N
ngoisaotim


"NGUYỄN HUỆ - NGUYỄN ÁNH" - CUỘC TRÙNG PHÙNG MAY MẮN HAY BẤT HẠNH CỦA LỊCH SỬ ?
I - MỘT TRƯỜNG HỢP LỊCH SỬ KHÁC THƯỜNG
Trong tinh thần ấy, chúng ta thử lần lại một trường hợp lịch sử khác thường về Thái tổ Võ hoàng đế NGUYỄN HUỆ và Thế tổ Cao hoàng đế NGUYỄN PHÚC ÁNH (thường quen gọi theo niên hiệu là vua Quang Trung và vua Gia Long) nhằm tự hỏi : liệu sự đánh giá từ trước đến nay về sự nghiệp của hai nhân vật này có hoàn toàn đầy đủ và chân xác ?
Tinh thần thượng tôn pháp luật vốn không cho phép bất cứ ai viện dẫn như một sự hồi tố công lao của chính mình, nhằm biện minh cho những hành vi phạm pháp đương thì. Vậy thì sẽ bất công quá chăng nếu chúng ta chỉ thuần dựa vào một đối sách bất cập mang tính tình thế, rồi phủ nhận gần như toàn bộ thành quả của một nhân vật tượng trưng cho cả một triều đại. Nhất là ngay đang khi tại vị, nhân vật trong cuộc này đã ý thức nhằm sửa sai những di căn trót bắt nguồn từ một sự chọn lựa trong quá khứ ?
Đấy là chưa loại trừ dã tâm giăng bẫy sẵn của thực dân phương Tây qua chính sách chi viện khí tài, tận dụng sự mâu thuẫn nội bộ tại các quốc gia nhược tiểu hòng khống chế, chiếm lĩnh và bành trướng thuộc địa vào những thế kỷ trước.
Để đi đến một nhận định khách quan, tưởng cần phải gạt sang bên từng luận điểm một chiều của các tay chép sử thuộc trường phái này hay trường phái kia. Như những câu chuyện hoang đường ghi trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện của dòng họ Nguyễn Gia-Miêu (gọi theo nguồn gốc xuất thân của dòng họ chúa Nguyễn) chẳng hạn, nhằm xuyên tạc ý định dời đô ra Nghệ An cũng như nghi vấn về cái chết bất thần của Nguyễn Huệ. Đồng thời hãy cho lắng xuống bao mối bất bình về tham vọng khôi phục nghiệp chúa bằng mọi giá cùng cách hành xử cạn tình của Nguyễn Ánh đối với vua tôi Tây Sơn sau ngày toàn thắng. Chúng ta cũng khoan xét tới yêu cầu nặng mang tính đấu tranh giai cấp vốn là một yếu tố chính trị hiện thực, phụng sự cho một thời kỳ cách mạng "bài Phong đả Thực" của dân tộc vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Ngõ hầu có được một cái nhìn đạt lý hơn về sự trùng phùng của hai con người "HUỆ và ÁNH" mà lằn ranh phân định giữa sự bất hạnh và may mắn quá đỗi mong manh.
Một khía cạnh tế nhị khác, lòng yêu nước đâu chỉ để độc quyền xưng tụng các bậc cái thế, những chiến tích lẫy lừng, sự hùng vĩ của các kỳ quan… Lòng yêu nước còn phải được thể hiện chung cho những phần lãnh thổ đìu hiu, từng nỗi đau chiến bại lẫn vô vàn tình huống bi thương khác nữa. Có như thế mới lý giải được phần nào giá trị của những vinh nhục, giải phóng được phần nào từng nỗi oan khuất đầy tính bi kịch của tiên nhân.
Trở lại tình hình chính trị đất nước trước ngày Nguyễn Huệ - Nguyễn Ánh chào đời.
***
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê dựng ra BẮC TRIỀU ở Thăng Long (triều Mạc).
Năm 1533, Nguyễn Kim tìm con cháu nhà Lê lập nên NAM TRIỀU tại Thanh Hóa (nhà Lê trung hưng).
Kim mất, rể là Trịnh Kiểm nắm quyền củng cố vai trò CHÚA TRỊNH (đàng Ngoài) lấn át nhà Lê và vô hiệu hóa vai trò nhà Mạc kể từ 1592.
Con của Kim là Nguyễn Hoàng nhận rõ mối hiểm họa từ phía Trịnh, xin vào trấn Hóa Châu (1558) tạo dần một thế lực mới tức CHÚA NGUYỄN (đàng Trong) lần lượt mở mang bờ cõi đến tận cực Nam (Cà Mau) ngày nay.
Từ đó lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm giới tuyến, Trịnh-Nguyễn mở đầu một thời kỳ phân tranh lâu dài nhất trong lịch sử (1558-1786).
Năm 1655, quân Nguyễn lần đầu tiên chủ động tấn công quân Trịnh chiếm Nghệ An. Sau liệu không giữ được bèn rút về mang theo những di dân, trong số có tổ tiên họ Hồ vào ở vùng phía trên đèo An Khê lập nên ấp Tây Sơn. Giữa thế kỷ 18, một người là Hồ Phi Phúc theo vợ về sống tại Kiên Mỹ (Bình Định). Họ sinh hạ được ba con (đời thứ tư) đấy chính là ba anh em nhà Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.
Lớn lên cả ba chuyển sang họ Nguyễn (họ nhà chúa?) hẳn để thuận thời và xóa bỏ mặc cảm cách biệt với cư dân bản địa, hầu hết vốn là con cháu của những di dân thân thuộc nhà Nguyễn thuở đầu Nam tiến?
Việc đổi họ phải chăng còn manh nha từ một ý tưởng mang tính chiến lược cho cuộc dấy nghĩa sau này?
Nguyễn Huệ sinh năm 1753 trong một môi trường dân giả, chín năm sau Nguyễn Ánh chào đời (1762) thuộc dòng dõi quyền quí: lịch sử đã có một cuộc trùng phùng, bất hạnh hay may mắn?
Không như tuổi thơ hồn nhiên của Nguyễn Huệ, ngay từ khi còn bé Nguyễn Ánh đã mồ côi cha. Anh em mất sớm, chỉ mình Nguyễn Ánh sống sót trong sự bất an do tự thâm cung đầy dẫy những cuộc tranh chấp.
Năm 1771, Nguyễn Huệ 18 tuổi là một trong những thủ lĩnh nòng cốt của phong trào Tây Sơn. Việc góp phần diệt Trương Phúc Loan của Nguyễn Huệ không đơn thuần loại bỏ một tên tham quan, đấy còn là một hành động vô hình chung giúp Nguyễn Ánh trả được mối gia thù và thoát khỏi một sự thanh trừng nội bộ rất có thể xẩy ra bất cứ lúc nào: Nguyễn Huệ có là vị ân nhân đầu đời của Nguyễn Ánh?
Năm 1774, quân Trịnh tấn công Phú Xuân cùng lúc Tây Sơn đánh Quảng Nam, chúa Nguyễn Phúc Thuần giao trọng trách lại cho Nguyễn Phúc Dương để lánh vào Gia Định (mang theo Nguyễn Ánh). Trịnh lại vượt Hải Vân, quân Tây Sơn yếu thế rút về Quy Nhơn. Nhạc dâng thư tình nguyện (kế hoãn binh) làm quân tiền khu cho Trịnh đánh Nguyễn. Trịnh mừng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh mang ấn kiếm vào phong Nhạc chức Tráng Tiết Tây Sơn Hiệu Trưởng trước khi cho quân lui về Thuận Hóa (1775).
Năm 1777, Nguyễn Huệ xuôi Nam chiếm Trấn Biên-Gia Định-Vĩnh Long làm chủ đàng Trong (Thuần và Dương bị giết). Nhạc xưng đế (Thái Đức, 1778) phong Nguyễn Huệ làm Tiết Chế thống lĩnh quân Tây Sơn.
Nguyễn Ánh thoát xuống An Giang nằm gai nếm mật rồi nghiễm nhiên kế vị ngôi chúa (1780), quy tụ lực lượng phản công tái chiếm Gia Định, Bình Thuận và xưng vương. Năm 1782 tại Cần Giờ, thủy binh cùa Nguyễn Ánh có tàu đồng đại bác (Pháp, Bồ đào Nha) yểm trợ đã thua tan tác trước lực lượng thuyền chiến của anh em Tây Sơn từ Qui Nhơn vào.
Nguyễn Ánh trốn ra Phú Quốc, sai người sang Xiêm cầu viện. Từ đấy, cả hai thực sự trở thành đối thủ không đội trời chung. Mỉa mai thay, qua việc truy bức chúa Nguyễn đến phải tử vong: ai đã chính thức mở lối cho Nguyễn Ánh khởi đầu vương nghiệp nếu không là Nguyễn Huệ?
Cuối 1782, bộ tướng nhà Nguyễn tái chiếm Gia Định, rước Nguyễn Ánh từ Phú Quốc về. Đầu năm sau Nguyễn Huệ trở vào, Nguyễn Ánh lại ra Phú Quốc và cho con đầu là hoàng tử Cảnh làm con tin theo Bá đa Lộc (giám mục Pháp) sang Pháp cầu viện. Năm 1784, Nguyễn Ánh (22 tuổi) được vua Xiêm giúp 300 thuyền và 3 vạn binh kéo về Gia Định hãm thành, bị thảm bại trước Nguyễn Huệ ở Rạch Gầm-Xoài Mút (1785). Nguyễn Ánh lại sang Xiêm, vua Xiêm muốn giúp một lần nữa nhưng do bầy tôi can ngăn. Nguyễn Ánh đành từ chối và lang bạt ở vùng Hà Tiên đến phải xin cơm nhà dân ăn.
Năm 1786 Nguyễn Huệ đánh Phú Xuân, ngoài Võ văn Nhậm (rể Nhạc) và Nguyễn văn Lộc còn có Nguyễn Hữu Chỉnh cùng đi. Chỉnh vốn là một tay giảo hoạt trước thờ Hoàng Đình Bảo (tôn phò Trịnh Sâm nên bị kiêu binh giết) nay trốn vào Nam quy thuận Tây Sơn, y nhân cơ hội thuyết phục Nguyễn Huệ lấy danh nghĩa "diệt Trịnh phò Lê" tiến thẳng ra Bắc.
Nguyễn Huệ giao Phú Xuân cho Lữ rồi cử Chỉnh dẫn thủy binh đi trước, Nguyễn Huệ cùng Nhậm sẽ kéo bộ binh theo sau hẹn sẽ hội quân ở Vị Hoàng tiến ra Thăng Long.
Ngày 6/6 Bính Ngọ tức 1/7/1786, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất, Trịnh Khải cho quân nghênh chiến bị thua. Khải trốn lên Sơn Tây đến Hạ Lôi thì bị bắt và tự vẩn. Nguyễn Huệ vào Thăng Long (21/7/1786) chính thức xóa sổ họ Trịnh, thống nhất đàng Trong với đàng Ngoài. Hôm sau yết kiến Lê Hiển Tông tại cung Vạn Thọ được vua phong làm Nguyên soái Uy quốc công và gả Ngọc Hân công chúa. Ngày 17/7 Bính Ngọ (10/8/1786) Hiển Tông băng, hoàng tôn Lê Duy Kỳ nối ngôi tức Lê Chiêu Thống.
Sợ rằng Nguyễn Huệ một phương lừng lẫy khó kềm, Nhạc từ Qui Nhơn cấp tốc mang quân tín cẩn ra gọi khéo về. Nguyễn Huệ biết ý, đón dâng tờ trình rồi giữa đêm 17/7 nhuận (9/9/1786) cùng Nhạc xuôi Nam bỏ mặc Chỉnh. Chỉnh hoảng hốt đuổi theo xin trấn Nghệ An cùng với Nguyễn Duệ và Nguyễn hoàng Đức, riêng Võ văn Nhậm đóng ở Đông Hải trông chừng mặt Bắc.
Nhạc phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản từ Thuận Hóa trở ra, Lữ làm Đông Định Vương Trấn Biên (Bình Thuận trở vào) còn mình tự phong là Trung Ương Hoàng Đế đóng tại Qui Nhơn.
Ở đàng Ngoài, Lê Chiêu Thống chưa kịp yên vị thì Trịnh Bồng đã tự xưng. Chỉnh được mật gọi, ra đuổi Bồng rồi mặc sức thao túng. Hay tin, Nguyễn Huệ lệnh Võ Văn Nhậm ra giết Chỉnh (Chiêu Thống hoảng sợ bỏ trốn sau khi sai người cầu viện nhà Thanh). Xong việc, Võ Văn Nhậm lại tự tung tự tác mưu lập Lê Duy Cẩn, bị Ngô văn Sở cáo biến vào Phú Xuân.
Tháng 4 Mậu Thân (5/1/1788) Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai chỉ trong 10 ngày, giết Nhậm. Khoảng non tháng thì quay về, giao đàng Ngoài cho Sở cùng Ngô Thời Nhiệm (danh sĩ Bắc Hà) lo việc.
Nguyễn Ánh nhân thời cơ, từ Gia Định phản công khiến Lữ phải rút.
Tháng 10 năm Mậu Thân (1788) Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị dẫn đại quân nhà Thanh, chia làm ba đạo tiến sang.
Để yên lòng dân, Nguyễn Huệ làm lễ cáo trời đất lên ngôi hoàng đế niên hiệu Quang Trung (25/11/Mậu Thân tức 22/12/1788 tại núi Bân, Phú Xuân) và ngay trong ngày thống lĩnh đại binh thủy bộ lên đường.
Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ ba ngày 22/12/1788 vây Hà Hồi, đánh Ngọc Hồi chiếm Yên Quyết và Khương Thượng… (Tôn sĩ Nghị lên ngựa bỏ chạy không kịp thắng yên cương) dẹp tan 20 vạn quân Thanh, tiến vào Thăng Long ngày 5 tháng giêng Kỷ Dậu ((30/1/1789) ở tuổi 36.
Nguyễn Ánh bấy giờ được Pháp hổ trợ, miệt mài củng cố binh bị.
Tháng 2 (Kỷ Dậu) Nguyễn Huệ về Phú Xuân sau khi đã hoà hiếu với nhà Thanh (cấp lương thực và phóng thích tù binh, tránh bị phục thù). Tháng 6/1790, lệnh tướng Diệu dẹp loạn Lê Duy Chỉ (liên kết với thổ dân Vạn Tượng, Xiêm toan chiếm Nghệ An) và khuất phục vua Ai Lao buộc phải triều cống và vua Miến Điện phải thông hiếu (1791).
Mùa xuân 1792 (Nhâm Tý) được tin Nguyễn Ánh sắp đánh Quy Nhơn, Nguyễn Huệ liền chuẩn bị binh mã chinh Nam nhưng tháng 7 Nhâm Tý (15/9/1792) nhà vua bất ngờ ngã bệnh, mất ở tuổi 39.
Nguyễn Quang Toản nối ngôi (Cảnh Thịnh) mới 13 tuổi, triều chính rơi vào tay cậu ruột là thái sư Bùi Đắc Tuyên. Tuyên lợi dụng củng cố quyền lực, tạo băng đảng gây chia rẽ và hãm hại trung thần.
Năm 1793, quân Nguyễn Ánh chiếm Phú Yên, đánh Quy Nhơn. Nhạc cầu cứu, quân từ Phú Xuân vào. Nhạc mở cửa thành, tướng của Cảnh Thịnh bất ngờ ra lệnh giải giáp quân đội của Nhạc, chiếm giữ các kho tàng khiến Nhạc tức uất thổ huyết chết (con của Nhạc là Nguyễn Bảo cũng bị giáng).
Tây Sơn mỗi ngày mỗi suy yếu, trong lúc Nguyễn Ánh liên tục thua trận này bày trận khác, chủ động tập kích.
Năm 1793, Nguyễn Ánh rút vào Diên Khánh đào hào đắp lũy xây tổng hành dinh, lập xưởng đóng thuyền chiến giao Nguyễn Văn Thành trấn giữ. Năm 1794 Tây Sơn vào vây, Nguyễn Ánh đem binh giải cứu. Diệu tạm rút, năm sau quay lại. Nguyễn Ánh lại từ Gia Định ra, thế trận hai bên cứ vậy giằng co cho đến khi Phú Xuân có biến, Diệu được lệnh triệu về.
Năm 1797, Nguyễn Ánh toan tái chiếm Quy Nhơn song lượng sức không được bèn dong buồm thẳng ra Quảng Nam, cuối cùng cũng phải quây về vì không đủ lương thực. Năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm Quy Nhơn đổi tên thành Bình Định giao Võ Tánh và Ngô Tùng Châu giữ. Năm 1800 quân Tây Sơn vào, thành Bình Định mất, Võ Tánh tự đốt mình.
Thay vì giải vây, Nguyễn Ánh ra tấn công Phú Xuân làm chủ Thuận Hóa, các nơi khác cũng dần lọt vào tay Nguyễn Ánh. Cảnh Thịnh bỏ chạy, Nguyễn Ánh thu ấn truyền quốc và đào mả Nguyễn Huệ nghiền xương, bỏ đầu lâu giam ngục.
Tháng 7 Nhâm Tuất (1802) Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, niên hiệu Gia Long, quốc hiệu Nam Việt (1804, nhà Thanh mới sai sứ sang ban quốc hiệu Việt Nam) tiếp tục đánh chiếm Nghệ An, Thanh Hóa… rồi ra Bắc, vua tôi Tây Sơn lần lượt bị bắt và bị hành hình.
Nhà Tây Sơn bị tuyệt diệt, Nguyễn Ánh tóm thu thiên hạ, bình định đất nước đến năm 1820 thì mất.
I - MỘT TRƯỜNG HỢP LỊCH SỬ KHÁC THƯỜNG
Trong tinh thần ấy, chúng ta thử lần lại một trường hợp lịch sử khác thường về Thái tổ Võ hoàng đế NGUYỄN HUỆ và Thế tổ Cao hoàng đế NGUYỄN PHÚC ÁNH (thường quen gọi theo niên hiệu là vua Quang Trung và vua Gia Long) nhằm tự hỏi : liệu sự đánh giá từ trước đến nay về sự nghiệp của hai nhân vật này có hoàn toàn đầy đủ và chân xác ?
Tinh thần thượng tôn pháp luật vốn không cho phép bất cứ ai viện dẫn như một sự hồi tố công lao của chính mình, nhằm biện minh cho những hành vi phạm pháp đương thì. Vậy thì sẽ bất công quá chăng nếu chúng ta chỉ thuần dựa vào một đối sách bất cập mang tính tình thế, rồi phủ nhận gần như toàn bộ thành quả của một nhân vật tượng trưng cho cả một triều đại. Nhất là ngay đang khi tại vị, nhân vật trong cuộc này đã ý thức nhằm sửa sai những di căn trót bắt nguồn từ một sự chọn lựa trong quá khứ ?
Đấy là chưa loại trừ dã tâm giăng bẫy sẵn của thực dân phương Tây qua chính sách chi viện khí tài, tận dụng sự mâu thuẫn nội bộ tại các quốc gia nhược tiểu hòng khống chế, chiếm lĩnh và bành trướng thuộc địa vào những thế kỷ trước.
Để đi đến một nhận định khách quan, tưởng cần phải gạt sang bên từng luận điểm một chiều của các tay chép sử thuộc trường phái này hay trường phái kia. Như những câu chuyện hoang đường ghi trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện của dòng họ Nguyễn Gia-Miêu (gọi theo nguồn gốc xuất thân của dòng họ chúa Nguyễn) chẳng hạn, nhằm xuyên tạc ý định dời đô ra Nghệ An cũng như nghi vấn về cái chết bất thần của Nguyễn Huệ. Đồng thời hãy cho lắng xuống bao mối bất bình về tham vọng khôi phục nghiệp chúa bằng mọi giá cùng cách hành xử cạn tình của Nguyễn Ánh đối với vua tôi Tây Sơn sau ngày toàn thắng. Chúng ta cũng khoan xét tới yêu cầu nặng mang tính đấu tranh giai cấp vốn là một yếu tố chính trị hiện thực, phụng sự cho một thời kỳ cách mạng "bài Phong đả Thực" của dân tộc vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Ngõ hầu có được một cái nhìn đạt lý hơn về sự trùng phùng của hai con người "HUỆ và ÁNH" mà lằn ranh phân định giữa sự bất hạnh và may mắn quá đỗi mong manh.
Một khía cạnh tế nhị khác, lòng yêu nước đâu chỉ để độc quyền xưng tụng các bậc cái thế, những chiến tích lẫy lừng, sự hùng vĩ của các kỳ quan… Lòng yêu nước còn phải được thể hiện chung cho những phần lãnh thổ đìu hiu, từng nỗi đau chiến bại lẫn vô vàn tình huống bi thương khác nữa. Có như thế mới lý giải được phần nào giá trị của những vinh nhục, giải phóng được phần nào từng nỗi oan khuất đầy tính bi kịch của tiên nhân.
Trở lại tình hình chính trị đất nước trước ngày Nguyễn Huệ - Nguyễn Ánh chào đời.
***
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê dựng ra BẮC TRIỀU ở Thăng Long (triều Mạc).
Năm 1533, Nguyễn Kim tìm con cháu nhà Lê lập nên NAM TRIỀU tại Thanh Hóa (nhà Lê trung hưng).
Kim mất, rể là Trịnh Kiểm nắm quyền củng cố vai trò CHÚA TRỊNH (đàng Ngoài) lấn át nhà Lê và vô hiệu hóa vai trò nhà Mạc kể từ 1592.
Con của Kim là Nguyễn Hoàng nhận rõ mối hiểm họa từ phía Trịnh, xin vào trấn Hóa Châu (1558) tạo dần một thế lực mới tức CHÚA NGUYỄN (đàng Trong) lần lượt mở mang bờ cõi đến tận cực Nam (Cà Mau) ngày nay.
Từ đó lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm giới tuyến, Trịnh-Nguyễn mở đầu một thời kỳ phân tranh lâu dài nhất trong lịch sử (1558-1786).
Năm 1655, quân Nguyễn lần đầu tiên chủ động tấn công quân Trịnh chiếm Nghệ An. Sau liệu không giữ được bèn rút về mang theo những di dân, trong số có tổ tiên họ Hồ vào ở vùng phía trên đèo An Khê lập nên ấp Tây Sơn. Giữa thế kỷ 18, một người là Hồ Phi Phúc theo vợ về sống tại Kiên Mỹ (Bình Định). Họ sinh hạ được ba con (đời thứ tư) đấy chính là ba anh em nhà Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.
Lớn lên cả ba chuyển sang họ Nguyễn (họ nhà chúa?) hẳn để thuận thời và xóa bỏ mặc cảm cách biệt với cư dân bản địa, hầu hết vốn là con cháu của những di dân thân thuộc nhà Nguyễn thuở đầu Nam tiến?
Việc đổi họ phải chăng còn manh nha từ một ý tưởng mang tính chiến lược cho cuộc dấy nghĩa sau này?
Nguyễn Huệ sinh năm 1753 trong một môi trường dân giả, chín năm sau Nguyễn Ánh chào đời (1762) thuộc dòng dõi quyền quí: lịch sử đã có một cuộc trùng phùng, bất hạnh hay may mắn?
Không như tuổi thơ hồn nhiên của Nguyễn Huệ, ngay từ khi còn bé Nguyễn Ánh đã mồ côi cha. Anh em mất sớm, chỉ mình Nguyễn Ánh sống sót trong sự bất an do tự thâm cung đầy dẫy những cuộc tranh chấp.
Năm 1771, Nguyễn Huệ 18 tuổi là một trong những thủ lĩnh nòng cốt của phong trào Tây Sơn. Việc góp phần diệt Trương Phúc Loan của Nguyễn Huệ không đơn thuần loại bỏ một tên tham quan, đấy còn là một hành động vô hình chung giúp Nguyễn Ánh trả được mối gia thù và thoát khỏi một sự thanh trừng nội bộ rất có thể xẩy ra bất cứ lúc nào: Nguyễn Huệ có là vị ân nhân đầu đời của Nguyễn Ánh?
Năm 1774, quân Trịnh tấn công Phú Xuân cùng lúc Tây Sơn đánh Quảng Nam, chúa Nguyễn Phúc Thuần giao trọng trách lại cho Nguyễn Phúc Dương để lánh vào Gia Định (mang theo Nguyễn Ánh). Trịnh lại vượt Hải Vân, quân Tây Sơn yếu thế rút về Quy Nhơn. Nhạc dâng thư tình nguyện (kế hoãn binh) làm quân tiền khu cho Trịnh đánh Nguyễn. Trịnh mừng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh mang ấn kiếm vào phong Nhạc chức Tráng Tiết Tây Sơn Hiệu Trưởng trước khi cho quân lui về Thuận Hóa (1775).
Năm 1777, Nguyễn Huệ xuôi Nam chiếm Trấn Biên-Gia Định-Vĩnh Long làm chủ đàng Trong (Thuần và Dương bị giết). Nhạc xưng đế (Thái Đức, 1778) phong Nguyễn Huệ làm Tiết Chế thống lĩnh quân Tây Sơn.
Nguyễn Ánh thoát xuống An Giang nằm gai nếm mật rồi nghiễm nhiên kế vị ngôi chúa (1780), quy tụ lực lượng phản công tái chiếm Gia Định, Bình Thuận và xưng vương. Năm 1782 tại Cần Giờ, thủy binh cùa Nguyễn Ánh có tàu đồng đại bác (Pháp, Bồ đào Nha) yểm trợ đã thua tan tác trước lực lượng thuyền chiến của anh em Tây Sơn từ Qui Nhơn vào.
Nguyễn Ánh trốn ra Phú Quốc, sai người sang Xiêm cầu viện. Từ đấy, cả hai thực sự trở thành đối thủ không đội trời chung. Mỉa mai thay, qua việc truy bức chúa Nguyễn đến phải tử vong: ai đã chính thức mở lối cho Nguyễn Ánh khởi đầu vương nghiệp nếu không là Nguyễn Huệ?
Cuối 1782, bộ tướng nhà Nguyễn tái chiếm Gia Định, rước Nguyễn Ánh từ Phú Quốc về. Đầu năm sau Nguyễn Huệ trở vào, Nguyễn Ánh lại ra Phú Quốc và cho con đầu là hoàng tử Cảnh làm con tin theo Bá đa Lộc (giám mục Pháp) sang Pháp cầu viện. Năm 1784, Nguyễn Ánh (22 tuổi) được vua Xiêm giúp 300 thuyền và 3 vạn binh kéo về Gia Định hãm thành, bị thảm bại trước Nguyễn Huệ ở Rạch Gầm-Xoài Mút (1785). Nguyễn Ánh lại sang Xiêm, vua Xiêm muốn giúp một lần nữa nhưng do bầy tôi can ngăn. Nguyễn Ánh đành từ chối và lang bạt ở vùng Hà Tiên đến phải xin cơm nhà dân ăn.
Năm 1786 Nguyễn Huệ đánh Phú Xuân, ngoài Võ văn Nhậm (rể Nhạc) và Nguyễn văn Lộc còn có Nguyễn Hữu Chỉnh cùng đi. Chỉnh vốn là một tay giảo hoạt trước thờ Hoàng Đình Bảo (tôn phò Trịnh Sâm nên bị kiêu binh giết) nay trốn vào Nam quy thuận Tây Sơn, y nhân cơ hội thuyết phục Nguyễn Huệ lấy danh nghĩa "diệt Trịnh phò Lê" tiến thẳng ra Bắc.
Nguyễn Huệ giao Phú Xuân cho Lữ rồi cử Chỉnh dẫn thủy binh đi trước, Nguyễn Huệ cùng Nhậm sẽ kéo bộ binh theo sau hẹn sẽ hội quân ở Vị Hoàng tiến ra Thăng Long.
Ngày 6/6 Bính Ngọ tức 1/7/1786, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất, Trịnh Khải cho quân nghênh chiến bị thua. Khải trốn lên Sơn Tây đến Hạ Lôi thì bị bắt và tự vẩn. Nguyễn Huệ vào Thăng Long (21/7/1786) chính thức xóa sổ họ Trịnh, thống nhất đàng Trong với đàng Ngoài. Hôm sau yết kiến Lê Hiển Tông tại cung Vạn Thọ được vua phong làm Nguyên soái Uy quốc công và gả Ngọc Hân công chúa. Ngày 17/7 Bính Ngọ (10/8/1786) Hiển Tông băng, hoàng tôn Lê Duy Kỳ nối ngôi tức Lê Chiêu Thống.
Sợ rằng Nguyễn Huệ một phương lừng lẫy khó kềm, Nhạc từ Qui Nhơn cấp tốc mang quân tín cẩn ra gọi khéo về. Nguyễn Huệ biết ý, đón dâng tờ trình rồi giữa đêm 17/7 nhuận (9/9/1786) cùng Nhạc xuôi Nam bỏ mặc Chỉnh. Chỉnh hoảng hốt đuổi theo xin trấn Nghệ An cùng với Nguyễn Duệ và Nguyễn hoàng Đức, riêng Võ văn Nhậm đóng ở Đông Hải trông chừng mặt Bắc.
Nhạc phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản từ Thuận Hóa trở ra, Lữ làm Đông Định Vương Trấn Biên (Bình Thuận trở vào) còn mình tự phong là Trung Ương Hoàng Đế đóng tại Qui Nhơn.
Ở đàng Ngoài, Lê Chiêu Thống chưa kịp yên vị thì Trịnh Bồng đã tự xưng. Chỉnh được mật gọi, ra đuổi Bồng rồi mặc sức thao túng. Hay tin, Nguyễn Huệ lệnh Võ Văn Nhậm ra giết Chỉnh (Chiêu Thống hoảng sợ bỏ trốn sau khi sai người cầu viện nhà Thanh). Xong việc, Võ Văn Nhậm lại tự tung tự tác mưu lập Lê Duy Cẩn, bị Ngô văn Sở cáo biến vào Phú Xuân.
Tháng 4 Mậu Thân (5/1/1788) Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai chỉ trong 10 ngày, giết Nhậm. Khoảng non tháng thì quay về, giao đàng Ngoài cho Sở cùng Ngô Thời Nhiệm (danh sĩ Bắc Hà) lo việc.
Nguyễn Ánh nhân thời cơ, từ Gia Định phản công khiến Lữ phải rút.
Tháng 10 năm Mậu Thân (1788) Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị dẫn đại quân nhà Thanh, chia làm ba đạo tiến sang.
Để yên lòng dân, Nguyễn Huệ làm lễ cáo trời đất lên ngôi hoàng đế niên hiệu Quang Trung (25/11/Mậu Thân tức 22/12/1788 tại núi Bân, Phú Xuân) và ngay trong ngày thống lĩnh đại binh thủy bộ lên đường.
Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ ba ngày 22/12/1788 vây Hà Hồi, đánh Ngọc Hồi chiếm Yên Quyết và Khương Thượng… (Tôn sĩ Nghị lên ngựa bỏ chạy không kịp thắng yên cương) dẹp tan 20 vạn quân Thanh, tiến vào Thăng Long ngày 5 tháng giêng Kỷ Dậu ((30/1/1789) ở tuổi 36.
Nguyễn Ánh bấy giờ được Pháp hổ trợ, miệt mài củng cố binh bị.
Tháng 2 (Kỷ Dậu) Nguyễn Huệ về Phú Xuân sau khi đã hoà hiếu với nhà Thanh (cấp lương thực và phóng thích tù binh, tránh bị phục thù). Tháng 6/1790, lệnh tướng Diệu dẹp loạn Lê Duy Chỉ (liên kết với thổ dân Vạn Tượng, Xiêm toan chiếm Nghệ An) và khuất phục vua Ai Lao buộc phải triều cống và vua Miến Điện phải thông hiếu (1791).
Mùa xuân 1792 (Nhâm Tý) được tin Nguyễn Ánh sắp đánh Quy Nhơn, Nguyễn Huệ liền chuẩn bị binh mã chinh Nam nhưng tháng 7 Nhâm Tý (15/9/1792) nhà vua bất ngờ ngã bệnh, mất ở tuổi 39.
Nguyễn Quang Toản nối ngôi (Cảnh Thịnh) mới 13 tuổi, triều chính rơi vào tay cậu ruột là thái sư Bùi Đắc Tuyên. Tuyên lợi dụng củng cố quyền lực, tạo băng đảng gây chia rẽ và hãm hại trung thần.
Năm 1793, quân Nguyễn Ánh chiếm Phú Yên, đánh Quy Nhơn. Nhạc cầu cứu, quân từ Phú Xuân vào. Nhạc mở cửa thành, tướng của Cảnh Thịnh bất ngờ ra lệnh giải giáp quân đội của Nhạc, chiếm giữ các kho tàng khiến Nhạc tức uất thổ huyết chết (con của Nhạc là Nguyễn Bảo cũng bị giáng).
Tây Sơn mỗi ngày mỗi suy yếu, trong lúc Nguyễn Ánh liên tục thua trận này bày trận khác, chủ động tập kích.
Năm 1793, Nguyễn Ánh rút vào Diên Khánh đào hào đắp lũy xây tổng hành dinh, lập xưởng đóng thuyền chiến giao Nguyễn Văn Thành trấn giữ. Năm 1794 Tây Sơn vào vây, Nguyễn Ánh đem binh giải cứu. Diệu tạm rút, năm sau quay lại. Nguyễn Ánh lại từ Gia Định ra, thế trận hai bên cứ vậy giằng co cho đến khi Phú Xuân có biến, Diệu được lệnh triệu về.
Năm 1797, Nguyễn Ánh toan tái chiếm Quy Nhơn song lượng sức không được bèn dong buồm thẳng ra Quảng Nam, cuối cùng cũng phải quây về vì không đủ lương thực. Năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm Quy Nhơn đổi tên thành Bình Định giao Võ Tánh và Ngô Tùng Châu giữ. Năm 1800 quân Tây Sơn vào, thành Bình Định mất, Võ Tánh tự đốt mình.
Thay vì giải vây, Nguyễn Ánh ra tấn công Phú Xuân làm chủ Thuận Hóa, các nơi khác cũng dần lọt vào tay Nguyễn Ánh. Cảnh Thịnh bỏ chạy, Nguyễn Ánh thu ấn truyền quốc và đào mả Nguyễn Huệ nghiền xương, bỏ đầu lâu giam ngục.
Tháng 7 Nhâm Tuất (1802) Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, niên hiệu Gia Long, quốc hiệu Nam Việt (1804, nhà Thanh mới sai sứ sang ban quốc hiệu Việt Nam) tiếp tục đánh chiếm Nghệ An, Thanh Hóa… rồi ra Bắc, vua tôi Tây Sơn lần lượt bị bắt và bị hành hình.
Nhà Tây Sơn bị tuyệt diệt, Nguyễn Ánh tóm thu thiên hạ, bình định đất nước đến năm 1820 thì mất.