Diễn biến cuộc chiến
Kết cục của Trần Thiêm Bình
Tháng 4 năm 1406, lấy cớ đưa Trần Thiêm Bình về nước, nhà Minh sai Hàn Quan và Hoàng Trung mang 5.000 quân hộ tống để lập Trần Thiêm Bình làm vua.
Ngày 8 tháng 4, Hoàng Trung đánh vào cửa Lãnh Kinh. Hai cánh quân thuỷ bộ nhà Hồ đụng độ với quân Minh. Quân Đại Ngu khinh địch nên bị bại trận, các tướng Phạm Nguyên Khôi, Chu Bỉnh Trung, Trần Nguyên Huyên, Trần Thái Bộc tử trận. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng xuống thuyền đi thoát.
Nhưng đúng lúc đó, tướng Hồ Vấn mang quân từ Vũ Cao (Bắc Giang) đánh úp quân Minh. Hoàng Trung không chống nổi, đến đêm bèn rút quân về. Song các tướng Đại Ngu là Hồ Xạ và Trần Đĩnh mang quân đóng chặn ở ải Chi Lăng. Quân Minh bị mất đường về, buộc phải chấp nhận giao nộp Trần Thiêm Bình và sai Cao Cảnh đưa hàng thư, đề nghị mở đường cho về nước:
"Quan tổng binh Hoàng sai tiểu nhân tới đây trình bày ngài biết việc này: Trước vì Thiêm Bình chạy sang triều đình tâu rằng hắn chính là con của quốc vương An Nam, vì thế mới sai đại binh sang chiêu dụ. Không ngờ trăm họ xứ này đều không phục, rõ ràng là hắn nói bậy. Nay lui quan quân về tâu với triều đình thì bị quan ải dọc đường ngăn giữ, nghẽn lối không qua được. Nay đem Thiêm Bình tới nộp, xin thả cho đi thì may lắm".
Hồ Xạ nhận hàng thư bằng lòng nhận Thiêm Bình và mở vòng vây cho quân Minh rút lui. Quân Đại Ngu bắt được nhiều tù binh, đưa vào Nghệ An cho làm ruộng. Trần Thiêm Bình bị mang về xử lăng trì.
Đại quân Minh tiến sang
Dù thắng trận, nhà Hồ không chủ quan mà dự đoán quân Minh còn kéo sang đánh nữa. Hồ Hán Thương tiếp tục sai củng cố phòng tuyến Đa Bang dọc các bờ sông. Mặt khác, nhà Hồ cho đoàn sứ gồm Trần Cung Túc, Mai Tú Phu sang nhà Minh xin giảng hoà, biện minh việc Thiêm Bình giả mạo. Nhưng đoàn sứ Đại Ngu bị nhà Minh bắt giam toàn bộ.
Tháng 9 năm ấy, nhà Minh sai Trương Phụ, Trần Húc, đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Pha Lũy (cửa khẩu Hữu Nghị ngày nay), Mộc Thạnh, Lý Bân cũng đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Phú Lệnh (gần thị xã Hà Giang ngày nay), hai đạo quân tổng cộng là 80 vạn
Tháng 10, quân Minh hội ở sông Bạch Hạc, bày doanh trại bờ bắc sông Cái, đến tận Chú Giang.
Nhà Hồ bố trí quân ở sông Hồng theo sự chỉ huy của Hồ Nguyên Trừng, quân ở sông Chú theo sự chỉ huy của Hồ Đỗ. Trên bờ, quân bộ và voi đóng đối diện doanh trại quân Minh.
Trương Phụ và Mộc Thạnh dùng danh nghĩa “Phù Trần diệt Hồ”, viết bảng văn kể tội nhà Hồ và tìm con cháu nhà Trần để phục vị, cho thả theo dòng sông. Nội dung bảng văn kể 22 tội của Hồ Quý Ly, gồm có 8 nội dung lớn
Cướp ngôi, giết vua và tông thất nhà Trần (2 tội)
Coi nước và nhân dân như thù địch (3 tội)
Tự tiện đổi họ Lê sang họ Hồ (1 tội)
Lừa gạt triều đình nhà Minh (trong vụ Trần Thiêm Bình) (3 tội)
Đánh chiếm và khống chế vùng Tư Minh, Ninh Viễn (5 tội)
Đánh Chiêm Thành là nước đã thần phục nhà Minh (6 tội)
Không theo lịch Trung Quốc, tự đổi tên nước (1 tội)
Khinh nhờn, không kính trọng nhà Minh (1 tội)
Quân nhà Hồ trông thấy bảng văn, lại thấy chính sự nhà Hồ chưa được lòng dân nên không có lòng chống quân Minh Các tướng Mạc Thúy, Nguyễn Huân đem 10.000 quân ra hàng quân Minh và được phong chức.
Ngày 2 tháng 12, người Minh chiếm được Việt Trì, bờ sông Mộc Hoàn và chỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc. Tướng chỉ huy quân Tả Thánh Dực là Hồ Xạ không giữ nổi, phải dời hàng trận sang phía nam sông Cái. Đêm mồng 7 tháng 12, quân Minh tiến ra bãi sông Thiên Mạc bị tướng nhà Hồ là Trần Đĩnh đánh bại.
Trận Mộc Hoàn
Sau thất bại ở Thiên Mạc, quân Minh chấn chỉnh lại đội ngũ, đánh được hai mặt sông Thao và sông Tuyên, đóng quân ở bờ bắc sông Thao, đối diện với thành Đa Bang.
Đêm mồng 9 tháng 12, quân Minh đánh úp quân Hồ ở bãi Mộc Hoàn. Tướng Đại Ngu là Nguyễn Công Khôi mải nữ sắc không phòng bị, thuyền bị đốt gần hết. Các cánh thuỷ quân bên trên và bên dưới của nhà Hồ đều không đến cứu ứng. Quân Minh vượt sông làm cầu phao.
Trận Đa Bang
Trương Phụ và Mộc Thạnh thấy các bãi sông đều có rào cọc chắn không tiến được, lại biết nhà Hồ chỉ trông vào thành Đa Bang để phòng thủ, nên tập trung tấn công thành này làm bước quyết định cục diện mặt trận
Ngày 12 tháng 12, quân Minh nhân đêm tối đánh úp thành: Trương Phụ và Hoàng Trung đánh góc tây bắc, Mộc Thạnh và Trần Tuấn đánh mặt đông nam. Cánh Mộc Thạnh dùng thang mây đánh lên mặt thành, quân bị giết xác chất cao nhưng vẫn không ngừng tấn công. Tướng nhà Hồ là Nguyễn Tông Đỗ đục thành lùa voi ra đánh.
Biết voi sợ sư tử, quân Minh vẽ hình sư tử trùm lên đầu ngựa và bắn tên lửa khiến voi sợ phải thụt vào trong. Quân Minh đuổi theo hút vào trong thành, quân nhà Hồ thua to, các tướng nhà Hồ là Liang Min-xian and Cai Bo-le tử trận. Quân Minh đánh chiếm được thành Đa Bang cùng 12 voi chiến và vô số binh khí
Quân Đại Ngu rút lui
Sau khi thành mất, các cánh quân nhà Hồ dọc sông đều tan vỡ, lui về giữ Hoàng Giang. Trương Phụ tiến đến sông Phú Lương, quân nhà Hồ chặn giữ. Trương Phụ chưa biết tính ra sao thì hàng tướng người Việt là Mạc Thuý và Đặng Nguyên vẽ bản đồ địa hình xin làm hướng đạo
Ngày 13 tháng 12, được sự chỉ đường của Mạc Thuý, quân Minh dọc sông Phú Lương tiến xuống, đốt phá rào gỗ. Ngày 14, quân Minh đánh vào Đông Đô (Hà Nội), cướp được của cải và lương thực, đặt quan cai trị. Biết cơ sở chính của nhà Hồ ở Tây Đô, quân Minh theo đường sông Phú Lương tiến đánh.
Ngày 20 tháng 2 âm lịch năm 1407, Hồ Nguyên Trừng tiến quân đến sông Lỗ. Hai bên đụng độ nhau ở 2 bờ sông. Theo Minh sử, quân Hồ có 500 chiến thuyền, còn quân Minh đánh theo cả hai đường thủy bộ. Kết quả Quân Đại Ngu bị thua, mất 100 thuyền chiến và 10.000 binh lính, phải lui về Muộn Hải. Quân Minh bắt được hơn trăm người, trong đó có các tướng nhà Hồ và đem ra chém hết. Thượng hoàng Hồ Quý Ly cùng Hồ Hán Thương lui về Tây Đô.
Trong khi đó Hồ Xạ và Hồ Đỗ không giữ đựơc Bình Than, chạy qua cửa Thái Bình đến Muộn Hải hợp binh với Hồ Nguyên Trừng. Các tướng cùng đắp luỹ, đúc súng, huy động nhân lực ra mặt trận. Tuy nhiên, quân Minh đuổi đánh đến nơi, quân Đại Ngu phải lui về cửa biển Đại An.
Quân Minh sau một thời gian giao chiến phát sinh bệnh tật, cửa Muộn Hải ẩm thấp nên Trương Phụ phải mang quân ra đóng ở Hàm Tử.
Trận Hàm Tử
Hồ Nguyên Trừng cùng Hồ Đỗ, Đỗ Mãn dời đến Hoàng Giang, sai người đón thượng hoàng Hồ Quý Ly cùng vua Hồ Hán Thương ra; sau đó cùng Hồ Xạ, Trần Đĩnh hợp quân thuỷ và quân bộ tiến lên cửa Hàm Tử đánh quân Minh. Quân Đại Ngu có tổng cộng 7 vạn, nói thăng lên 21 vạn.
Ngày 30 tháng 3 năm 1407, quân Đại Ngu tập kết ở Hàm Tử. Hồ Xạ và Trần Đĩnh lĩnh quân bộ ở bờ sông phía nam; Đỗ Nhân Giám và Trần Khắc Trang lĩnh quân bộ ở bờ bắc sông; Nguyễn Công Chửng lãnh 100 chiến thuyền làm tiên phong.
Quân Minh chia 2 mặt thuỷ bộ. đặt phục binh đón đánh. Hồ Xạ đoán quân Minh có mai phục, không chịu tiến quân. Hồ Đỗ sai người đến trách Hồ Xạ vì sao không đánh giặc.
Hồ Xạ bất đắc dĩ phải tiến đánh, quân Đại Ngu bị thua. An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hy Chu bị Trương Phụ bắt sống, Hy Chu chửi Phụ là giặc tàn bạo, bị Phụ giết.
Quân Đại Ngu thua to; tướng Hồ Xạ tử trận, quân bộ hai bên bờ sông bị dồn xuống sông chết, quân thuỷ chạy thoát nhưng các chiến thuyền chở lương đều bị chìm, chết đuối gần hết. Minh sử ghi rằng hàng chục ngàn quân nhà Hồ bị chém đầu, nước sông đỏ máu.
Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương cùng các tướng bỏ chạy về Tây Đô.
Đại Ngu thất bại
Cha con Hồ Quý Ly thua chạy vào nam, bị quân Minh đuổi gấp, định dùng hậu phương mới chiếm được từ Chiêm Thành để kháng cự, bèn viết thư cho Hoàng Hối Khanh đang trấn thủ Thăng Hoa, sai lấy một phần ba số dân Việt di cư khi trước mới đến khẩn hoang ở Thăng Hoa, gộp với quân lính địa phương làm quân "cần vương" giao cho Nguyễn Lỗ, lại phong cho hoàng tử nước Chiêm cũ là Chế Ma Nô Đà Nan làm Thăng Hoa quận vương để vỗ về dân Chiêm tại đây.
Tuy nhiên, vua Chiêm Thành là Ba Đích Lại nhân lúc Đại Ngu bị quân Minh đánh bại cũng cất quân bắc tiến, lần lượt chiếm lại vùng đất vốn bị nhà Hồ chiếm năm 1402. Quân Chiêm đánh chiếm châu Tư, Nghĩa và tiến lên đánh Thăng, Hoa. Dân bản địa phủ Thăng Hoa tan rã bỏ chạy, Chế Ma Nô Đà Nan tử trận, Hoàng Hối Khanh không chống nổi quân Chiêm phải rút về Hoá châu.
Ngày 23 tháng 4, quân Minh đánh vào Lỗi Giang, quân nhà Hồ không đánh mà tan. Ngày 29, quân Minh đánh vào cửa biển Điển Canh, thủy quân nhà Hồ tự tan vỡ. Hai cha con họ Hồ định lánh đến Thâm Giang nhưng không thành. Tướng Nguỵ Thức xin hai cha con họ Hồ tự thiêu:
"Nước đã sắp mất, bậc vương giả không chết bởi tay kẻ khác".
Nhưng Quý Ly không nghe, nổi giận, chém chết Ngụy Thức[31], rồi bỏ chạy vào Tân Bình. Đến Kỳ La thuộc Tân Bình, có bô lão nói rằng đất này không lành, không nên ở[32], Hồ Quý Ly bèn chém chết ông lão.
Ngày 5 tháng 5, quân Minh đánh vào cửa biển Kỳ La (huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay). Hàng tướng người Việt là Nguyễn Đại bắt được Hữu tướng quốc Hồ Quý Tỳ (em thượng hoàng Quý Ly).
Ngày 11, quân Minh đánh vào Vĩnh Ninh. Vương Sài Hồ bắt được Hồ Quý Ly ở ghềnh Chẩy Chẩy; Lý Bân bắt được Hồ Nguyên Trừng ở cửa biển Kỳ La.
Ngày 12, bộ tướng của Mạc Thuý là Nguyễn Như Khanh bắt được Hồ Hán Thương và thái tử Hồ Nhuế ở núi Cao Vọng (Kỳ Anh, Hà Tĩnh).
Nhà Hồ hoàn toàn thất bại.
net