Sử Người dùng kinh Dịch tiên đoán về cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên

Thái Minh Quân

Cựu Cố vấn Lịch sử | Cựu Chủ nhiệm CLB Lịch sử
Thành viên
29 Tháng mười 2018
3,304
4,365
561
TP Hồ Chí Minh
THCS Nguyễn Hiền
[TẶNG BẠN] TRỌN BỘ Bí kíp học tốt 08 môn
Chắc suất Đại học top - Giữ chỗ ngay!!

ĐĂNG BÀI NGAY để cùng trao đổi với các thành viên siêu nhiệt tình & dễ thương trên diễn đàn.

Người dùng Kinh Dịch tiên đoán về cuộc chiến chống quân Nguyên

Trần Thì Kiến người làng Cự Xạ, huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay là thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh), là một vị tể tướng Đại Việt, từng dùng Kinh Dịch để tiên đoán về cuộc chiến chống quân Nguyên. Ông là người có tài năng, được Hưng Đạo Vương mến mộ giữ lại nhà làm môn khách. Sau đó Hưng Đạo Vương tiến cử ông lên vua Trần Nhân Tông, ông được phong làm An phủ sứ phủ Thiên Trường.



(Tranh minh họa từ Báo Bình Phước Online)
Thiên Trường là nơi xuất sinh của nhà Trần, các vua Trần sau khi nhường ngôi cho con lên làm Thượng Hoàng đều lui về ở Thiên Trường. Thượng Hoàng có hành cung riêng ở Thiên Trường và giám sát cả Thăng Long. Vì thế chỉ những ai được tin tưởng mới được cử làm An phủ sứ Thiên Trường. Điều này cho thấy sự tin tưởng của Triều đình dành cho Trần Thì Kiến.
Theo sử sách ghi chép thì Trần Thì Kiến giỏi về Kinh Dịch. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép rằng:
“Trước đây, quân Nguyên vào cướp nước ta, vua sai Thì Kiến bói, được quẻ Dự biến sang quẻ Chấn là tốt. Mùa hạ năm sau, quân Nguyên đại bại, quả đúng như lời đoán.”
Đây là nói về cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ hai. Theo đó, sau khi đánh tan nhà Tống, quân Nguyên tiếp tục mưu đồ tràn xuống phía Nam. Ngay từ tháng 8/1279, sau khi diệt nhà Tống, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.
Năm 1285, Hốt Tất Liệt phong cho con trai Thoát Hoan là Trấn Nam Vương dẫn hàng chục vạn quân tiến đánh Đại Việt. Thế nhưng vó ngựa đại quân Nguyên Mông vốn giày xéo khắp nơi từ Á sang Âu đã bị chặn lại. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh tên của quân Đại Việt rồi bắt lính khiêng chạy trối chết về nước. Quân Đại Việt vượt qua cả biên giới tiến sâu vào châu Tư Minh của Trung Quốc để tiêu diệt giặc, khiến quân Nguyên hoảng sợ.
Sau đó, trước cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ ba, Trần Thì Kiến lại dùng Kinh Dịch để tiên đoán Đại Việt toàn thắng. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép:
“Mùa thu năm Trùng Hưng thứ hai, quân Nguyên lại vào cướp, vua lại sai bói, được quẻ Quán biến sang quẻ Hoán, đoán: Hoán nghĩa là tan, là điềm giặc tan. Sau quân Nguyên đến sông Bạch Đằng, quả nhiên tan chạy.”
Cuộc chiến lần ba này có thể tóm tắt ngắn gọn như sau:
Tháng 12/1287, 50 vạn đại quân Nguyên Mông vượt biên giới tiến đánh Đại Việt. Quân Mông Cổ chia làm 3 cánh, trong đó cánh quân thủy đặt dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi tiến vào vùng biển Đại Việt. Quân Đại Việt tổ chức chặn đánh nhằm tiêu hao bớt rồi rút ngay nhằm bảo toàn lực lượng. Trần Khánh Dư lập công phá đội thuyền lương của giặc, 70 vạn thạch lương chìm xuống biển. Thiếu lương, quân Nguyên sau một thời gian gặp cảnh “vườn không nhà trống” đã phải tính đường rút về nước. Hưng Đạo Vương nhân đó quyết định đánh một trận lớn tại sông Bạch Đằng. Kết quả quân nhà Trần đại thắng, bắt được hơn 400 chiến thuyền quân Nguyên, bắt được tướng Nguyên là Tích Lệ Cơ và Ô Mã Nhi.
Như vậy có thể thấy trong hai lần chống quân Nguyên, Trần Thì Kiến đều tiên đoán đúng kết quả.
Năm 1297, vua Trần Anh Tông phong Trần Thì Kiến làm Đại An Phủ Kinh Sư, chuyên về kiểm pháp, sau thăng đến chức Hành Khiển Gián Nghị.
Trần Thì Kiến làm quan nổi tiếng thanh kiêm và công bằng khi xử kiện. Tương truyền rằng có người cùng quê nhân ngày giỗ mời ông mâm cỗ, rồi sau đó ngỏ ý muốn xin xỏ, ông liền móc họng nôn ra trả lại. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét rằng: “Thì Kiến hành động lạ lùng quá mức để uốn nắn cái tệ xin xỏ của người thời bấy giờ”.
Người đương thời cho rằng ông có khả năng “Khả dĩ chiết ngục” nghĩa là khả năng phân tích hết mọi lý lẽ rồi mới kết tội, khiến phạm nhân chịu phục không còn gì để nói.
Vua Trần Anh Tông ban tặng Trần Thì Kiến chiếc “hốt” ngà (“hốt” có nghĩa là “thủ bản” vua quan dùng khi thiết triều để nếu có việc thì ghi chép cho khỏi quên) có khắc bài “minh ngự chế” như sau:
Thái Sơn trinh cao
Tượng hốt trinh liệt
Linh trãi tiến giác
Vi hốt nan chiết
Nghĩa là:
Thái sơn rất cao
Hốt ngà rất cứng
Linh trãi dâng sừng
Làm hốt khó gãy
Vì làm quan thanh liêm Trần Thì Kiến được thăng chức dần lên Tả bộc xạ (tương đương Tể tướng). Các quan đời sau đều xem ông là gương sáng để học tập, vua Tự Đức cũng từng làm bài vịnh ca ngợi tài đức của ông.
Trần Hưng

Nguồn: m.trithucvn.net
 
  • Like
Reactions: Dora_Dora

Dora_Dora

Học sinh chăm học
Thành viên
15 Tháng tư 2016
461
267
101
21
Thái Nguyên
THPT CTN
Người dùng Kinh Dịch tiên đoán về cuộc chiến chống quân Nguyên

Trần Thì Kiến người làng Cự Xạ, huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay là thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh), là một vị tể tướng Đại Việt, từng dùng Kinh Dịch để tiên đoán về cuộc chiến chống quân Nguyên. Ông là người có tài năng, được Hưng Đạo Vương mến mộ giữ lại nhà làm môn khách. Sau đó Hưng Đạo Vương tiến cử ông lên vua Trần Nhân Tông, ông được phong làm An phủ sứ phủ Thiên Trường.



(Tranh minh họa từ Báo Bình Phước Online)
Thiên Trường là nơi xuất sinh của nhà Trần, các vua Trần sau khi nhường ngôi cho con lên làm Thượng Hoàng đều lui về ở Thiên Trường. Thượng Hoàng có hành cung riêng ở Thiên Trường và giám sát cả Thăng Long. Vì thế chỉ những ai được tin tưởng mới được cử làm An phủ sứ Thiên Trường. Điều này cho thấy sự tin tưởng của Triều đình dành cho Trần Thì Kiến.
Theo sử sách ghi chép thì Trần Thì Kiến giỏi về Kinh Dịch. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép rằng:
“Trước đây, quân Nguyên vào cướp nước ta, vua sai Thì Kiến bói, được quẻ Dự biến sang quẻ Chấn là tốt. Mùa hạ năm sau, quân Nguyên đại bại, quả đúng như lời đoán.”
Đây là nói về cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ hai. Theo đó, sau khi đánh tan nhà Tống, quân Nguyên tiếp tục mưu đồ tràn xuống phía Nam. Ngay từ tháng 8/1279, sau khi diệt nhà Tống, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.
Năm 1285, Hốt Tất Liệt phong cho con trai Thoát Hoan là Trấn Nam Vương dẫn hàng chục vạn quân tiến đánh Đại Việt. Thế nhưng vó ngựa đại quân Nguyên Mông vốn giày xéo khắp nơi từ Á sang Âu đã bị chặn lại. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh tên của quân Đại Việt rồi bắt lính khiêng chạy trối chết về nước. Quân Đại Việt vượt qua cả biên giới tiến sâu vào châu Tư Minh của Trung Quốc để tiêu diệt giặc, khiến quân Nguyên hoảng sợ.
Sau đó, trước cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ ba, Trần Thì Kiến lại dùng Kinh Dịch để tiên đoán Đại Việt toàn thắng. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép:
“Mùa thu năm Trùng Hưng thứ hai, quân Nguyên lại vào cướp, vua lại sai bói, được quẻ Quán biến sang quẻ Hoán, đoán: Hoán nghĩa là tan, là điềm giặc tan. Sau quân Nguyên đến sông Bạch Đằng, quả nhiên tan chạy.”
Cuộc chiến lần ba này có thể tóm tắt ngắn gọn như sau:
Tháng 12/1287, 50 vạn đại quân Nguyên Mông vượt biên giới tiến đánh Đại Việt. Quân Mông Cổ chia làm 3 cánh, trong đó cánh quân thủy đặt dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi tiến vào vùng biển Đại Việt. Quân Đại Việt tổ chức chặn đánh nhằm tiêu hao bớt rồi rút ngay nhằm bảo toàn lực lượng. Trần Khánh Dư lập công phá đội thuyền lương của giặc, 70 vạn thạch lương chìm xuống biển. Thiếu lương, quân Nguyên sau một thời gian gặp cảnh “vườn không nhà trống” đã phải tính đường rút về nước. Hưng Đạo Vương nhân đó quyết định đánh một trận lớn tại sông Bạch Đằng. Kết quả quân nhà Trần đại thắng, bắt được hơn 400 chiến thuyền quân Nguyên, bắt được tướng Nguyên là Tích Lệ Cơ và Ô Mã Nhi.
Như vậy có thể thấy trong hai lần chống quân Nguyên, Trần Thì Kiến đều tiên đoán đúng kết quả.
Năm 1297, vua Trần Anh Tông phong Trần Thì Kiến làm Đại An Phủ Kinh Sư, chuyên về kiểm pháp, sau thăng đến chức Hành Khiển Gián Nghị.
Trần Thì Kiến làm quan nổi tiếng thanh kiêm và công bằng khi xử kiện. Tương truyền rằng có người cùng quê nhân ngày giỗ mời ông mâm cỗ, rồi sau đó ngỏ ý muốn xin xỏ, ông liền móc họng nôn ra trả lại. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét rằng: “Thì Kiến hành động lạ lùng quá mức để uốn nắn cái tệ xin xỏ của người thời bấy giờ”.
Người đương thời cho rằng ông có khả năng “Khả dĩ chiết ngục” nghĩa là khả năng phân tích hết mọi lý lẽ rồi mới kết tội, khiến phạm nhân chịu phục không còn gì để nói.
Vua Trần Anh Tông ban tặng Trần Thì Kiến chiếc “hốt” ngà (“hốt” có nghĩa là “thủ bản” vua quan dùng khi thiết triều để nếu có việc thì ghi chép cho khỏi quên) có khắc bài “minh ngự chế” như sau:
Thái Sơn trinh cao
Tượng hốt trinh liệt
Linh trãi tiến giác
Vi hốt nan chiết

Nghĩa là:
Thái sơn rất cao
Hốt ngà rất cứng
Linh trãi dâng sừng
Làm hốt khó gãy

Vì làm quan thanh liêm Trần Thì Kiến được thăng chức dần lên Tả bộc xạ (tương đương Tể tướng). Các quan đời sau đều xem ông là gương sáng để học tập, vua Tự Đức cũng từng làm bài vịnh ca ngợi tài đức của ông.
Trần Hưng

Nguồn: m.trithucvn.net
K biết Kinh Dịch ngày xưa có thật sự linh n0 k và nó dựa trên cơ sở gì nhỉ :D:D

Ps: kinh Dịch ở triết học đó, 64 quẻ của kinh tiên đoán vận mệnh con người, sự vận động của thế giới khách quan. Nguồn gốc của kinh Dịch chính là thuyết Âm Dương, một phần thuyết Ngũ hành của TQ cổ đại
 
  • Like
Reactions: Thái Minh Quân

Junery N

Cựu Hỗ trợ viên
HV CLB Địa lí
Thành viên
23 Tháng mười một 2019
4,605
12,667
996
Nam Định
In the sky
Người dùng Kinh Dịch tiên đoán về cuộc chiến chống quân Nguyên

Trần Thì Kiến người làng Cự Xạ, huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay là thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh), là một vị tể tướng Đại Việt, từng dùng Kinh Dịch để tiên đoán về cuộc chiến chống quân Nguyên. Ông là người có tài năng, được Hưng Đạo Vương mến mộ giữ lại nhà làm môn khách. Sau đó Hưng Đạo Vương tiến cử ông lên vua Trần Nhân Tông, ông được phong làm An phủ sứ phủ Thiên Trường.



(Tranh minh họa từ Báo Bình Phước Online)
Thiên Trường là nơi xuất sinh của nhà Trần, các vua Trần sau khi nhường ngôi cho con lên làm Thượng Hoàng đều lui về ở Thiên Trường. Thượng Hoàng có hành cung riêng ở Thiên Trường và giám sát cả Thăng Long. Vì thế chỉ những ai được tin tưởng mới được cử làm An phủ sứ Thiên Trường. Điều này cho thấy sự tin tưởng của Triều đình dành cho Trần Thì Kiến.
Theo sử sách ghi chép thì Trần Thì Kiến giỏi về Kinh Dịch. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép rằng:
“Trước đây, quân Nguyên vào cướp nước ta, vua sai Thì Kiến bói, được quẻ Dự biến sang quẻ Chấn là tốt. Mùa hạ năm sau, quân Nguyên đại bại, quả đúng như lời đoán.”
Đây là nói về cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ hai. Theo đó, sau khi đánh tan nhà Tống, quân Nguyên tiếp tục mưu đồ tràn xuống phía Nam. Ngay từ tháng 8/1279, sau khi diệt nhà Tống, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.
Năm 1285, Hốt Tất Liệt phong cho con trai Thoát Hoan là Trấn Nam Vương dẫn hàng chục vạn quân tiến đánh Đại Việt. Thế nhưng vó ngựa đại quân Nguyên Mông vốn giày xéo khắp nơi từ Á sang Âu đã bị chặn lại. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh tên của quân Đại Việt rồi bắt lính khiêng chạy trối chết về nước. Quân Đại Việt vượt qua cả biên giới tiến sâu vào châu Tư Minh của Trung Quốc để tiêu diệt giặc, khiến quân Nguyên hoảng sợ.
Sau đó, trước cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ ba, Trần Thì Kiến lại dùng Kinh Dịch để tiên đoán Đại Việt toàn thắng. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép:
“Mùa thu năm Trùng Hưng thứ hai, quân Nguyên lại vào cướp, vua lại sai bói, được quẻ Quán biến sang quẻ Hoán, đoán: Hoán nghĩa là tan, là điềm giặc tan. Sau quân Nguyên đến sông Bạch Đằng, quả nhiên tan chạy.”
Cuộc chiến lần ba này có thể tóm tắt ngắn gọn như sau:
Tháng 12/1287, 50 vạn đại quân Nguyên Mông vượt biên giới tiến đánh Đại Việt. Quân Mông Cổ chia làm 3 cánh, trong đó cánh quân thủy đặt dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi tiến vào vùng biển Đại Việt. Quân Đại Việt tổ chức chặn đánh nhằm tiêu hao bớt rồi rút ngay nhằm bảo toàn lực lượng. Trần Khánh Dư lập công phá đội thuyền lương của giặc, 70 vạn thạch lương chìm xuống biển. Thiếu lương, quân Nguyên sau một thời gian gặp cảnh “vườn không nhà trống” đã phải tính đường rút về nước. Hưng Đạo Vương nhân đó quyết định đánh một trận lớn tại sông Bạch Đằng. Kết quả quân nhà Trần đại thắng, bắt được hơn 400 chiến thuyền quân Nguyên, bắt được tướng Nguyên là Tích Lệ Cơ và Ô Mã Nhi.
Như vậy có thể thấy trong hai lần chống quân Nguyên, Trần Thì Kiến đều tiên đoán đúng kết quả.
Năm 1297, vua Trần Anh Tông phong Trần Thì Kiến làm Đại An Phủ Kinh Sư, chuyên về kiểm pháp, sau thăng đến chức Hành Khiển Gián Nghị.
Trần Thì Kiến làm quan nổi tiếng thanh kiêm và công bằng khi xử kiện. Tương truyền rằng có người cùng quê nhân ngày giỗ mời ông mâm cỗ, rồi sau đó ngỏ ý muốn xin xỏ, ông liền móc họng nôn ra trả lại. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét rằng: “Thì Kiến hành động lạ lùng quá mức để uốn nắn cái tệ xin xỏ của người thời bấy giờ”.
Người đương thời cho rằng ông có khả năng “Khả dĩ chiết ngục” nghĩa là khả năng phân tích hết mọi lý lẽ rồi mới kết tội, khiến phạm nhân chịu phục không còn gì để nói.
Vua Trần Anh Tông ban tặng Trần Thì Kiến chiếc “hốt” ngà (“hốt” có nghĩa là “thủ bản” vua quan dùng khi thiết triều để nếu có việc thì ghi chép cho khỏi quên) có khắc bài “minh ngự chế” như sau:
Thái Sơn trinh cao
Tượng hốt trinh liệt
Linh trãi tiến giác
Vi hốt nan chiết

Nghĩa là:
Thái sơn rất cao
Hốt ngà rất cứng
Linh trãi dâng sừng
Làm hốt khó gãy

Vì làm quan thanh liêm Trần Thì Kiến được thăng chức dần lên Tả bộc xạ (tương đương Tể tướng). Các quan đời sau đều xem ông là gương sáng để học tập, vua Tự Đức cũng từng làm bài vịnh ca ngợi tài đức của ông.
Trần Hưng

Nguồn: m.trithucvn.net
Không hiểu được ông Trần Thì Kiến đã dùng kinh dịch như thế nào (có lẽ do ông tiên tri:D)
 

Tam1902

Học sinh chăm học
Thành viên
1 Tháng mười hai 2017
446
283
89
21
TP Hồ Chí Minh
trường Quốc tế Á Châu
K biết Kinh Dịch ngày xưa có thật sự linh n0 k và nó dựa trên cơ sở gì nhỉ :D:D

Ps: kinh Dịch ở triết học đó, 64 quẻ của kinh tiên đoán vận mệnh con người, sự vận động của thế giới khách quan. Nguồn gốc của kinh Dịch chính là thuyết Âm Dương, một phần thuyết Ngũ hành của TQ cổ đại
Kinh Dịch còn được gọi là Bản kinh, gọi tắt là Dịch, thành sách vào đầu thời Tây Chu đến cuối thời Chu, cách ngày nay khoảng 3000 năm. Kinh Dịch do các quái từ (quẻ) và hào từ (hào) tổ hợp thành. Tổng cộng có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào, tổng cộng 384 hào. Truyện dịch có 10 dực (cánh), tức: 10 thiên: thoán thượng, thoán hạ, tượng thượng, tượng hạ, văn ngôn, hệ từ (lời giải quẻ) thượng, hệ từ hạ, thuyết quái, tự quái, tạp quái.
họ dựa vào mấy cái quẻ bói á em, dùng để bói mệnh
 

Tam1902

Học sinh chăm học
Thành viên
1 Tháng mười hai 2017
446
283
89
21
TP Hồ Chí Minh
trường Quốc tế Á Châu
Không hiểu được ông Trần Thì Kiến đã dùng kinh dịch như thế nào (có lẽ do ông tiên tri:D)
những người có thể tiên đoán trước về một sự kiện quan trọng nào đó nghĩa là người đó có sứ mệnh quan trọng, cái này liên quan đến tư tưởng
 
Top Bottom