Nguyễn Bính và các giai thoại!

T

tranquang

[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Nguyễn Bính và đồng nghiệp đấu khẩu bằng thơ

Trích từ bài viết của Minh Trị (Theo hồi ký Nhớ về rừng U Minh của Hoàng Tấn)
(Nguồn: Văn Nghệ TP HCM)

********************************************************************

Trước ngày bế giảng lớp “Văn nghệ khoá Lê Trần” (1951) ở ấp Đồng Cùng, rừng U Minh, thi sĩ Nguyễn Bính tâm tình với bạn thân Hoàng Tấn: “Mình đã ngoài 30 rồi, sống lẻ loi mãi cũng buồn, mình tính vào khoảng sau hai tháng nữa sẽ cưới vợ”.

Hoàng Tấn ớ ra, cho là “chuyện lạ kháng chiến”. Một thi sĩ đa tình, lại như bèo dạt mây trôi, từng tuyên ngôn qua hai câu thơ: “Sống là sống để mà đi/Con tàu bạn hữu, chuyến xe nhân tình” và đã có “một ngàn lẻ người yêu trong mộng”, bây giờ muốn làm chú rể! Mà cô dâu là ai đây? Hoàng Tấn liền mau mau tranh thủ kể cho anh em trong tiểu đội nghe. Thế là đêm trước ngày Tiểu đội Thơ chia tay, Hoàng Tấn, Hoàng Phố, Thanh Bình, Truy Phong, Kiên Giang, Nguyễn Hải Trừng bày mưu trêu chọc Nguyễn Bính trong cuộc chất vấn - đối thoại bằng thơ hy hữu. Nhà thơ Thanh Bình xung phong “phát pháo” mở đầu.

Thanh Bình (hỏi Nguyễn Bính): Phải chăng ông sắp tuyên hôn?

Truy Phong (bồi tiếp): Bạc tiền không có vợ con nỗi gì?

Nguyễn Bính (thản nhiên): Bạc tiền không có cần chi/Miễn yêu chung thuỷ việc gì cũng xong.

Hoàng Phố: Rằng xong thì Bính dối lòng/Thuốc không có hút còn hòng cưới ai?

Nguyễn Bính (phản ứng): Các anh nghĩ thế là sai/Theo "Đời sống mới" tiền tài kể chi.

Nguyễn Hải Trừng (ở Tiểu đội Họa sang chơi, góp ý): Đứng trong thực tế mà suy/Bạc tiền không có lấy gì tiếp tân?

Nguyễn Bính (bực dọc): Đã mang tiếng bạn bè thân/Đến chơi đâu phải cầu ăn cho nhiều?

Hoàng Phố (khích bác): Bạn bè là chỗ thân yêu/Ít ra cũng phải một "heo" mới vừa.

Nguyễn Bính (trả miếng): Tưởng rằng tình bạn thiết tha/Ai ngờ lại hoá "bạn gà bạn heo"?

Hoàng Tấn (phê phán): Bính ơi xin chớ đặt điều/Bạn người ai lại bạn heo bao giờ?

Nguyễn Bính (chưa nguôi giận): Bạn người uống rượu ngâm thơ/Bạn heo nên mới đợi chờ thịt heo!

Thanh Bình (tấn công): Ông đừng vin cớ ông nghèo/Đơm chuyện đặt điều nói xấu bạn thơ.

Nguyễn Bính (đắc chí): Nào ai xuyên tạc bao giờ/Biết mình đuối lý thì ngơ cho rồi.

Hoàng Tấn (giả lả): Chuyện ăn là chuyện lôi thôi…

Hoàng Phố (lái sang chuyện khác): Nay xin gác lại hỏi chơi chuyện này/Vợ ông con cái nhà ai/Có phải lạc loài nên mới đụng ông?

Nguyễn Bính (trừng mắt): Con ai cũng có giống dòng/Lạc loài đâu phải là không ra gì?/Biết bao nhiêu phận nữ nhi/Cấm cung mà cũng thị phi tiếng đồn.

Truy Phong (đế vô): Cây có cội nước có nguồn…

Hoàng Phố(châm chọc): Lạc loài gái ắt chẳng còn tiết trinh

Nguyễn Bính (chỉ vào mọi người): Tại sao câu nệ chữ trinh/Các ông phong kiến cùng mình chẳng sai…

… Được một thời gian nghe tin Nguyễn Bính cưới một cán bộ phụ nữ tỉnh, mở sạp báo “Nhân Dân Miền Nam” ở Huyện Sử. Gần cuối kháng chiến, nghe máy bay Pháp lượn vòng từ đập đá dài theo kênh chắc băng xuống Thới Bình, rải truyền đơn kêu gọi đích danh tác giả Lỡ bước sang ngang - Nguyễn Bính “quay về với chính nghĩa Quốc gia để được trọng đãi”… Bạn bè xôn xao cho đến khi có người gặp Bính đang làm rẫy ở Hang Mai, chung sống với một phụ nữ Bến Tre vừa sinh mụn con Nguyễn Hương Mai, kế Nguyễn Hồng Cầu.

Tập kết ra Bắc, Nguyễn Bính hướng về Nam bộ, đặc biệt vùng sông nước kháng chiến chống Pháp dạt dào nỗi nhớ: “Thấy dừa lại nhớ Bến Tre/Thấy hoa sen nhớ đồng quê Tháp Mười/Thấy trăng lại nhớ đến người!”, để rồi đêm đêm ngửa mặt nhìn trời thốt lên “…Sao đặc trời cao sáng suốt đêm/Sao đêm chung sáng chẳng chia miền/Trời còn có lúc sao quên mọc/Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em!” (trích Đêm sao sáng).
 
T

tranquang

"Cái thuở ban đầu" của Nguyễn Bính

"Cái thuở ban đầu" của Nguyễn Bính

********************************************************************

(Nhớ và ghi theo lời kể của Nguyễn Bính vào một ngày đầu xuân Giáp Thìn 1964 tại làng Thiện Vịnh quê ông) (Bài viết của Trần văn Tư)


Sau khi rít một hơi thuốc lào, nhả làn khói xanh mờ ra hiên, nhìn sâu vào mắt tôi, với nụ cười tủm tỉm, Nguyễn Bính bắt đầu nói với giông mộc mạc, chân tình: "Ông đừng băn khoăn gì cả, lúc càng buồn, ta càng nên nói chuyện vui, chứ cái anh cứ để cho nỗi buồn chồng chất lên người, nhất định sẽ chết sớm. Mà đời người thì "ngắn chẳng tày gang", cớ gì cứ tự đầu độc mình? Ông muốn biết mình yêu từ khi nào hử?". Nguyễn Bính nhấp một ngụm trà đặc, e hèm một tiếng, đôi mắt xa xăm như đang dõi về những năm tháng xa mờ của đời mình. Giọng ông trầm xuống, chậm rãi:


"Làng Vân Cát quê mình có Hội Phủ Giày thật tuyệt, từ bé mình đã mê những sắc màu xanh đỏ tím vàng của lễ hội tưng bừng, mê hát chầu văn, mê những buổi lên đồng của các con nhang đệ tử, mê quá nên nhiều khi quên cả về nhà. Có thể nói màu sắc âm thanh của lễ hội mãi về sau vẫn còn ám vào thơ mình, gợi lên cái hương vị hồn quê. Năm ấy mình mười bốn tuổi, đầu tháng Ba Âm Lịch về chơi hội, mưa bay cuối xuân đưa chân phơi phới, đang ngồi xem hầu bóng, chợt thấy một cô gái chắc cũng ang áng tuổi mình, mặc áo cánh sen, thắt lưng hoa lý, chít vành khăn nhung, thà chiếc đuôi gà sau gáy, dáng dong dỏng cao, bước đi thanh thoát, y như vừa bước ra từ một bức tranh tố nữ. Người đi bên cô dáng chừng là mẹ, mặt phúc hậu, miệng luôn lẩm nhẩm như tụng kinh. Mình vội đi theo, khi đi ngang qua, nhìn khuôn mặt trái xoan của cô, nước da trắng hồng, mình ngơ ngẩn cả người. Cả buổi ấy, mình cứ đi theo mẹ con cô, lạy cùng lạy, khấn cùng khấn, đôi khi ghé sát bên cô, mong được cô nhìn đến, nhưng cô gái dịu dàng mà nghiêm trang quá, chỉ có một lần đuôi con mắt cô khẽ chạm vào cái nhìn của mình rồi quay vội đi. Phủ ở giữa, một bên chùa, một bên đền, khách thập phương nối nhau đi từng dòng, khói hương chỗ mịt mù, nơi thoang thoảng, mọi thứ đối với mình đều như mơ hồ, chỉ có bóng cô gái là không rời khỏi mắt mình.

Mình theo riết cô ấy từ Phủ Giầy (làng Vân Cát) sang Phủ chính (làng Tiên Hương), đến ngày thứ tư thì lén giúi vào tay cô mấy câu thơ, đến nay vẫn chưa quên:

Em ở cõi trần hay cõi tiên
Phủ đền nhang khói nức hương em
Xin đi chầm chậm cho theo với
Lộc thánh dâng người một trái tim

Hồi hộp và vui sướng nhất là cô nhanh nhẹn cầm lấy mảnh giấy, mắt cô ngó lơ nơi khác, chà "Giai nhân thông thái tự sinh thành!". Chiều ngày thứ năm (lễ hội diễn ra trong mười ngày), trong khi mẹ cô đang say sưa với phiên hầu bóng của một đồng cô nổi tiếng là múa đẹp, cô gái lẻn bước ra ngoài. Cơ hội ngàn vàng đến với mình, mình theo bén gót ra cửa phủ. Chợt cô dừng lại nói như bâng quơ: "Mai về Mỹ Trọng rồi!" (Mỹ Trọng nay thuộc Nam Định, lúc ấy là một làng ngoạy thành). Mình đánh bạo nắm lấy bàn tay cô nhưng cô rụt lại, quay nhanh vào chỗ hầu bóng. Một cảm xúc bồi hồi dâng lên trong lòng mình, hiểu rằng hình ảnh của cô đã in vào tâm khảm của mình rồi ! Hôm sau mình quyết chí theo mẹ con cô về tận Mỹ Trọng. Nhà cô ở gần một cái chợ, vào loại khá giả, có năm người con, cô thứ tư, chưa hề được đi học nhưng nhờ người anh dạy chữ quốc ngữ nên cũng biết đọc biết viết. Mình trao đổi những bức thư ngắn ngủi với cô, được gặp cô mấy lần ở chợ, biết tên cô là Ngọc Lan. Mỗi lần được gặp, về nhà lại cắm đầu làm thơ, xao nhãng cả việc học hành, bị ông anh Trúc Đường mắng mấy lần nhưng vẫn không chừa. Chừng ba tháng sau thì người tiên biến mất: Bố mẹ cô bán nhà chuyển đi nơi khác, cô không kịp báo, thế là "bóng chim tăm cá", mình bị hụt hẫng, chao đảo mất một thời gian.

Rồi sóng gió cuộc đời xô dạt, rung cảm của con tim thuở 14, 15 tưởng như gió thoảng hương bay. Nào ngờ cái màu áo cánh sen, thắt lưng hoa lý ấy cứ đeo đẳng bên lòng, đến nỗi từ ấy đến giờ, hễ cứ thoảng mùi hương khói, trong tâm thức mình lại hiện lên hình ảnh cô thiếu nữ yêu kiều trẩy Hội Phủ Giầy, lòng không khỏi bâng khuâng tiếc nhớ những ngày tươi đẹp!".



(Theo Kiến Thức Ngày Nay)
 
T

tranquang

Bà con cứ đọc và cho ý kiến, nếu thấy hứng thú thì tranquang này sẽ update thêm vài cái truyện hay ho về cụ Nguyễn Bính lên. Cho ý kiến bình phẩm về truyện trích dẫn!
Chào thân ái và quyết thắng!
 
T

tranquang

Bài viết của Phạm Chu Sa

*******************************************************************


Thời trẻ tuổi, chàng thi sĩ chân quê Nguyễn Bính nổi tiếng vì những mối tình trong thơ, và sau đó với những chuyến giang hồ từ Bắc vào Nam. Nguyễn Bính ở lại Sài Gòn, về miền Tây Nam bộ, đến Hà Tiên ở chơi nhà vợ chồng Đông Hồ Mộng Tuyết một thời gian rồi lên lại Sài Gòn. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ ở Nam bộ, Nguyễn Bính tham gia từ những ngày đầu. Năm 1951, Nguyễn Bính lấy người vợ đầu tiên ở Khu 9, đến năm 1954 thì tập kết ra Bắc.

Tôi có dịp tìm đến thăm “người vợ miền Nam” – người vợ đầu tiên của Nguyễn Bính – bà Nguyễn Hồng Châu và cô con gái đầu lòng của nhà thơ, cô Nguyễn Bính Hồng Cầu ở ngoại ô TP. HCM. Năm nay đã 75 tuổi, nhưng bà Nguyễn Bính vẫn còn khỏe và rất minh mẫn. Giọng chậm rãi, mạch lạc, bà kể:

- Có thể nói cuộc tình duyên của tôi với Nguyễn Bính ban đầu là một cuộc “tình duyên chính trị”. Hồi bấy giờ, khoảng 50-51, khu kháng chiến đang gặp nhiều khó khăn, anh Bính bị sốt rét, thiếu ăn thiếu thuốc, tinh thần sa sút. Đảng sợ anh suy sụp bỏ về thành phố, mới bàn tính cưới vợ cho Nguyễn Bính để giữ anh ở lại. Tổ chức đề nghị tôi lấy anh. Trong khu lúc bấy giờ tôi cũng thuộc loại có học, biết ăn nói. Tôi dạy văn cho Trường Thiếu sinh quân Khu 9, làm thơ viết báo (tôi đang làm báo “Tiếng súng kháng địch” cùng với Sơn Nam). Ban đầu tôi không đồng ý vì tự ái. Anh Lê Duẩn bấy giờ là Bí thư Xứ ủy Kỳ và anh Lưu Quý Kỳ, Xứ ủy viên, cùng đến động viên tôi. Tôi về hỏi ý kiến mẹ, mẹ đồng ý. Dĩ nhiên tôi phải nghe theo. Lễ tuyên hôn của chúng tôi mặc dù chẳng có gì, nhưng có lẽ là lớn nhất trong Khu 9 lúc bấy giờ và rất cảm động. Hội Văn nghệ Khu 9 tặng anh Bính một cái mùng (bấy giờ quý lắm), anh lãnh giải thưởng gì đó được một bộ đồ để mặc hôm tuyên bố. Thời gian đầu sau khi lấy nhau khá vui, đầm ấm. Anh Bính bị sốt rét, tôi có được đồng nào là đi mua cá về nấu cho anh ăn. Tôi rất hiểu và thông cảm với anh, nhưng anh rất phong kiến, nóng tính và đặc biệt hay ghen.

- Bác có thể kể vài kỷ niệm vui giữa hai người ?

- À ! Tôi nhớ cái Tết đầu tiên sau khi chúng tôi lấy nhau, bạn bè và đồng bào đem đến cho cơ man nào là bánh tét, chất đầy cả một giường. Tôi bàn với anh Bính đem cho các chiến sĩ ở bên kia sông. Hai vợ chồng người khiêng, người xách khi tới cây cầu khỉ bắc qua sông, anh Bính không dám đi. Cầu khỉ chòng chành, khiêng xách nặng, anh sợ té. Phải chờ mãi mới có ghe đi ngang qua cho chúng tôi quá giang. Nghe chuyện ai cũng cười.

Bà Hồng Châu hồi tưởng:

- Trước nhà chúng tôi là một con rạch quanh năm nước đỏ ngầu, nhưng những đêm trăng sáng nước sóng sánh như dát vàng. Chúng tôi thường ngồi nhìn trăng trên mặt nước. Anh Bính đọc thơ, tôi thỉnh thoảng cũng chêm vào vài câu. Chúng tôi cũng thường làm thơ đối đáp châm chọc nhau. Thời gian này thấy vợ chồng tôi khó khăn, Đảng chuyển tôi sang phụ trách công tác phát hành sách báo để có đồng ra đồng vô, lo cho anh Bính. Nhưng cũng vì lo phát hành, thường vắng nhà anh Bính sinh ghen, vợ chồng lại lục đục. Sau khi sinh Hồng Cầu được ít lâu, tôi nghe anh Bính quan hệ với một phụ nữ khác, tôi xin ly dị nhưng tổ chức không đồng ý. Từ đó tôi vẫn giữ một khoảng cách với anh cho tận ngày anh xuống tàu tập kết ra Bắc… Người phụ nữ sau này sinh cho anh một đứa con gái, tôi đặt tên là Hương Mai (do gia đình người phụ nữ ấy ở gần rạch Hang Mai – sau này gọi là ấp Hương Mai, một khu vực rất nhiều khỉ nên cũng gọi là Rạch Khỉ).

Kể đến đây bà Hồng Châu trầm ngâm. Chị Hồng Cầu ngồi bên nói nhỏ: “Thôi mẹ kể những chuyện buồn ấy làm gì. Ba cũng có lý do của ba”. Rồi quay sang tôi, Hồng Cầu nói: “Hồi nhỏ, tôi cũng giận ba tôi lắm. Nhưng lớn lên tìm hiểu, tôi vỡ lẽ, đời ba tôi bất hạnh nhiều. Nhiều vợ nhưng không ai hiểu ông. Và ông cứ phải đi tìm cái bóng hạnh phúc cho đến khi nhắm mắt xuôi tay vào đêm giao thừa năm 1966”. Bà Hồng Châu nói thêm:

- Tôi hiểu anh Bính, anh ấy rất lãng mạn, lãng tử nhưng rất có lòng nhân, là người tốt, thương người và chịu trách nhiệm về những gì mình đã làm. Thời gian còn ở Khu, anh sống và lo cho mẹ con Hương Mai cho đến khi tập kết. Sau khi anh đi, người phụ nữ kia lấy chồng khác, bé Hương Mai phải mang họ cha ghẻ. Tôi thương nó như Hồng Cầu, đôi khi có phần hơn, vì nó thiếu cả cha lẫn mẹ… Sau ngày giải phóng, tôi tìm Hương Mai và làm mọi cách để xác minh lý lịch cho nó là con Nguyễn Bính để có thể ngẩng cao đầu. May là nó có một người cậu lo cho ăn học. Bây giờ Hương Mai làm Phó phòng Giáo dục một huyện ở Vĩnh Long.

Bà Châu kể tiếp: “Nội cái chuyện đặt tên con mà tôi với ảnh gây nhau cũng mấy lần. Trước đó ảnh đòi đặt tên Anh Thơ nhưng tôi không đồng ý, mặc dù tôi rất tôn trọng chị Anh Thơ và mối tình đẹp nổi tiếng của ảnh. Đến khi sinh Hương Mai, ảnh cũng tính lấy tên Anh Thơ đặt cho nó. Tôi phản đối kịch liệt, ảnh mới chịu nhường để tôi đặt tên Hương Mai.

- Thưa bác, từ sau 1954 đến khi bác trai mất ở miền Bắc, hai người có liên lạc hay có tin tức gì nhau không ?

- Sau 1954 tôi đưa Hồng Cầu về Sài Gòn làm đủ nghề kiếm sống và hoạt động. Đến năm 1957, tôi xuống Kiên Giang. Khi đồng khởi 1960, tôi ra Khu. Năm 1962 tôi có gởi thư cho anh qua một người mang ra Bắc, đi ngả Campuchia. Sau đó tôi nghe đài Hà Nội đọc bài thơ Lá Thư Nhà của Nguyễn Bính. Tôi nghĩ là anh ấy nhận được thư tôi và trả lời bằng cách ấy.

- Khi bác trai mất, bác có biết không ?

- Mấy tháng sau tôi mới biết qua đài Hà Nội.

Bà Hồng Châu ngừng nói, đưa tay chỉ cái khung kính lồng một bài thơ của Nguyễn Bính tự tay viết rất bay bướm, được thêu trên lụa. Bà nói bức thêu đó do chính tay cô Thanh, người vợ thứ ba của Nguyễn Bính tặng bà hồi năm 1982 khi bà ra Hà Nội thăm gia đình chồng và tìm thăm cô Thanh. Giọng bà lắng xuống: “Cô Thanh là một người rất tốt, có học, nhỏ hơn anh Bính đến 20 tuổi, gia đình tử tế, rất yêu anh Bính… Rất tiếc…”.

Đêm cuối năm phương Nam trời trở lạnh. Tưởng như Nguyễn Bính vẫn ngồi uống rượu với bạn bè ngoài phố, vừa uống vừa ngâm một đoạn trong Hành Phương Nam:

Ta đi nào biết về đâu nhỉ ?
Đã dấy phong yên lộng bốn trời…
 
Q

quinhmei

Giai Thoai Nhà Thơ Nguyễn Bính

Giai Thoai Nhà Thơ Nguyễn Bính
Tại Nam Định ngày ấy có một nhóm văn nghệ sĩ chơi với nhau:
Nguyễn Bính, Nguyệt Hồ, Vũ Hoàng Chương, Phong Giao, Trúc Đường…
Nhưng nhóm này không chỉ quan hệ bạn bè khép kín trong phạm vi một tỉnh mà họ còn chơi với nhiều văn nghệ sĩ Thủ đô và các tỉnh khác như Tô Hoài, Lê Tràng Kiều, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Anh Thơ, Ngân Giang, Nguyễn Vĩ, Hoàng Tấn, Trúc Khê, Vũ Trọng Can, Trúc Sơn, Hoàng Lập Ngôn, Trương Tửu…
Trong số bạn bè văn chương thời đó, Nguyễn Bính được coi là người hay chữ nhất. Ông thường xuất khẩu thành thơ và những áng thơ đó không hề xoàng xĩnh.
Đây là câu chuyện vào thời kỳ Nguyễn Bính đã phải rời báo “Trăm hoa” về làm việc ở Ty Văn hóa Nam Định. Cái đêm ấy chắc phải thức khuya sáng tác nên hôm sau tới nhà bạn chơi, trông Nguyễn Bính lờ đờ mệt mỏi. Họa sĩ Nguyệt Hồ liền “xuất khẩu” bài thơ “tục” chơi chữ rất sành điệu trêu Nguyễn Bính:
Văn nghệ hay là văn gừng
Sao ông lửng khửng lừng khừng vậy ôi?
Hay là tối đã tác rồi
Sáng không tác được mệt nhoài tứ chi?
Cứ tưởng Nguyễn Bính đang mệt thế không ứng đối ngay được, không ngờ ông nhấp một ngụm nước rồi đọc luôn:
Sáng tác hay là tối tác đây?
Tối không tác đủ tác ban ngày
Xem ra sáng tác không bằng tối
Tối tác, ông ơi, sướng gấp hai!
Các bạn ngồi đó đều cười, gật gù khen tài ứng đối của Nguyễn Bính. Nhưng cũng có khi vì cách chơi chữ quá sắc sảo mà Nguyễn Bính làm mất bạn.
Nguyễn Bính chơi thân với một nhà thơ nữ còn trẻ, nhưng nàng lại “dính bùa yêu” của một người nhiều gấp đôi tuổi nàng. Năm 1954, Nguyễn Bính từ miền Nam tập kết ra Bắc, ông tìm đến thăm nữ nhà thơ nọ. Nữ nhà thơ tiếp ông thân ái.
Nàng để đĩa cam lên bàn. Trong lúc nàng hí húi bổ cam mời Nguyễn Bính thì ông đã viết xong hai câu thơ toàn vần C để trêu bạn, nhét xuống dưới đĩa cam:
Cô cầm cam, cụ cầm cô, cô cứ cỳ cèo co céo cụ
Cụ càng cao, cô càng cáu, cô càng cay cú cái cò con!
Nguyễn Bính về rồi, nữ sĩ đọc bài thơ giận tím mặt. Nàng quyết định cắt đứt quan hệ với Nguyễn Bính. Bạn bè biết chuyện liền có thơ giễu lại Nguyễn Bính:
Chơi chữ cam, chơi chữ chua cay, câu chuyện cũ càng, còn cáu kỉnh. Cô cấm cửa, cuối cùng cũng cắt!
Tuy nhiên, chuyện “không nhìn mặt nhau nữa” như trường hợp với nữ sĩ kia không xảy ra nhiều trong đời Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính rất dễ yêu song cũng hay thất tình. Mỗi lần thất tình ông thường trút nỗi niềm vào thơ. Những bài thơ như thế của Nguyễn Bính thường là hay.
Chẳng hạn, một lần Nguyễn Bính cùng Vũ Hoàng Chương nhảy tàu hỏa lên Bắc Giang chơi. Ở đây Nguyễn Bính có một người bạn là nhà thơ Bàng Bá Lân. Bàng Bá Lân cùng nhóm thơ Bắc Giang mới lập một hội gọi là “Tao đàn Sông Thương”.
Tại Tao đàn này có một nữ sĩ, rất xinh đẹp từng hút hồn Nguyễn Bính bấy nay. Nguyễn Bính “kết lắm”, nhưng nữ sĩ thì có vẻ chỉ mê thơ chàng chứ không mặn mà với con người chàng cho lắm.
Lần này Nguyễn Bính kéo Vũ Hoàng Chương lên để mong sự trợ giúp của bạn cho cuộc tình đi đến độ đơm hoa kết trái. Nhưng không ngờ tình hình càng trở nên xấu đi.
Trên đường về, ngồi trong toa tàu, Nguyễn Bính đã làm tức thì những câu thơ và đọc cho Vũ Hoàng Chương nghe:
Sông Thương nước chảy đôi dòng
Bao giờ bên đục bên trong hài hòa
Ngậm ngùi một bước một xa
Đến đây là… đến đây là… là thôi!
Cái câu “Đến đây là… đến đây là… là thôi!” thật kỳ tài. Chỉ có tâm trạng kẻ thất tình thì câu thơ mới dùng dằng, ngắt quãng kiểu ấy. Về sau, hai câu cuối của Nguyễn Bính đưa vào bài “Rượu xuân”.
Các nhà thơ thời Thơ Mới, dù sống ở tỉnh lẻ như Nguyễn Bính cũng ít nhiều biết chút tiếng Hán, tiếng Pháp. Vốn chữ Hán không nhiều nhưng Nguyễn Bính dịch thì rất giỏi.
Một lần tại tòa soạn báo “Tiều thuyết thứ năm” hội ngộ khá đông bạn bè, Nguyễn Bính muốn có chút tiền khao các bạn một bữa, ông liền đề nghị mọi người thi dịch thơ. Ông chủ bút Lê Tràng Kiều cũng hưởng ứng, liền “ra đề” bằng một bài thơ Đường:
Hoàng mai thời thiết gia gia vũ
Phương thảo trì đường cứ cứ oa
Hữu ước bất lai hoa dạ bán
Nhàn sao kỳ tử lạc đăng hoa
Mọi người cầm bút dịch, gạch xóa mãi chưa xong thì Nguyễn Bính đã xin được đọc bản dịch của mình:
Ao hồ tiếng ếch gần xa
Cỏ thơm ngào ngạt, ngoài nhà mưa rơi
Nửa đêm cái hẹn sai rồi
Quân cờ gỗ nhảm làm rơi hoa đèn
Mọi người phải thừa nhận bài thơ Nguyễn Bính dịch khá hay. Ông chủ bút Lê Tràng Kiều cao hứng liền “ra” tiếp “đề” khác:
Nhất ấp xuân giao vạn lý tình
Đoạn trường phương thảo, đoạn trường oanh
Nguyễn tương song lệ đồ vi vũ
Minh nhật lưu quân bất xuất thành
Lần này Nguyễn Bính lại dịch xong đầu tiên:
Một chén tiễn đưa tình vạn lý
Oanh buồn rầu rĩ, cỏ buồn phai
Mong đem lệ tưới thành mưa lớn
Ngăn bước đường anh buổi sớm mai
Nghe đến đây mọi người lặng đi vì bài dịch quá hay. Ông chủ bút đành phải “ra đề” dễ hơn cho các nhà thơ khác tham gia dịch. Song cũng chỉ dịch thêm vài bài nữa là ông cho dừng lại vì nó liên quan đến số tiền nhuận bút ông phải thưởng.
Hôm ấy, Nguyễn Bính giật giải nhất. Số tiền đủ để ông khao cả nhóm bạn tại một quán ăn khá sang trọng của Hà thành.
Sinh hoạt, quan hệ của các nhà thơ trẻ hồi ấy là thế. Tài năng và phong cách sống của Nguyễn Bính là thế. Họ không giầu. Vả lại họ không quá câu nệ vật chất trong cư xử. Cách họ giao kết bạn bè thật trọng thị, chí tình chí nghĩa. Có lẽ đấy mới là cái tình đích thực của thi nhân!
Thị trấn Liễu Đề, tháng 12, năm 2006
Nhà văn Lê Hoài Nam
(Nguồn Tiền phong)
 
  • Like
Reactions: tranquang
V

vosanhathanh

Mấy bai trên rất hay mà sao không thấy anh Quang và chị quinhmei post tiếp vậy ạ ? Nếu được anh chị có thể post thêm cho phong phú được không ? Em rất thích thơ của Nguyễn Bính vì thế khó mà bỏ qua được những câu chuyện đời của nhà thơ vốn dĩ rất " đời " này . Cảm ơn các mod bõ văn đã sưu tầm về cho em có cái đọc :".
 
Top Bottom