương Triều trong Ngu Sơ tân chí, như Phùng Mộng Long trong Tình sử ? Hơn nữa, mở đầu câu chuyện, Mặc lãng từ còn đặt câu hỏi: "Tây Hồ là đất ăn chơi. Hoa đua cười, chim tìm bạn. Xuân qua, thu lại, bốn mùa đều làm người ta vui vẻ. Vậy sao lại có nỗi hận?" Từ nhan đề, đến phần mở đầu, phần kết thúc câu chuyện, Mặc lãng tử đều tập trung vào một chữ hận. Chữ hận được khắc sâu bởi một kì oan. Nỗi kì oan của Tiểu Thanh bắt đầu xẩy ra năm nàng 16 tuổi khi cùng Phùng sinh kết duyên. Phùng sinh là đầu mối mọi nỗi oan nghiệt của Tiểu Thanh và chính nàng cũng gọi chàng là “oan nghiệp phu”.

Mặc lãng tử kể: “Phùng sinh là một công tử giàu có ở Tây Hồ. Tính chàng hám sắc, nhưng bị người vợ hay ghen giàng giữ, nên chẳng thể ho he gì được. Về sau, nhờ nhiều lần khẩn cầu thống thiết, vợ chấp nhận cho cưới thiếp, nhưng không cho lấy người ở gần, vì sợ những kẻ đó có quan hệ bất chính với chàng từ trước; lệnh phải lấy ở nơi xa, tận Duy Dương và hẹn vừa đi vừa về chỉ trong vòng nửa tháng, nếu quá hạn sẽ không cho người thiếp kia bước chân vào cửa. Ý của cô ta là, do thời hạn gấp gáp chắc gì chàng tìm được người; mà nếu tìm được chăng nữa, vị tất có người đẹp”. Hơn nữa, cô còn nghĩ: “con gái Duy Dương phần nhiều bị các trường quan lấy hết rồi; nếu còn, thì cũng chỉ là loại thê thiếp tầm thường”. Nhưng cô biết đâu, số trời đã định, chồng cô lại gặp mĩ nữ Phùng Tiểu Thanh sắc tài toàn vẹn. Khi Tiểu Thanh xuất hiện, dù nàng “đã phải cúi đầu hạ dọng cung kính không dám lộ một chút phong lưu, vậy mà phong thái kiều diễm tự nhiên của Tiểu Thanh càng giấu, lại càng rực rỡ” khiến lòng đố kị của vợ Phùng trở nên uất kết. Cô ta "thấy Tiểu Thanh hạ mình, càng ngờ rằng, nàng có thâm ý gì, nên luôn luôn theo sát, không để cho chồng có thể cười nói riêng với nàng một lời”. Để ra oai, trước tiên cô thu vứt hết son phấn do Tiểu Thanh mang về, rồi đốt sạch sách vở Tiểu Thanh đem theo, sau đó cấm cố nàng trong phòng, không cho giao thiệp với bất cứ một ai dù chỉ nửa lời. Kể tới đây, Mặc lãng tử đã mỉa mai: “Đúng là cái gọi, “yêu thương bánh vẽ, tình lang trong tranh”! Đến như muốn làm Ngưu Lang - Chúc Nữ mỗi năm gặp nhau một lần cũng không thể”.

Đây mới là khúc dạo đầu cho bản trường hận ca Phùng Tiểu Thanh. Những chi tiết chúng tôi vừa nêu trên đều không có trong Tình sử và trong Ngu Sơ tân chí.

Một lần, vợ Phùng sinh đi dâng hương tại chùa Thiên Trúc, sợ Tiểu Thanh ở nhà sẽ lén lút gặp chồng nên bắt cô đi theo. Lúc về tới nhà, hai người gặp Phùng sinh đang đợi trong phòng. Trông thấy chồng, Tiểu Thanh e ngại tránh mặt. Ta hãy xem vợ Phùng sinh phản ứng ra sao? Cô lên dọng phán: “Đây là nhà của ta, không phải nơi để ngươi tránh mặt; đây là phòng ở của ta, lại cũng chẳng phải nơi để ngươi có mặt. Có mặt hay tránh măt đều không thể”. Chi tiết này cũng không có trong Tình sử và trong Ngu Sơ tân chí. Sau đó, cô đưa Tiểu Thanh đến ngôi nhà riêng tại gò mai núi Cô Sơn cho ở một mình và lệnh: "Ta có ba điều pháp quy ngươi phải tuân thủ là: chưa có lệnh ta mà chàng đến, không được gặp mặt; chưa được lệnh ta mà có thư từ chàng gửi đến, không được mở xem; ngươi có viết thư từ, phải đưa ta đọc, không được tự ý thư từ với người khác. Nếu có chút gì sai phạm, quyết chẳng nương nhẹ!”.

Cứ như vậy, vợ Phùng sinh từng bước dồn Tiểu Thanh đến chỗ chết: ban đầu, vứt hết phấn son, đốt sạch sách vở, cấm cố không cho giao tiếp với bất cứ ai kể cả chồng. Tiểu Thanh muốn như vợ chồng Ngâu mỗi năm gặp nhau một lần cũng không xong. Tiếp theo, sự có mặt hay tránh mặt của Tiểu Thanh đều không nơi. Rồi, tống nàng ra ngôi nhà riêng dưới chân núi Cô Sơn bắt ở một mình với ba điều pháp quy cấm ngặt không cho giao thiệp với đời. Như vậy khác nào chặt hết đường sống của nàng? Đến đỗi, nơi Cô Sơn “tuy cảnh núi sông tươi đẹp, (Tiểu Thanh) cũng không dám hé cửa sổ ngắm nhìn”. Nỗi cô đơn uất hận khiến Tiểu Thanh thành bệnh mà qua đời. Một chi tiết trong Tiểu Thanh truyện cũng như trong Mai tự hận tích đều có nhưng dường như ít được chú ý là, khi Phùng sinh mở màn nhìn Tiểu Thanh lúc biết tin nàng đã qua đời. Mặc lãng tử viết: “Chiều xuống, Phùng sinh lật đật chạy tới, mở màn ra nhìn, thấy Tiểu Thanh dung quang tươi đẹp, áo quần sạch tươm như thuở sinh thời chưa bị ốm, nhưng chẳng còn nói cười nữa, không nén nổi tiếng kêu bi ai, giẫy chân, hộc máu ra đến hơn một đấu”. Khi bị chết oan, gặp thân nhân như chồng con, bố mẹ..., người chết thường nấc lên rên, hộc máu ra rồi mới chết hẳn. Đáng tiếc rằng, các dịch giả Tiểu Thanh truyện lại cho đấy là hành vi của Phùng sinh, nên dịch: “người chồng bỗng dẫm chân gào lên một tiếng dài rồi thổ ra hơn một thăng huyết”, hoặc “Chập tối chồng hay tin chạy lại, vén màn thấy dung nhan như sống, xiêm áo tinh tươm, đau đớn khóc to, thổ huyết một thăng. Sau đó lục lọi tìm được...”. Nếu anh chồng đã “thổ ra đến hơn một thăng huyết” sao còn sức để “lục tìm hồi lâu, thấy được một quyển thơ...”, rồi lại “đau đớn gào lên: Ta phụ nàng! Ta phụ nàng!”? Đấy chính là cách biểu hiện cái “kì oan”, cái “hận sự” của Phùng Tiểu Thanh.

Ở đây nên hiểu “phong vận kì oan” như thế nào cho thỏa đáng? “Phong vận” có hai nghĩa. Thứ nhất: người con gái có tư thái tốt đẹp; thứ hai: “chỉ phong cách tình thú của thơ văn, thư, họa”. Vậy là, không chỉ Tiểu Thanh, mà cả thơ văn, thậm chí cả bức vẽ Tiểu Thanh cũng mắc “kì oan”. Số phận Tiểu Thanh diễn ra đúng như vậy: chết trong uất hận, thơ từ và bức vẽ đều bị đốt...

Vì kì oan nên hận mà chết. Nỗi hận kia đâu chỉ xẩy ra với riêng Tiểu Thanh, mà xẩy ra đối với mọi kiếp người trên thế gian này và đi suốt thời gian kim cổ. Đấy là quy luật cuộc đời mà Nguyễn Du rút ra. Sau này, khi đã nhiều tuổi hơn, ông khái quát xã hội mình đang tồn tại bằng những câu thơ chua xót:
Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan,
Đại địa xứ xứ giai Mịch La,
Ngư long bất thực sài hổ thực...
(Đời sau ai ai (tính cách) cũng đều như Thượng quan,
Mặt đất đâu đâu cũng chỉ là sông Mịch La,
Không bị ngư long ân thịt, thì bị hùm sói ăn thịt...)

Thượng quan là Ngận Thượng, một tên quan luôn đố kị hiền tài, đã gièm pha Sở Hoài vương ruồng bỏ Khuất Nguyên, khiến Khuất Nguyên phải đâm đầu xuống sông Mịch La tự tử. Sông Mịch La nơi Khuất Nguyên tự tử, tượng trưng cho cõi chết. Con người toàn là kẻ nham hiểm đẩy hiền tài đến cái chết, mặt đất đều là nơi tử địa.

“Cư” trong cụm từ “ngã tự cư”, nên hiểu là “xử” như các cụ Bùi Kỉ, Trương Chính... đã dịch. Ta tự coi nỗi kì oan của nàng, của thơ văn do nàng viết, của bức chân dung nàng do họa sư vẽ... là chính nỗi kì oan của ta, như chính ta đang mắc nỗi kì oan đó; cũng có nghĩa là, ta hiểu thấu nỗi kì oan của nàng.

Nguồn: nguyendu.vn
 
  • Like
Reactions: Hạ Di

Ye Ye

Cây bút Truyện ngắn 2017|Thần tượng văn học
Hội viên CLB Ngôn từ
Thành viên
10 Tháng bảy 2017
2,064
2,347
434
Hà Nam
NEU (Dream)
Part 4

III/ Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

1. “Nhất chỉ thư” là gì ?

Câu Độc điếu song tiền nhất chỉ thư được dịch như sau:

-Trước song một mình viếng một tập giấy (bản Bùi kỉ 1959, tr.69).

-Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ (bản Lê Thước 1965, tr.162, Đào Duy Anh 1988, tr.173).

-Riêng ta viếng khóc tập sách trước cửa sổ (Trần Danh Đạt, Sđd, tr.43).

-Một mình nhớ tới nàng qua một tờ giấy chép truyện (Trần Đình Sử, tr.222).

-Trước song cửa sổ ta một mình ngồi viết bài thơ này để điếu nàng trên một tờ giấy (Nguyễn Quảng Tuân, Sđd, tr.45).

Ở đây có ba cách hiểu: Một là viếng tập giấy, viếng khóc tập sách, nghĩa là viếng tác phẩm viết về Tiểu Thanh; hai là viếng qua một tập sách, một tờ giấy chép truyện, nghĩa là viếng qua tác phẩm viết về Tiểu Thanh; ba là viết bài thơ này để điếu nàng, nghĩa là, điếu bằng bài Độc Tiểu Thanh kí. Và như vậy, “nhất chỉ thư” được hiểu theo hai nghĩa: truyện về Tiểu Thanh và bài Độc Tiểu Thanh kí.

Chúng tôi nghiêng về cách hiểu của ông Nguyễn Quảng Tuân.

“Điếu” là động từ giữ chức năng vị ngữ trong câu. Là động từ, “điếu” vừa có bổ ngữ trực tiếp (điếu ai), vừa có bổ ngữ gián tiếp (điếu bằng cái gì). Rõ ràng, không thể điếu tập truyện như ông Trần Danh Đạt đã dịch. Do đó, chỉ còn điếu qua tập truyện Tiểu Thanh và điếu qua bài thơ khóc Tiểu Thanh. Muốn chọn phương án nào trong hai cách hiểu trên, theo chúng tôi, cần hiểu “nhất chỉ thư” là gì.

Thục ra, “nhất chỉ thư” không chỉ là một tờ giấy có chữ viết, mà là, tờ giấy có chữ do chính tay mình viết. Nếu vậy, không thể hiểu đấy là tác phẩm về Tiểu Thanh. Một điều nữa chúng tôi hết sức băn khoăn rằng, chẳng biết Nguyễn Du có dùng điển tích “nhất chỉ thư” hay ngẫu nhiên trùng với điển tích đó. Xin nêu ra để bạn đọc tham khảo. “Nhất chỉ thư” là một điển về Lưu Hoằng (236-306), rút từ Tấn thư, dùng để chỉ sự tâm huyết, công minh của người tự tay viết “nhất chỉ thư” dâng lên bề trên. Người dân bấy giờ có câu: “được “nhất chỉ thư” của Lưu công, hơn được tiến cử làm quan trong thập bộ”. Nguyễn Du đã ví bài Độc Tiểu Thanh kí của mình như biểu dâng lên Tấn Huệ đế của Lưu Hoằng(23)? Nếu đúng như vậy, qua điển “nhất chỉ thư”, Nguyễn Du muốn bày tỏ rằng, ông thấu hiểu nỗi lòng Tiểu Thanh và ông cũng chẳng giấu điều đó: “ngã tự cư”!

2. “Song tiền”.

Về chữ, “song tiền” là trước cửa sổ. Nhưng, cửa sổ nào? Cửa sổ nhà Tiểu Thanh ở Cô Sơn Hàng Châu hay cửa sổ nhà Nguyễn Du tại Việt Nam?

Như trên kia đã trình bày, Nguyễn Du viết Độc Tiểu Thanh kí khi chưa đi sứ, do đó ông không thể đến trước cửa sổ nhà Tiểu Thanh đọc bài thơ cùa mình được. Song, nếu Nguyễn Du điếu Tiểu Thanh ở trước cửa sổ nhà mình thì nghe ra lại khiên cưỡng.

Xin hãy trở lại Di tích về nỗi hận ở gò mai. Trong văn bản có hai chi tiết đáng chú ý: Một là, khi Tiểu Thanh còn sống, tác giả kể: “tuy cảnh núi sông (ở Cồ Sơn) tươi đẹp, (Tiểu Thanh) cũng không dám hé cửa sổ ngắm nhìn”; hai là, sau khi Tiểu Thanh qua đời, Lưu Vô Mộng - bạn của Phùng sinh “qua gò mai, trong cửa sổ thêu, nơi Tiểu Thanh nằm, tìm thấy một mảnh giấy tàn có ba câu của bài từ, điệu Nam hương tử...”. Như vậy, trong cửa sổ là thế giới của Tiểu Thanh - nơi nàng ở và qua đời, còn ngoài cửa sổ - song tiền thế giới của nhân gian, của Lưu Vô Mộng, của Nguyễn Du, của chúng ta... Nguyễn Du điếu nàng bằng “nhất chỉ thư" tại song tiền - thế giới những người đang sống. Đấy là nghĩa thứ nhất. Thứ hai, chẳng rõ có phải ngẫu nhiên không, nhưng về Tiểu Thanh có truyện của Tiên Tiên cư sĩ trong Lục song nữ sử, tác phẩm ra đời vào thời Minh. “Lục song” là cửa sổ xanh, nơi ở của con gái, sau dùng để chỉ chỗ đàn bà sinh sống. Vả chăng, thơ ca luôn mang tính ước lệ.

IV/ Chi phấn hữu thần..., Văn chương vô mệnh...

Hai câu này không phức tạp lắm.

1. “Chi phấn” - đồ trang sức của phụ nữ, sau dùng để chỉ giới nữ lưu nói chung. “Thần” là thần thái, thần sắc, ở đây chỉ nhan sắc, tài hoa và trí tuệ của Tiểu Thanh. Trong tác phẩm của mình, Mặc lãng tử luôn nhấn mạnh đến thần thái Tiểu Thanh tươi đẹp. Khi mới 10 tuổi, nàng đã mục tú mi thanh, thông tuệ khác thường. Năm nàng 16 tuổi, Phùng sinh mới gặp đã siêu lòng. Về tới nhà chồng, mặc dù nàng đã “cúi đầu hạ dọng cung kính không dám lộ vẻ phong lưu, vậy mà, phong thái kiều diễm của Tiểu Thanh càng giấu lại càng rực rỡ”. Trước mặt vợ Phùng sinh, Dương phu nhân vẫn thẳng thắn nhận xét Tiểu Thanh là “một cô gái tốt! Mi thanh mục tú, ôn hòa nhã nhặn khác thường, chẳng sánh bậc tao nhân mặc khách, thì cũng là người ở chốn kim mã ngọc đường”. Lúc Tiểu Thanh qua đời, Mặc lãng tử từng thốt lên: “Người đẹp như ngọc mà mệnh mỏng như mây; nhị quỳnh, ưu đàm nhân gian có một”. Đặc biệt, bức vẽ thứ ba, Mặc lãng tử nhận xét: “cực kì phong nhã”. Tác giả Dương Châu mĩ nữ còn miêu tả bức vẽ thứ ba hấp dẫn hơn nhiều: “hoạ sư đề nghị Phùng Tiểu Thanh không cần ngồi nghiêm nghị mà cứ nói cười, đi lại, nằm ngồi bình thường, còn tình cảm buồn vui oán giận thì cứ để chúng tùy theo cảm hứng tự nhiên, hà tất phải cố ý tạo dựng. Tiểu Thanh lĩnh hội ý của hoạ sư, bèn không ngồi cứng nhắc như trước mà cứ hoạt động bình thường. Lúc thì nàng cùng bà hầu chuyện trò cười nói, lúc lại quạt lò pha trà, lúc đùa chơi với chim anh vũ, hoặc quay sang đọc thơ xem sách, hoặc đi lại dưới gốc mai... Qua từng cử chỉ, từng cái nhăn mày đến điệu cười tiếng nói của Tiểu Thanh... họa sư đã nắm bắt được thần thái, cốt cách của nàng. Quan sát như vậy mất ba ngày, sau đó lại mất một ngày pha mầu rồi mới vẽ. Trong bức vẽ này, Tiểu Thanh dựa cây mai một cách tự nhiên, sống động như thật, dường như có thể gọi nàng bước ra khỏi tranh”. Cái sắc thái sinh động có thần của Tiểu Thanh đã đi vào bức họa, biến bức họa vốn vô tri vô giác thành con người sống thực làm liên can đến việc sau khi nàng qua đời: bức họa bị đốt! Nếu Tiểu Thanh không có cốt cách, không có tâm hồn, không có thần thì sau khi nàng đã mất không thể khiến cho bức vẽ về nàng bị đốt. Văn chương nào phải đâu là sinh mệnh sống, mà bị lụy khiến chúng thành tro?

2. Phần dư

“Phần dư” là phần (thơ, từ) còn lại không bị đốt, chứ không phải “tập thơ bị đốt còn sót lại” hoặc “đốt dở,... phần đốt còn sót lại”. Giải thích như vậy dễ làm người đọc hiểu nhầm. Tuy nhiên, điều đáng nói là, chỉ truyện về Tiểu Thanh trong Ngu Sơ tân chí, trong Tình sử và trong Dương châu mĩ nữ mới nói tới Phần dư hoặc Phần dư cảo còn trong Tây Hồ giai thoại, Lục song nữ sử không có chi tiết này.

Sẽ giải thích như thế nào về hiện tượng trên khi cho rằng, Nguyễn Du dựa trên Tây Hồ giai thoại, Lục song nữ sử để viết Độc Tiểu Thanh kí. Vậy, có cái gọi là Tiểu Thanh kí không?


V/ Nhan đề bài thơ

Từ đầu đến giờ, chúng tôi luôn chứng minh rằng, viết Độc Tiểu Thanh kí Nguyễn Du dựa trên cơ sở đọc Tây Hồ giai thoại, Lục song nữ sử... Nhưng kết luận như vậy sẽ không lí giải được câu “lụy Phần dứ' vì Phần dư chỉ có trong Tiểu Thanh truyện. Để xử lí hiện tượng này, ta hãy xem chữ “kí” có những nghĩa gì?

“Kí” có ít nhất ba nghĩa. Một là tương đương với khái niệm “truyện”, như Bích Câu kì ngộ kí; hai là, thể kí văn học như Công dư tiệp kí; ba là, ghi chép. Bây giờ ta dùng phép loại trừ để xem Nguyễn Du dùng nghĩa nào.

Thứ nhất, trong Ngu Sơ tân chí và Tình sử đã có Tiểu Thanh truyện. Bởi vậy, Nguyễn Du không thể thay khái niệm truyện bằng kí được. Thứ hai, nếu Nguyễn Du dùng kí với ý nghĩa là thể kí văn học, thì trong thư tịch Trung Hoa ắt phải có tác phẩm kí viết về Tiểu Thanh. Song chúng tôi đã tra tìm tất cả các danh mục tác phẩm viết về Tiểu Thanh nhưng chẳng có văn bản nào đề là Tiểu Thanh kí cả. Vậy chỉ còn một nghĩa thứ ba: ghi chép. Qua những tư liệu chúng tôi đã trình bày trên kia, chiếu ứng vào nội dung bài Độc Tiểu Thanh kí, ta thấy Nguyễn Du đã đọc một số văn bản viết về Tiểu Thanh như Tây Hồ giai thoại, Lục song nữ sử, Ngu Sơ tân chí, Tình sử... Điều đó cũng có nghĩa, kí là ghi chép, Nguyễn Du ghi lại cảm xúc khi đọc một số tài liệu, chủ yếu là Tây Hồ giai thoại để viết Độc Tiểu Thanh kí. Do đó, Độc Tiểu Thanh kí là đọc những ghi chép về Tiểu Thanh.

Truy tìm tư liệu về Tiểu Thanh là một trong những hướng đi có triển vọng để tiếp cận bài Độc Tiểu Thanh kí. Công việc ấy cần sự đóng góp của nhiều người, còn chứng tôi chỉ nối bước những nhà nghiên cứu đi trước như Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Quảng Tuân...

Điều cuối cùng chúng tôi muốn nói là, nhân vật Phùng Tiểu Thanh liên quan đến Kim Vân Kiều truyện. Mở đầu hồi một của Kim Vân Kiều truyện, trong Lời bình, tác giả không dưới 7 lần nhắc tới Phùng Tiểu Thanh và nhấn mạnh rằng, chính cuộc đời đáng thương, đáng xót của nàng đã cảm động đến các tao nhân mặc khách..., khiến họ phải vì nàng mà thở than, mà thương xót...; vì nàng mà “khắc in văn tập, viết truyện truyền kì lưu truyền bất hủ"(24). Cuộc đời Phùng Tiểu Thanh đã bi thảm, số phận Vương Thuý Kiều còn bi thảm hơn. Tác giả Lời bình nhận xét, Vương Thuý Kiều “tài sắc chẳng kém Tiểu Thanh mà bị đoạ đầy còn hơn Tiểu Thanh, đủ để ngàn năm sánh cùng Tiểu Thanh vậy". Nguyễn Du dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân để sáng tác Đoạn trường tân thanh. Do đó khi viết Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du hẳn là phải biết tới đoạn văn chúng tôi vừa trích và khi đã biết, chắc Nguyễn Du chẳng thể bỏ qua câu chuyện về cô gái có tên là Phùng Tiểu Thanh. Cho nên, nghiên cứu về Tiểu Thanh không chỉ giúp ta hiểu bài Độc Tiểu Thanh kí, mà còn giúp ta biết chính xác hơn thời điểm ra đời Đoạn trường tân thanh. Tuy nhiên, trong bài viết này, chủ yếu trên cơ sở cung cấp một số tư liệu mới về Tiểu Thanh, chúng tôi muốn đưa ra những hướng kiến giải bài Độc Tiểu Thanh kí. về thời điểm sáng tác Đoạn trường tân thanh cũng như khuynh hướng sáng tác Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du xin trình bày trong dịp khác.


Nguồn: nguyendu.vn
 
Top Bottom